TRUY ĐUỔI
CON ĐƯỜNG CHẠY QUA LÀNG NỐI LIỀN ĐƯỜNG cái ven biển với trạm điện cách nhà máy điện mặt trời khoảng hai ki-lô-mét. Không biết tại sao khi ra tới đường tôi quả quyết nhất định Giô-ra đi theo đường cái ven biển và không đi đâu khác ngoài Lê-nin-grát.
Tôi cũng sẽ làm như thế nếu ở vào tình thế của hắn. Không thể sử dụng xe lửa điện vì nó quá chậm chạp đối với chúng tôi.
Tôi vội vàng bước tập tễnh về hướng vịnh, tới đường cái ven biển quan sát chung quanh. Bên phải ở hướng Lê-bia-gie, đường cái kéo một vệt thẳng như dây đàn căng, nên dễ dàng nhìn xa tới năm ki-lô-mét. Đúng như tôi dự đoán, không thấy Giô-ra ở phía đó.
Bên trái, hướng Lê-nin-grát, con đường bắt đầu đi theo hình pa-ra-bôn dài, một đầu dựa vào những ngôi nhà cuối làng, còn đầu kia là trạm điều dưỡng Đuôi Sói. Vịnh Phần Lan ở đây trông chẳng khác nào cái vũng nhỏ, con đường trồng cây dẻ uốn lượn theo khúc cong của bờ biển.
Đi bằng thuyền thẳng từ làng đến trạm Đuôi Sói chừng một ki-lô-mét, nhưng đường bộ dài gấp bốn lần.
Đứng bên mép nước ngắm nhìn khá lâu những cây dẻ này, tôi tin rằng Giô-ra đi Lê-nin-grát, và nhận thấy dường như có một vật gì đang di động giữa các thân cây.
Bất ngờ tôi nảy ra ý định phải lao ngay xuống nước, đi tắt để đón đường tên lưu manh chạy trốn và tóm lấy hắn ở đâu đó trước khi hắn đến trạm Đuôi Sói.
Trước kia tôi đã nghĩ, với tốc độ vận động khổng lồ của mình tôi có thể đi trên mặt sóng như trên đất liền. Bây giờ trước mắt tôi có cơ hội tuyệt vời để thử nghiệm điều đó. Thử nghiệm này chẳng mạo hiểm lắm, bởi vì độ sâu ở đây không đáng kể, và ngay chính giữa vũng, nước cũng chỉ sâu đến ngực.
Anh thử hình dung xem tôi đã đi trên mặt nước như thế nào?
Không biết có thể so sánh với cái gì cảm giác đầu tiền nảy sinh khi tôi bước xuống làn sóng bất động. Đó hoàn toàn không phải là cảm giác khi ta bước đi trên mặt sình lầy mà vừa bắt đầu sụt xuống lại vội vàng rút chân lên ngay. Cũng không phải cái cảm giác khi di chuyển trên mặt cát rời.
Chân tôi không bị sụt sâu, giống như đi trên một cái màng mỏng, một màng mỏng đàn hồi. Lúc bước đi tôi luôn luôn có cảm giác như chân sắp sửa sụt xuống, nhưng trước khi điều đó kịp xảy ra tôi đã rút chân lên đi tiếp.
Một lần, đến gần giữa vùng, tôi phải dừng lại vì đạp thủng cái màng đàn hồi, khiến tôi từ từ sụt xuống nước. Nhưng lập tức tôi trồi lên và lại đi tiếp.
Có thể nói, do tác dụng của tốc độ vận động, nước đã thay đổi tính chất của nó khá rõ rệt đối với tôi. Tôi dự tính là mình đã đi được khoảng một ki-lô-mét sau hai phút rưỡi. Một thành tích không phải xoàng, với cái chân dập nát của tôi.
Lên tới bờ, tôi đi xuyên qua những bụi cây trăn để ra đường cái. Tôi mỉm cười khi nghĩ tới bộ mặt Giô-ra sẽ thay đổi ra sao lúc gặp lại tôi.
Song, tôi lại không được nhìn thấy vẻ bối rối của hắn, vì trên đường chẳng thấy Giô-ra đâu cả. Cho tới lúc này, tôi vẫn không biết sẽ gặp lại cái gì ở bờ vịnh bên kia. Có thể, đó chỉ là cái vệt tối mờ do sự mệt mỏi thần kinh mắt tạo ra.
Khi quay về làng tôi gặp mấy cái xe buýt trên đường. Một cái đi Lê-nin-grát vắng người, còn hai cái đi theo hướng ngược lại thì bị lún xuống dưới sức nặng của quá nhiều hành khách.
Điều đó đưa tôi tới ý nghĩ hôm nay là chủ nhật. Ngày nghỉ lẽ ra được nghỉ ngơi tôi lại chạy rông trên đường theo tên kẻ cướp...
Khi ấy, lần đầu tiên tôi hiểu hết sức rõ ràng khái niệm “tự do” đối lập đến thế nào với khả năng làm mọi điều ta muốn. Thật sự, có thể làm được mọi việc mà lòng tôi mong muốn, kể cả chạy trên nước. Nhưng tôi lại cảm thấy mình tựa như một người tù đang bị giam một mình. Mọi người đi tắm nắng, bơi lội, thăm hỏi bạn bè, còn tôi thậm chí không thể kể được với ai về những chuyện kỳ quái mà mình phải chịu đựng.
Về sau, khi tình trạng quái lạ này còn kéo dài thì tôi còn trở lại với ý nghĩ trên vài ba lần nữa.
Tự do – trước hết đó là khả năng tự do giao tiếp với mọi người, nếu con người không có khả năng giao tiếp với mọi người thì mọi cái khác đều vô nghĩa.
Trong khi nghĩ về điều này, tôi về đến làng lúc nào không biết và dừng chân trong nỗi phân vân.
Đi đâu bây giờ? Đến An-đrây Mô-khốp để nhận câu trả lời cho mẩu thư ư? Về nhà, để ăn qua loa chút gì chăng? Tôi cảm thấy đói ghê gớm. Nói chung, chúng tôi nhận thấy hay muốn ăn hơn bình thường nhiều, có thể vì chúng tôi luôn luôn ở trong trạng thái vận động.
Tìm ở đâu ra cái thằng Giô-ra ấy bây giờ?
Tôi gần như chạy phóng tới ga xe lửa điện và tìm hắn ở đấy một lúc. Chuyến tàu từ Lê-nin-grát vừa đến ga, sân ga đầy người kẻ đưa người đón. Những ông bà ăn mặc gần như ngày hội, những thanh niên đeo ba-lô, vài người đi xe đạp.
Trong cuộc sống thực thì ga này có lẽ rất náo nhiệt nhưng đối với tôi tất cả chỉ là một đám đông những ma-nơ-canh lôi từ các tủ kính của cửa hàng bán quần áo may sẵn ra. Trên một bậc thềm đi từ sân ga ra đường, có một em bé hai tuổi mặc bộ quần áo lính thủy đứng cạnh người ông đang đặt tay lên vai em giữ cho khỏi ngã. Khuôn mặt tròn trĩnh xinh xắn nở nụ cười vui sướng. Cặp bố mẹ hạnh phúc đang chìa tay ra đón em. Tôi có cảm tưởng như họ đang diễn tập để chụp ảnh một cảnh gia đình hạnh phúc: “Mi-sa gặp bố và mẹ”.
Đến đây, lần đầu tiên tôi cảm thấy xấu hổ vì mình không giống như mọi người. Sau này cảm giác đó ngày càng lớn lên trong tôi.
Một cảm giác nặng nề đè nặng lên tôi vì chung quanh mọi người đều ăn mặc tử tế, sạch sẽ và vui vẻ, còn tôi thì lang thang trong bộ pi-gia-ma bẩn thỉu rách nhiều chỗ, mệt lử và râu ria tua tủa không cạo. Dù không ai nhìn thấy mình vì tôi không ngừng di chuyển nhưng cảm giác xấu hổ ấy không vơi đi trong tôi.
Nhìn lại sân ga lần nữa, đến con đường dẫn đến Lê-nin-grát nằm kề bên đường xe lửa, tôi thấy Giô-ra đã ở phía trước khoảng tám trăm mét. Cuộc truy đuổi kéo dài tới hai giờ liền. Nói đúng ra không phải là cuộc truy đuổi. Giô-ra không chạy trốn tôi, hắn đâu có biết tôi đang cố đuổi kịp hắn.
Gần ga Xpoóc-tip-nai-a ở cách ga chúng tôi sáu ki-lô-mét, suýt nữa tôi tóm được Giô-ra, vì hắn dừng lại để lục túi một người đứng tuổi, có vẻ là một giáo sư, trong bộ âu phục màu tro. Lúc đó tôi ở cách hai người khoảng trăm mét và giấu mình trong bụi cây vì sợ Giô-ra nhận ra. Sau đó tôi len lỏi qua các bụi cây để tiến đến, nhưng Giô-ra đã làm xong công việc của hắn, vứt cái ví của ông ta xuống đất và nhanh chóng đi tiếp.
Cái ví vẫn nằm nguyên như thế trên mặt đường khi tôi đi ngang qua người đàn ông đứng tuổi. Áo vét-tông của ông ta rách toang.
Nói chung toàn bộ tính chất không tự nhiên và thậm chí hoang dại của cuộc truy đuổi này là ở chỗ về mặt thể lực tôi không đủ khả năng đuổi kịp Giô-ra, mặc dù lúc nào cũng nhìn thấy cái hình dáng vạm vỡ với bộ áo vét-tông của hắn ở đằng xa. Chúng tôi đã vượt những xe con, xe buýt và vận động nhanh hơn bất kỳ phương tiện giao thông nào. Trên trái đất này không có sức mạnh nào có thể giúp được cho tôi.
Như ở thời kỳ người nguyên thủy, kết quả chỉ phụ thuộc vào đôi chân. Mà chân Giô-ra lại mau lẹ hơn, bởi vì càng bước đi, chân tôi càng tập tễnh nhiều hơn...
Khi chúng tôi gần đến ga sau, thì xảy ra một chuyện mà cuối cùng buộc tôi phải hoàn toàn từ bỏ cuộc truy đuổi.