← Quay lại trang sách

HOÀNG HÔN Laure

Ta hắt hơi, ho, lạnh muốn quéo luôn. Ta đã ăn trưa với Lou, nhưng mãi bốn giờ chiều. Bả làm món gà cà ri. Văn mê món đó, thiếu một bộ dao dĩa, bộ của ổng. Một bên má Lou vẫn sưng, bả day day hai bên thái dương, như thể bị đau đầu, và hầu như chẳng đụng dĩa. Bả chìa cho ta tấm bưu thiếp Văn đã gửi Rachid, với một câu giờ đây dường như chế nhạo: “Lou là sự hoàn hảo phiên bản đàn bà.” Ta đứng dậy đến ngồi cạnh và nắm tay bả. Khuôn mặt bả buồn thỉu, một giọt lệ lăn trên má, bả lén chùi đi. Rồi bả cất tấm bưu thiếp vào ngăn kéo, giữa đống thư chưa mở, tích từ ba tuần nay. Bả đưa ta những hạt thuốc trị bệnh cúm mới chớm của ta và bảo ta đi nằm lại. Bả mang tới cho ta một phích trà nóng. Bả lôi ra từ tủ ở lối vào một cái chăn dày để giữ ấm cho ta. Bả đâu biết ta nguệch ngoạc vào sổ tay suốt đêm đến gần sáng và vì thế bã cả người. Trừ phi là do cú vật của những ngày vừa rồi, khi ta lơ ngơ, khi tất tật đều nhắc rằng sẽ không còn bao giờ Văn chiếu phim cho ta, đọc cho ta nghe những khúc balad của Villon, càu nhàu chữa lỗi tiếng Pháp của ta, cho ta khám phá những sắp đặt của các nhà quay phim điện ảnh, trở về nhà với hai tay trĩu sách mua ở hội chợ sách cũ, đi cùng bọn ta đến vùng nội địa Provence, tranh luận với Hugues và Rachid về những người Mỹ theo chủ nghĩa cực thực hoặc những nhà làm phim Iran, cạn chai vang Bordeaux, nấn ná đi cày, đọc cho Lou và ta những trang viết của Roberto Bolaiĩo, bật cho bọn ta nghe những đĩa CD của John Zorn, uống say quắc cần câu các tối sau khi đã nộp bông bài, mang về cho bọn ta cá hồi hun khói và cây nấm bằng sô cô la những ngày phởn chí tang bồng, đi cùng Lou tới Cartoucherie de Vincennes xem một vở kịch của Tchekhov, cùng bọn ta píc níc ở công viên Belleville, đi dạo bờ kênh Ourcq, ăn tối ở Đồng Hương, nhà hàng Việt trên phố Louis-Bonnet với các đặc sản hấp dẫn. Không còn bao giờ ổng trêu Lou hơi tí là khám thầy vi lượng đồng căn, trêu ta khác biệt lũ con gái cùng lớp vì cái look bụi bụi. Không còn bao giờ ổng buộc ta học gạo vật lý, phím bài dịch xuôi tiếng Anh cho ta nữa, gọi ta là “quạ con” khi ta vận đồ gothic, “tiểu ma cà rồng” khi ta đánh sơn đen, cho ta mượn cuốn Con dơi vàng của Edward Gorey, các đĩa nhạc của Carlos Gardel và Marianne Faithfull, catalog triển lãm tranh của Bacon, các tranh của Louis Pons, Gió lùa rặng liễu, với bầy chuột chũi, lửng và cóc, các minh họa trong Thần khúc của William Blake, Chuyện đã trải nghiệm của Artaud-Mômo (ta tìm thấy ở đó những lý lẽ bác bỏ việc giảng dạy: Các trường học, Đại học Sorbonne, các đại học được lập cho và bởi đám dốt đặc cần nghiên cứu để học, và cần học để biết). Không còn bao giờ ổng bảo ta đừng tưởng mình là trung tâm thế giới, phải mở mắt ra và trau dồi mình, để hiểu rằng mình chỉ là một nguyên tử trong vũ trụ. Ta sẽ chẳng phởn toàn tập khi thoát trượt vỏ chuối một cách thần diệu. Không còn bao giờ ổng bình luận những tấm hình ta chụp, khích lệ ta chụp, cắt cho ta những bài báo về Mapplethorpe và Cindy Sherman, làm người mẫu cho ta, ta có cả loạt chân dung của ổng, tìm thấy trên Net cho ta những trang của dân yêu ảnh, dẫn ta đến bảo tàng Lịch sử Tự nhiên xem động vật không xương sống hóa thạch, đến bảo tàng Guimet xem nghệ thuật Himalaya, đến New Morning nghe Carla Bley, đến Nhà sách L’Inconnu tìm kiếm một cuốn bách khoa toàn thư về đạo Vô đu hoặc những lá bài mandala, đến phố Sainte-Anne ăn mì nguội Nhật, đến đại lộ Choisy ăn xúp me chua. Không còn bao giờ ổng nhờ Lou lấy cho mấy điếu thuốc, hun khói bọn ta khi đốt ba bao mỗi ngày, ăn sáng với ta, chuẩn bị cho ta ngày Chủ nhật trứng ốp la, salad hoa quả, nước cam, rủ ta chơi một ván cờ, vẻ ngái ngủ, cười lớn khi ta bị chiếu hết cờ, trừng mắt nhìn ta vì tội hẹn quả lẻ với Tommy, hắn đặt biệt danh cho ổng là “ngoáo ộp”, choảng ta lên bờ xuống ruộng vì thấy cỏ trong phòng ta, cãi vã với Lou vì bả mua cho ta nào thiết bị điện tử, trong khi đã suốt ngày ta ngồi trước con Mac của mình, nào giày Free Lance và áo pull len cashmere, mà rồi cũng nằm xó tủ, hay vì bả cho phép ta đi chơi khuya và lượn lờ ở những nơi ám muội. Không còn bao giờ ổng trở về từ tiệc cocktail của nhà xuất bản, càu nhàu về những kẻ khệnh khạng, những nữ văn sĩ kiểu cách, những giám đốc tủ sách ra vẻ đạo mạo. Không còn bao giờ ổng ca ngợi với ta “tính năng chữa bệnh của sự say” khi chúng ta ở quê và ổng chẳng có gì khác làm ngoài đóng vai gã phục vụ quán rượu, bình trộn rượu trong tay. Không còn bao giờ ta nghe thấy ổng dùng những từ ngữ khó hiểu ấy, ca bài Có phải con người sống như thế, thốt những tiếng kêu lớn khi bản thảo ổng đang chữa chi chít lỗi chính tả, ngáp ngủ những đêm ổng phải phi nước đại. Không còn bao giờ ổng đưa ta tới buổi hòa nhạc của Tinderstick, tới rạp L’Espace Saint-Michel khi có chiếu lại loạt phim về đĩa bay của Pelechian, tới hiệu sách Gibert khi ta tìm DVD Gia đình Addams và những album của nhóm nhạc Noir Désir, tới lâu đài Vincennes khi ta phải làm bài nghị luận về một công trình di sản, tới phố Vemeuil khi ta muốn chụp tranh tường graffiti ngôi nhà của Gainsbourg, tới thư viện Parmentier khi ta cần tài liệu để làm một bài tiếng Pháp, tới Cartier-Bresson khi có triển lãm ảnh của Doisneau, tới những buổi chiêu đãi khi ta nằn nì, tới Saint-Ouen khi ta quá liều lượng hoạt động văn hóa và khi Lou cho ta tiền tiêu vặt, không còn bao giờ ổng đưa ta đến quận mười ba vào Tết Nguyên đán, có múa rồng, không còn bao giờ, vào tháng Tám, bọn ta đi thuyền hoặc đạp xe, không còn bao giờ bọn ta…

Chuông điện thoại cắt bụp chuỗi liệt kê dài ngoẵng ấy. Là Tommy, hắn đang có một đống chuyện muốn kể về Guy Maddin. Ta ừ! ừ! mà đếch hiểu gì. Xem trên YouTube đoạn giới thiệu phim The Saddest Music in the World, hắn quá lắm! Ta đang mất điện, người ngợm tê cứng, chỉ cầm hờ hờ được cây bút. Hai bàn tay cóng tới mức ta phải luồn túi chườm nóng dưới mấy lớp chăn lông. Trán nóng, họng rát, ta gần như mất tiếng. Văn ở đây thì đã cho ta dùng kháng sinh rồi. Chẳng chắc những hạt thuốc của Lou có giúp ta khỏe lại cái rụp. Mà thôi, bả phải biết hơn cái gì hợp với ta chứ. Ta sẽ không chọc giận bả, nói những viên ngậm dược thảo có vị hóa chất và trà của bả khiến ta muốn mửa. Bả đã về phòng, sau khi thều thào rằng có lẽ chuyển nhà đi thì tốt, để không còn phải sống giữa tất tật những thứ gọi tới Văn. Bả sẽ thuê một căn hộ nhỏ hơn, ở một khu khác, hà cớ gì không ở phía chợ Aligre, hay vùng tả ngạn, gần phố Daguerre chứ. Ngay cả khi hiểu những lý do của bả, ta cũng thấy khó rời căn hộ ba gian Văn đã chọn cách đây mười bảy năm. Với ổng, chúng ta đã có ở đây những khoảnh khắc đẹp. Cũng chính Văn đã chọn đồ đạc, sơn lại tường màu trắng ngà. Bỏ căn hộ này đi quá bằng chôn ổng lần thứ hai. Ta sẽ khổ sở nếu sống ở một nơi ổng chẳng để lại dấu vết gì. Ta nào gieo trồng những u ám, nhưng sẽ còn bối rối hơn nếu chẳng còn được trông thấy đồ của ổng, chẳng được lặp lại với lòng mình rằng ổng chỉ ra quán ở ngay góc phố và sắp về thôi. Chưa chi ta đã giận mình vì chẳng là đứa con gái như ổng mơ ước, thông minh siêu đẳng và mọt sách. Ta nào phải một íashion victim đếch có gì trong sọ, nào phải ranh con muốn làm gì thì làm, mà ta cũng đâu báu gì. Thiếu quần áo bụi bặm, ta đâu gây đuợc chú ý. Ta ghét giống đám đông. Văn bảo phải phá cách.

Ta nửa Việt nửa Pháp, chẳng giống lũ con gái có cha mẹ chính cống nơi đây. Ta sẽ luôn ở giữa hai dòng, ngay cả nếu cha ta không đích thị là châu Á, ngay cả ta đếch biết gì nhiều về đất nuớc của ổng. Bao giờ hai mươi tuổi, ta sẽ đi Sài Gòn cho coi, giống như Ulma. Ta sẽ đi một mình và sẽ mail cho Lou báo cáo về chuyến du lịch. Ta sẽ chụp hình thành phố của cha mình. Ta sẽ đi thăm miền Trung, sẽ dấn tới tận Hà Nội, rồi tận Sa Pa, sẽ ở homestay và leo đỉnh Fansipan.

Văn ngoảnh mặt đi mỗi lần ta hỏi ổng vì sao không lấy vé đi Việt Nam. Ông nhún vai và nhăn mặt, cứ như ta chạm vào một điểm nhạy cảm vậy. Lou bảo ta cho ổng xin hai chữ bình yên và chớ đề cập chủ đề khiến ổng đau khổ nữa. Nào phải vì ổng nhớ quê, mà vì, như Lou đã viết cho Hugues, “mẹ anh ấy vẫn sống trong lòng anh ấy: gợi nhắc chuyện trở về cố hương khơi lại nỗi đau chua bao giờ gặp lại mẹ”. Thế là ta chẳng buồn nói về ngôi nhà tuổi thơ của ổng nữa. Ta có trong đầu những hình ảnh quen quá hóa thường của Việt Nam: ở tỉnh lẻ, nhà cửa đều có mái như mái chùa, chợ là chợ nổi, dân nghèo từ ngày độc lập không bị đối xử như chó, bữa ăn chỉ tí cơm với cá khô, buổi sáng người già tập thể dục trong công viên theo nhạc quốc ca phát trên loa phóng thanh, đó là một mảnh đất thần tiên, ngày nào cũng có những điều kỳ diệu, đến chính ủy cũng đếch chống lại được những tín ngưỡng đã ăn sâu, nhà sư vận cà sa vàng được sùng bái như thánh nhân…

Để kết thúc chuyện này với những lời sáo, ta sẽ phải nạp tin tức, đâu giở mấy cuốn hướng dẫn du lịch hay lang thang hết trang mạng này đến trang mạng kia được, mà phải đọc những cuốn sách cho ta một cái nhìn tổng thể về các phong tục tập quán của cái dân tộc ta thuộc về (dù chỉ tí chút). Tới bấy giờ, ta chỉ có cái nhìn hạn hẹp. Trước khi Văn mất, ý nghĩ đi du lịch Việt Nam chưa bao giờ lướt qua ta. Ta thuộc về phương Tây, mặc dầu có cha xuất thân châu Á. Vì ổng rành tiếng Pháp, nên dễ hòa nhập, ngay cả là, sau ba mươi năm lưu vong, ổng không hòa nhập tới mức hòa tan trong đám đông, hay trở thành sao y bản chính của bất cứ người Paris nào. Ổng nhất mực là kẻ xa lạ, khoái tuốt tuột những gì thuộc tứ chiếng.

Bản thân ta, ta là ai? Một đứa lai Âu-Á như Ulma ư? Hay là người Pháp chính tông, mặc dầu mắt xếch? Cho tới hôm qua, ta vẫn không đặt câu hỏi ấy cho mình. Khi mười tám tuổi, ta có là công dân hạng hai do cha thuộc diện nhập tịch không? Lou nói bả không thuộc về Bretagne (Bretagne = mẹ bả), Văn đếch có gì của một người Việt chính cống. Cội rễ ta ở đâu? Bắt rễ ở nơi nào đó có phải là điều cốt tử? Nếu đi Sài Gòn, người ta sẽ nhìn ta thế nào? Ta có như một nữ khách trong số bao du khách không? Hay người ta xem ta như đứa con gái trong đám con của lính Mỹ với những người đàn bà nơi đó?

Ta đã từng rất thích đi cùng Văn tới Hà Nội, nơi ổng chẳng biết quái gì, vì, trước khi chiến tranh chấm dứt, dân miền Nam đâu vượt vĩ tuyến mười bảy được. Ulma từng được người Sài Gòn đón tiếp tử tế không? Trong những năm mụ đến đó, Việt Nam bắt đầu chính sách mở cửa, nhưng vẫn còn là một trong những pháo đài của cộng sản. Theo thư từ viết cho Văn, mụ đã nói chuyện với mấy người dân và họ than vãn quan chức vơ vét sạch. Tham những trở thành môn thể thao quốc gia. Tuốt tuột đều tham những để thu hoạch có khi chỉ vài vụn bánh. Nhất là Việt kiều, thường bị đám hải quan giở trò chỉ vì thiếu một giấy tờ vớ vẩn nhất và họ phải tuồn vài tờ xanh mới được cho đi. Hồ Chí Minh phải phẫn nộ nếu thấy vậy cũng nên: một số trước kia từng là bộ đội, một khi có tí quyền chức rồi, trở thành những kẻ tham tàn đích thị. Một số nhà báo tố giác sự tham những đại trà ấy, nhưng họ đâu phải tiên tri ở nước mình. Đôi khi, một viên chức bị bắt vì lấy tiền móc ngoặc, nhưng việc đó chẳng thay đổi gì trong những thói quen này. Người ta cũng nói với Ulma rằng một viên chức loại vét đĩa nhất mà giữ tí quyền một cái là lạm dụng. Đó là miền viễn Tây Far West. Đâu rồi hạt giống tốt Bác Hồ đã gieo? Khắp nơi trong các thành phố, những khẩu hiệu đẹp đẽ được nhắc nhở, nhưng phần lớn cán bộ nhà nước đều có vẻ cho vào quên lãng rồi. Cha của Văn và Ulma liệu có giống đám người đó nếu còn sống tới ngày thống nhất đất nước không? Hẳn vẫn có những người trong sạch và cứng rắn, không phản bội, nhưng họ lại trong sạch và cứng rắn đến mức bảo thủ.

Văn đọc một số tác giả Việt qua bản dịch vì hầu như đã quên hết tiếng Việt. Có quên được một thứ tiếng khi đã tắm mình trong đó tới mười lăm tuổi không? Một cách vô thức và theo bản năng bảo tồn, sau khi mẹ ổng mất, ổng rời xa mọi thứ có liên hệ tới quê hương. Ổng nói ổng không “mất văn hóa của mình”, nhưng lại đóng đô ở Pháp, chi bằng thuận theo những cách suy nghĩ mới. Ổng cũng nói rằng ổng mang tổ quốc trong mình và không ai tước đi được. Ông một mặt hướng về Đông, một mặt về Tây. Với ổng, có hai cực là một may mắn. Còn hơn một người yêu nước sinh ra ở đây, lớn lên ở đây, héo hơn ruột tằm ở đây, chưa bao giờ nhấc chân khỏi xó quê, và không kỳ thị, nhưng má ơi, lũ chà chệt ấy cứ tưởng họ đang ở nước mình cơ đấy.

Mẹ của Lou thuộc loại đó. Văn thấy nực cười khi cưới con gái một kẻ bài ngoại bị ám ảnh bởi nỗi sợ lũ mọi lan tràn. Tư tưởng của bà ngoại ta được hình thành từ lâu dựa trên những nguy hiểm của nồi lẩu melting-pot. Và Lou dám đưa vào gia đình da trắng này một kẻ không biết từ đâu tới! Hơn nữa, bả lại có một đứa con với kẻ này! Bà ngoại khốn khổ của ta, đếch thèm hỏi thăm tin tức của ta, gần như bị một con nhồi máu cơ tim. Bà ngoại từ mặt Lou và cấm Lou mang cái họ thời con gái, gắn hai họ cha và mẹ. Lou chưa bao giờ trở lại Bretagne, như thể đó là vùng độc chiếm của bà ngoại ta (bả chỉ còn nói về điều này với những lời lẽ sắc như dao). Chẳng ích gì khi ông ngoại ta nói với con gái rằng mình cũng là người vùng Bretagne, mà dân Bretagne thì có truyền thống hiếu khách với những người di cư, Lou vẫn khăng khăng một mực. Vùng Côtes-d’Armor và cả mũi Raz đều chẳng thuộc những điểm đi nghỉ của chúng ta. Văn đến đó năm hai mươi tuổi và giữ những ấn tượng mạnh mẽ. Nhưng Ulma mới là người ổng cùng quay lại đó. Và chuyện này khiến Lou u sầu kinh khủng. Người lớn kỳ cục làm sao! Văn nhẽ ra có thể tránh đi Bretagne, kể cả để viếng thăm ngôi nhà nhỏ của Georges Perros, kể cả có bịa đặt với Lou là nhà xuất bản cử ổng tới một nhà in ở Vendôme. Ổng đâu biết rằng một thám tử, được Lou trả hậu hĩ, đã không rời ổng nửa gót và lập báo cáo về những việc làm của ổng. Nhẽ ra bả có thể tránh nhờ đến một con chồn tinh quái. Không chừng bà ngoại mừng huýnh nếu biết bấy nhiêu đó. Bà ngoại bảo rằng giữa một phụ nữ Pháp và một gã nhập cư, không ổn! May là, ông ngoại không hé một lời về những diễn tiến mới đây của vụ việc, nó giày vò Lou tới mức bả xanh như tàu lá và ở trường, người ta tưởng bả bị bệnh.

Bả không có đầu óc để làm việc, đánh mất nào chìa khóa, nào kính, bả ngủ kém, ăn toàn đỗ xanh, thường dễ bị kích động đến mức khôn hồn đừng trái ý bả, đôi khi bả nói với ta khô khốc, như ra lệnh: “Phải thế này chứ không thế khác”, nhưng có quái gì như bả muốn từ khi xuất hiện Ulma… Ulma! Ulma! Ulma! Có phải mụ là nguyên nhân của mọi chuyện? Nếu mụ không viết cho Văn, nếu mụ chỉ là em gái đơn thuần, nếu Lou say mê hơn, nếu bả và Văn không chìm đắm trong đơn điệu, nếu ổng thừa nhận mình hứng thú với Ulma… Với tất cả những “nếu” đó thì ta chả tiến xa hơn được. Ta không được vò đầu vắt óc nữa, đã khó thở vì ho thì chớ.

Tommy bảo ta, sau khi mai táng Văn, rằng ta đã sang tuổi người lớn. Nhưng ta từ chối bước vào tuổi đó. Ta có phải trở thành người lớn và suy luận khi cuộc đời chơi đểu mình không? Ta có phải lặp lại trước thi hài Văn: “Đó là định mệnh” không? Không, ta sẽ vẫn nổi loạn, vì không làm vậy, ta sẽ chai cứng lại. Ta sẽ không là một người nhẫn nhục, mà là kẻ đấu tranh, Văn từng như vậy theo cách của ổng, ổng tách khỏi chuẩn mực, nói ổng là một người theo chủ nghĩa vô chính phủ xu hướng Bartleby, “thích không” can dự vào cuộc chơi. Bartleby, người chuyên ghi chép trong truyện của Melville, đổ bộ vào văn phòng của một luật gia New York, không phải một kẻ tranh đấu, nhưng gieo rắc nỗi sững sờ bằng sự kháng cự bị động của mình, chỉ với những lời này trên môi: Tôi thích không. Trong nhiều tháng, ta đã cuỗm mẫu câu ấy để ra vẻ ta đây, nhưng đếch ai ở trường để ý đến, thế là, ta lẩm bẩm một mình và cũng như lão này, ta ngoạm bánh quy gừng. Ta cho Tommy đọc Bartleby và hắn cũng thộp cái từ đó, ấy là lời đáp thích khi hắn muốn chặn họng ta. Chuyện đó chuyển sang hài kịch. Lou nổi cáu và cảnh báo Văn rằng, nếu còn nghe thấy cụm từ này, bả sẽ đình công và “thích không chăm lo việc nhà”. Thế là ổng bảo ta cái mẫu câu của Bartleby không phải lúc nào cũng dùng được. Đấy không phải chuyện đùa. Ta sẽ tước mất tính cách mạng của từ này nếu cứ lải nhải nó.

Văn dẫu sao vẫn là một gã kỳ cục. Ổng lúc nào cũng như người trên trời, ổng lạc trên mây, và đâu phải với Ulma mà ổng hạ xuống đất được. Không có lá thư của người em cùng cha khác mẹ, ổng có lẽ đã ít mơ màng hơn, nhưng vẫn cứ ngược đời thế, chẳng làm gì giống ai, tự mâu thuẫn suốt. Giờ đây khi ổng nằm ở nghĩa trang, ta tự hỏi, vào phút cuối, ổng có nghĩ đến ta, hay chỉ tiếc không còn được gặp Ulma, có thấy mình ra đi sớm quá không. Ổng vừa mới hồi xuân đây thôi, nhờ người em cùng cha khác mẹ. Ta không theo tín ngưỡng, bằng không ta có lẽ tự hỏi ổng có đang ở nơi chuộc tội, không chừng ta sẽ giống như những người mê đạo cầu nguyện hòng cứu rỗi linh hồn mình. Ta cố là người theo chủ nghĩa duy lý, tự thuyết phục mình rằng con người đi từ cõi hư vô và trở về cõi hư vô. Nhưng khi đêm xuống, ta tưởng tượng rằng, nếu xác Văn đã lìa cõi đời này, hồn ổng vẫn ám ảnh ngôi nhà của bọn ta. Lập một bàn thờ như những người theo đạo Phật thì có lẽ Lou và ta sẽ được ổng che chở cũng nên. Tommy chòng ghẹo trẹo hàm khi ta nói điều đó với hắn: “Em hâm rồi, gái ơi! Ba của em sẽ không bật mồ sống dậy để về kéo chân các người đâu! Em đọc nhiều tiểu thuyết đen quá đấy!” Không, Văn sẽ chẳng tới kéo chân bọn ta đâu, Lou và ta chả việc gì phải sợ. Ổng không phải người chết hiện về qua Poltergeist(30), di chuyển các đồ vật, nâng bổng bàn ghế, inh ỏi ban đêm cho tới khi gieo rắc kinh hoàng. Không, ta hy vọng ổng đã tha thứ cho Lou cái mà bả gọi là bệnh cuồng sát. Ta mang hoa đặt lên mộ ổng hay làm giống người châu Á là thắp hương? Tưởng nhớ một người chết nghĩa là gì? Ta có tưởng nhớ ổng khi viết vào sổ tay này không? Ở nơi ấy, Văn đâu có quan tâm việc ta tưởng nhớ ổng hay không. Ta viết ra là để cho ta, để không trầm cảm và hiểu rõ hơn. Nhưng ta đếch hiểu rõ hơn, tuốt tuột đều vuột khỏi ta.

Nếu đã có thể đối thoại với Ulma, ta chắc hỏi dồn mụ. Văn đã xử sự thế nào? Liệu rằng ổng có thích chuyện trò không? Liệu rằng ổng có làm mụ cười không? Liệu rằng ổng có uống nhiều khi họ ăn tối cùng nhau không? Liệu rằng ổng có huýt sáo như ở nhà ca khúc Put the Blame on Mame, Boys không? Liệu rằng ổng có cho mụ mượn, như với ta, các truyện ngắn của Lỗ Tấn không? Liệu rằng ổng là người phổi bò hay ngược lại rất nghiêm túc? Liệu rằng ổng có ăn mặc thanh lịch khi đến đón mụ không? Hay suốt ngày đóng áo cổ lọ và áo da đen? Liệu rằng ổng có mang hoa mẫu đơn tới cho mụ không? Những chiếc bánh kem trà xanh của tiệm bánh ngọt Nhật phố Vaugirard không? Những số tạp chí đặc biệt NRF chuyên về các tác giả được yêu chuộng không? Những bản sao tranh của Spilliaert không? Liệu rằng ổng có hút thuốc Camel hay xì gà con, như khi xả hơi giữa hai đợt biên tập bản thảo không? Liệu rằng ổng có đặt món chiên xù tempura ở nhà hàng Hàn Quốc không? Liệu rằng ổng có cho mụ nếm các món của mình không? Liệu rằng ổng có nhấp môi vào ly của mụ không? Liệu rằng ổng có báo cho mụ trước khi ấn chuông cửa nhà mụ, hay đổ bộ bất kể giờ nào ngày lẫn đêm? Liệu rằng ổng có tặng mụ những đĩa nhạc tango không? Liệu rằng ổng có đọc cho mụ nghe không? Liệu rằng ổng có đọc cho mụ cùng những cuốn đã đọc cho Lou và ta không? Liệu rằng ổng có trích dẫn cho mụ những câu châm ngôn mỗi khi đếch biết đáp gì không? Vì sao cả hai đi đến Douarnenez? Vụ họ uống ở quán Duc des Lombards thế nào? Liệu rằng ổng có thường xuyên mail cho mụ không? Liệu rằng ổng có gọi điện cho mụ khi mất ngủ không? Liệu rằng ổng có thề thốt với mụ, như với Lou, rằng dù chuyện gì xảy ra, ổng vẫn bám trụ đồn bốt của mình không? Liệu rằng ổng có nói với mụ rằng những cuộc hẹn lén của họ là tuyệt diệu với ổng không? Rằng ổng còn hơn cả người anh trai, anh sinh đôi của mụ không? Liệu rằng ổng lúc nào cũng sung, hay có lúc sụp cụp lòng? Liệu rằng ổng có tự thấy mình sai vì vụng trộm sau lung Lou không? Hay ổng tự cho mình lương tâm trong sạch? Liệu rằng ổng có kể cho mụ hồi trẻ con thì ổng thế nào, thời sinh viên ổng sống ra sao, hồi bốn tuổi thì ta thế nào không? Liệu rằng ổng có tả mẹ ổng cho mụ không? Liệu rằng ổng có không ngừng nhắc lại thời cha ổng đánh du kích không? Liệu rằng ổng có cỏi lòng cỏi dạ chuyện trò với mụ không? Hay là ổng không nói nhiều quá để khỏi hớ hênh sểnh miệng cái tên Lou? Liệu rằng ổng căng thẳng hay thoải mái? Liệu rằng ổng có nghi ngờ mình bị theo dõi không? Liệu rằng? Liệu rằng?

Lou thể nào cũng phật ý nếu ta mưu toan tiếp cận Ulma. Ta chỉ còn nước là lập giả thiết về những tháng cuối đời của Văn. Ồng Grimaldi, trong các báo cáo, tường thuật chằn chặn sự việc. Ông nói chính xác ở đâu cũng như khi nào Văn và Ulma gặp nhau, ông không nói điều gì kích động trí tưởng tượng của ta, giải thích phần nào lý do vì sao Văn như “bị ma làm”. Những tấm hình của ông cho thấy một cặp như bao cặp khác, khoác vai nhau, đi dọc bờ sông Seine. Chỉ ai bị choáng trước vẻ đẹp của Ulma mới nhận thấy họ trong đám đông đi dạo, mà chẳng biết là anh em. Tuy nhiên, chính những tấm hình ấy đã làm Lou đau nhất, vì Văn không bao giờ đặt tay lên vai bả khi dạo phố, không bao giờ ôm eo bả, ổng có thái độ của một người chồng quá quen hóa nhàm nên khỏi cần nhìn vợ trìu mến, ngay cả khi, thỉnh thoảng Ổng rất quan tâm đến bả. Không có Ulma, bả có lẽ vẫn chịu đựng những bất mãn của mình, có lẽ chẳng nhận thấy là họ không còn như xưa, thời còn đắm đuối cũng nên. Họ đã từng đắm đuối, những năm đầu, cho tới khi ta chào đời gì đó, rồi họ thành cha mẹ nhiều hơn là tình nhân, chăm lo xem ta có làm sao, ta cần gì, để ta lớn lên trong một môi trường không quá căng thẳng, không can dự vào những cãi lộn vợ chồng, không khóc vì họ quăng bát đĩa vào mặt nhau. Họ là cha mẹ tốt, giáo dục ta tốt, không theo chủ nghĩa khoan hòa, mà cũng chẳng ngược đãi ta. Văn có lẽ ít thoải mái hơn Lou, ổng thường theo ta sát gót, kiểm tra xem ta có chảy thây không, có học bài tử tế không, có đang cuốn cỏ hút hít không, có đang phát cú điện cho Tommy không, hay là đang kết nối trên Twitter. Từ mùa thu trước, ổng không còn quấy quả ta lắm, ổng bận tâm với Ulma. Chẳng còn quái gì quan trọng với ổng. Lúc đầu, ta nhẹ hẳn người, chưa đánh hơi thấy ổng giấu giấu giếm giếm bọn ta và rằng tình hình đang xấu đi. Ta, như ba con khỉ bằng đất nung, mù, điếc và câm. Ta nào thấy Lou ngấn lệ lưng tròng, khóa tai và ngậm tăm khi bả bảo ta rằng ổng đang ủ mưu gì đó. Ta nào ăn bánh bơ đội mũ phớt, nhưng với ta, bả nghĩ quàng nghĩ xiên. Nhiều phen, mãi bốn giờ sáng Văn mới mò về, ổng lơ đễnh tới mức mặc áo pull trái, sục giày vải trong nhà xuống phố, cạo râu rách mặt, lẫn các file, lộn các bài gửi đến các nhà xuất bản, không còn ý niệm gì về thời gian, trả lời trật khấc khi bị lôi khỏi sự câm lặng, việc thì lẹt đẹt. Ổng chẳng đi đâu với Lou nữa, chẳng chú ý đến ta hơn tấm vải phủ giường, ổng ở chỗ khác, gần Ulma, ngay cả khi dành cả buổi tối cho bọn ta.

Ta viết, ta viết, và ta vẫn nẫu. Lỗi tại ai nếu chuyện đó kết thúc tồi tệ? Nếu Lou không đứng sau song sắt thì bả có làm lại cuộc đời trong hai hoặc ba năm nữa như thể tất tật chỉ là một giấc mơ tồi tệ không? Hoặc bả có ở giá tới cuối đời, như để chuộc lỗi không? Những ghi chép của ta có đáng gì không? Ta có giữ chúng để lướt đọc những lúc rảnh rỗi hay tống đi? Ngày mai ta còn giữ cuốn nhật ký này hay stop here, vì quá nhiều nỗ lực để rồi những kết quả lại đầy thất vọng? Ta đã ngẫm nghĩ rất nhiều về những điều phải viết ra, vì thế cây viết lướt dễ dàng hơn mọi khi. Sau cái ngày thứ Bảy dài dặc mà ta đã bóc tách tuốt tuột, ta xẹp gí. Hai mắt cay sè, ngón tay tê dại, óc iếc oải vãi. Ta vẫn ở ô xuất phát, trong u tối. Lou và ta, bọn ta có sống thiếu Văn được không? Ổng sắp chỉ còn là một hình ảnh của quá khứ đang lu mờ dần phải không? Cần bao nhiêu thời gian để ta tự nhủ ổng đã chết và chết thật rồi, và để ta đoạn tang được? Giờ này khi Văn nằm trong mồ, ta muốn biết bao rằng, nếu hồn ổng ám nhà bọn ta, ổng tha thứ cho Lou, ổng có những lý do để hài lòng về ta, ổng dõi theo bọn ta và xua tan ám khí đi. Ta muốn biết bao rằng mình không còn là cái hồn đau khổ dặt dẹo từ phòng này sang phòng khác với trái tim quặn đau vì cảm giác trống trải tồi tệ. Ta muốn biết bao rằng Lou đừng lên án Ulma đã đánh cắp Văn của bả, đừng lết bết đến tận Tết Công Gô trong cái mặc cảm tội lỗi. Ta muốn biết bao rằng một ngày mới lên đi và rằng bả và ta, bọn ta lại hứng thú với mọi thứ, vẫn giữ kỷ niệm về Văn. Đóng sổ lại thôi, ngày mai có mở ra nữa không? Có lẽ không nên nhai đi nhai lại. Nói dài nói dại. Đến giờ phải đánh một giấc rồi. Giá mà ngủ say như chết được tới chiều mai!