← Quay lại trang sách

TỐC ĐỘ TĂNG VỌT

TÔI NHẬN THẤY ĐIỀU NÀY QUA SỰ KIỆN CON dao rơi chậm một cách khác thường khi tôi buông cho nó rơi xuống bàn ăn. Trước đây các đồ vật rơi đã là chậm chạp, thế mà lần này con dao rơi xuống bàn còn chậm chạp hơn.

Rồi tôi gặp khó khăn hơn về nước. Trước đây chỉ mất mươi phút đã lấy được một cốc nước ở vòi trong bếp, bây giờ phải mất mười hai đến mười bốn phút.

Tuy vậy, thoạt đầu tôi chưa chú ý nhiều đến điều đó. Ngủ kỹ rồi ăn trưa xong, tôi lại lần bước sang nhà An-đrây, để cuối cùng nhận được bằng chứng anh đã tin vào sự tồn tại của tôi trong nhịp thời gian khác.

Thật vậy, một dòng chữ đang chờ tôi trên bản vẽ.

“Chúng tôi phải làm gì? Anh có cần giúp đỡ không?”

An-đrây và Va-li-a lại đứng cạnh bàn, hầu như đang lắng nghe cái gì đó.

Tôi có cần giúp đỡ không ư? Chính tôi cũng không biết tôi cần cái gì.

Sau đó tôi còn trao đổi những mẩu thư với An-đrây hai lần nữa. Tôi cho anh biết Giô-ra đang lang thang ở đâu đó, và tốc độ sống của tôi ngày càng tăng. Anh trả lời bằng lời yêu cầu tôi lại hiện ra lần nữa.

Một lần nữa tôi phải ngồi bất động trong văn phòng của Mô-khốp suốt hai giờ rưỡi đồng hồ, và vợ chồng anh lại trông thấy tôi. Nói chung những cuộc gặp gỡ này thật đau khổ. Tôi hoàn toàn không thể kìm chế được nỗi bực tức do sự chậm chạp của những người bình thường gây nên, ngoài ra tôi còn không ngừng rơi vào tình thế khó xử. Tôi hay có cảm giác những cử động này khác của Va-li-a và An-đrây đều liên quan đến mình, nhưng thật ra lại không phải thế. Ví dụ, An-đrây bắt đầu giơ tay lên, tôi liền cho rằng anh định động vào người tôi. Nhưng tay anh đi ngang qua... Một phút, hai phút, ba phút... Đến lúc ấy tôi bắt đầu nghĩ anh muốn chỉ cái gì đó. Nhưng phải năm hoặc sáu phút sau mới vỡ lẽ là anh chỉ sửa lại mớ tóc trên trán.

Hầu như không một lần nào tôi đoán trước đúng một cử động nào đó có nghĩa là gì.

Thời gian rảnh rỗi nhiều, lúc ban đầu tôi không biết đi đâu. Lắm lúc tôi còn có cảm nghĩ mình đã trở thành một Rô-bin-xơn cô đơn vì loài người không sống cùng nhịp thời gian với mình. Liệu tôi có thể về được với mọi người không?

Tất nhiên, tôi suy nghĩ nhiều về sức mạnh nào đó đã xô đẩy tôi và Giô-ra vào tình cảnh lạ lùng này và đi tới kết luận là thuyết của tôi về sét hòn không phải phi lý. Rõ ràng tác dụng qua lại của plát-ma với phản ứng phân hạch u-ran có thể tạo ra những tia bức xạ, về tính chất thì gần với phóng xạ nhưng chưa được loài người biết đến. Nhưng không một ai ngờ rằng những tia phóng xạ có thể ảnh hưởng tới các quá trình sinh học của đời sống.

Tôi đã quan sát được nhiều điều và cho rằng tất cả những gì người đầu tiên sống với tốc độ tăng nhanh đã cảm thấy và nhìn thấy sẽ là bổ ích và quan trọng cho khoa học sau này, nên tôi bắt đầu viết nhật ký.

Lúc này trước mắt tôi là một số trang nhật ký:

Ngày 25 tháng 6, hồi 8 giờ 10 phút, 4 giây

Đã khảo sát đường đi của tia, từ bức tường bảo vệ nhà máy điện đến vịnh. Mọi vật sống trong khu vực này đều sống nhanh hơn. Bụi mẫu đơn bị tia chiếu vào đã nở hoa rất to. Thông thường hoa mẫu đơn nở vào đầu tháng bảy.

Cỏ ở khu vực tác động của tia cao hơn bình thường độ hai ba xăng-ti-mét. Dễ thấy điều đó nếu nhìn từ xa và từ bên cạnh, ví dụ, từ cành thấp của cây dẻ bên phải ngôi nhà.

Ngày 25 tháng 6, hồi 8 giờ 16 phút 55 giây

Khoảng gần bốn giờ của tôi về trước, cậu con trai lớn nhà I-u-scốp ra khỏi nhà và lúc này đang đi trong vườn. Khi quan sát lần đầu mỗi bước đi của cậu mất độ ba phút của tôi. Bây giờ phải mất bốn. Nghĩa là, tôi luôn luôn sống nhanh hơn lên.

Một điều quan sát khác trùng với điều trên. Nước đã trở nên đặc sệt hơn. Tôi đứng được trên sông ở vịnh khoảng nửa giây mà không sụt.

Cùng ngày, giờ này, 28 phút

Tôi nện búa vào tảng đá to trong vườn. Búa bị bẹp gí như cái bánh tráng, tưởng như nó làm bằng đất sét. Nện thêm mấy cái nữa biến nó thành quả cầu.

Cây cối trở nên mềm như bơ. Tôi chặt ngang thớ tấm ván dày một in-sơ dễ như cắt miếng bơ. Nhưng thử chặt nhát nữa thì dao cùn đi và khó khăn mới rút dao ra được.

Thấy trong vườn có con bướm nhưng không sao bắt được, nó bay ra xa tôi. Đây lại thêm một bằng chứng rằng mọi vật sống đều chịu tác dụng của lực. Nhưng còn đồng hồ vẫn chạy như trước.

Thật thú vị nếu kiểm tra được tốc độ lan truyền của sóng vô tuyến điện và dòng điện trong khu vực này có tăng lên hay không. Tiếc rằng, tôi chẳng có bất kỳ dụng cụ nào.

Bằng mấy cú nện vào đá, biến cái búa lúc thành quả cầu lúc thành chiếc bánh dẹt và làm mãi việc đó cho đến lúc sắt vụn nát ra, tất nhiên tôi hiểu rằng những đặc tính vật lý của kim loại vẫn không thay đổi. Cả cái cây mà tôi chặt dễ như cắt bơ cũng vậy. Nhưng sức mạnh những động tác của tôi đã tăng lên một cách khó tin nổi!

“Vậy thì”, tôi nghĩ thầm, “trong tương lai khi loài người có được năng lực đẩy nhanh cuộc sống lên, ta sẽ giành được quyền lực bổ sung to lớn đối với tự nhiên.”

Vì nếu xét cho cùng thì toàn bộ quá trình sinh học trên trái đất – trong đó có con người – đã phát triển trong sự hài hòa hoàn toàn với thế giới vô cơ. Kết quả là cơ thể người phụ thuộc vào cùng những qui luật trọng lực như đá chẳng hạn. Ngoài ra, con người cũng chậm chạp như phần lớn các động vật. Vì ở đây không chỉ là sự hài hòa, mà còn là sự phụ thuộc như nô lệ. Đá không đứng yên trong không gian được vì tỷ trọng của nó lớn hơn tỷ trọng của không khí, và người bây giờ cũng không bay được nếu thiếu những thiết bị đặc biệt.

Con người có suy nghĩ và viên đá thạch anh hoàn toàn bình đẳng trước trọng lực.

Giờ đây tôi thành người đầu tiên nhận biết đã đến lúc có thể phá vỡ sự bình đẳng không tự nhiên này. Với những cánh đơn giản bằng nhôm hay chất dẻo, con người nhận được xung lượng của gia tốc sẽ treo mình được trong không trung do làm vài chục cái vẫy trong một giây.

Con người sẽ học được cách đi trên mặt nước. Họ sẽ không sợ rơi từ độ cao không lớn, bởi vì gia tốc rơi tự do hình như vô cùng chậm chạp đối với họ.

Những khả năng sản xuất sẽ phát triển rất mạnh. Kim loại và gỗ sẽ trở thành mềm như sáp nhưng không vì thế mà mất tính bền vững của nó đối với tất cả những lực khác của thiên nhiên.

Một lần tôi ngủ mơ sau khi suy nghĩ như trên. Một giấc mơ kỳ lạ, vui thích và sung sướng biết bao.

Tôi mơ thấy đang đứng trong một gian phòng rộng lớn với những bức tường cao bằng xà cừ màu khói. Phòng không có mái và tường bên trái. Tôi đứng đó và trước mặt tôi – ngang trên nền nhà màu khói ấy – có những cuộn bản vẽ không phải bằng giấy mà bằng một thứ vật liệu trơn bóng. Đó là công trình mà tôi vừa hoàn thành.

Bên trái, nơi không có tường, biển trải rộng. Biển miền bắc hung dữ, đe dọa, cuốn về phía tôi trùng trùng lớp lớp sóng dựng đứng. Đâu đó ở bên dưới, sóng đập vào bờ, tôi không nhìn thấy nhưng làm rung lên cả những bức tường và sàn nhà. Trời miền bắc tái xanh, phủ đầy mây mù xám ngắt, và chỉ ở chân trời mới có một dải trong vắt lấp lánh của bình minh vừa rạng. Vạn vật ngụp trong tươi mát, dưới sức mạnh đến kỳ lạ của thiên nhiên. Còn tôi, vừa mới hoàn thành một công trình vô cùng khó khăn phức tạp, công trình vĩ đại được ghi lại trên những bản vẽ, cảm thấy mình là chúa tể của cả gian phòng rộng lớn nơi tôi đang ngự trị, của biển, trời và toàn vũ trụ. Tôi cũng hiểu rằng tất cả mọi người – số lớn những người đang ở đâu đây phía ngoài bức tường của gian phòng và sau chân trời dông bão kia – cũng như tôi, cũng là những chủ nhân kiêu hãnh của mọi cái đang tồn tại...

Dù lúc đó còn mơ thấy nhiều hơn nữa, nhưng tôi chỉ nhớ chủ yếu cảm giác tự hào về quyền lực vô hạn đối với vũ trụ mà tôi chia sẻ với tất cả mọi người.

Sau giấc mơ đó, tôi đi lại mấy tiếng đồng hồ khắp cái làng bất động trong tâm trạng sung sướng và thậm chí không còn cảm giác cô đơn đã hành hạ mình bấy lâu nay.

Tất cả lịch sử trước đây thật ra chỉ là tuổi thơ của nhân loại: đã đến lúc con người có thể chế tạo cho mình không chỉ những cái máy và những bộ máy, mà cả những điều kiện vật chất khác cho sự tồn tại, không phải những điều kiện mà động vật thế giới vô cơ phải phụ thuộc.

Tuy nhiên, đấy là những giờ phút yên tĩnh cuối cùng của tôi. Tốc độ sống của tôi mỗi lúc một tăng và bắt đầu cảm thấy mình rất khó sống.

Vào lúc tám giờ mười chín phút, tôi nhận ra mọi động vật sống ở đây tự nhiên có tốc độ vận động càng chậm chạp hơn. Điều đó có nghĩa là bản thân tôi càng sống nhanh hơn.

Không khí dường như càng đặc lại, bước đi càng khó khăn hơn do lực cản của nó. Nước trong vòi cũng không chảy nữa, mà trở thành như que thủy tinh. Có thể bẻ gãy cái que đó mà nó cứ quánh lại lâu trên tay như keo, mãi sau mới loang ra trong lòng bàn tay.

Lúc nào tôi cũng cảm thấy nóng và dần dần bắt đầu đổ mồ hôi. Khi tôi vận động, mồ hôi tạm thời khô đi trên mặt và người. Nhưng chỉ cần dừng lại, lập tức khắp người dính bết một thứ keo sền sệt do mồ hôi biến thành, rất khó chịu.

Mọi thứ đó dù sao vẫn chịu được, nhưng cơn khát thường xuyên hành hạ tôi. Lúc nào tôi cũng muốn uống, mà nước thì chảy từ vòi ra hết sức chậm. May mắn thay, trước đó tôi đã dự đoán được điều đó nên đã mở sẵn vòi trong bồn tắm, nhưng sau mấy tiếng đồng hồ của tôi nước mới chỉ kín đáy bồn. Vì lượng nước ấy chẳng được là bao nên tôi đã cố chỉ dùng nước trực tiếp từ vòi chảy ra.

Lúc đó tôi không nghĩ ra việc chạy sang một căn dã thự khác kiếm một ấm hay một xô đầy nước mà chỉ cảm thấy vòi nước trong bếp và trong buồng tắm là những cái nguồn duy nhất có thể lấy được nước.

Sau cơn khát lại thêm cơn đói. Như đã nói ở trên, tôi và Giô-ra hay muốn ăn hơn bình thường. Có lẽ chúng tôi đã tiêu hao quá nhiều năng lượng trong lúc vận động. Bây giờ gần như tôi không ngừng ăn, ăn bao nhiêu cũng không thấy no.

Nhưng thức ăn lại khó kiếm. Tôi chỉ lấy được ở cửa hàng ba cái bánh mì và hai hộp đồ hộp - tức là cầm vừa trong hai tay. Không thể dùng va-li được vì tôi vừa nhấc quai xách nó đã đứt ngay, còn túi dết thì rách tan tành khi tôi mới thử lôi nó xuống từ trên mắc ở phòng ngoài. (Nói chung, tôi càng sống và vận động nhanh hơn thì mọi vật càng trở nên kém bền chắc hơn.)

Nhưng ba cái bánh mì và hai hộp thịt bò xốt cà chua chỉ đủ dùng cho ba bốn giờ, sau đó tôi lại phải đi ra cửa hàng.

Trước kia, chưa bao giờ tôi cảm thấy cơn đói xé ruột, xé gan, đói đến vàng mắt như bây giờ, kể cả trong thời kỳ Lê-nin-grát bị bao vây. Khủng khiếp nhất là tôi ăn không biết no. Nhai luôn miệng vẫn cảm thấy chưa đủ, chưa no cứ như thức ăn chạy đi đâu mất.

Rồi cái đói nhường chỗ cho cái nóng.

Tốc độ của tôi càng nhân lên, thì cả làng càng đờ ra hoàn toàn bất động. Con trai nhà I-u-scốp sửa soạn tập thể dục, đứng im như tượng.

Không khí đặc quánh lại như keo. Muốn bước đi, phải làm cử động tay như người bơi, không thì không thể vượt qua được bức tường không khí đặc. Tôi thấy khó thở, tim đập mạnh như sau lúc chạy trăm mét.

Nhưng đáng sợ nhất vẫn là cái nóng. Khi nằm không cử động, tôi chỉ thấy nóng, nhưng chỉ cần đưa tay lên là tay lập tức réo oàm oạp như nước sôi. Mỗi cử động đều đốt nóng lên, và nếu cần đi vài bước trong không khí đã đặc quánh, tôi liền cảm thấy như bị luồng gió bỏng rát của sa mạc thổi qua.

Có lẽ tôi sẽ nằm lịm suốt ngày nếu không bị đói và khát giày vò. Nhưng nước có sẵn ở nhà, trong buồng tắm, còn thức ăn thì phải ra cửa hàng.

Trong tình trạng đó đôi lúc tôi nhớ đến Giô-ra. Phải chăng hắn cũng đang chịu những nỗi đau khổ như vậy?

Lúc tám giờ hai mươi hai phút tôi đi ra cửa hàng. Tôi không trình bày cặn kẽ để tả lại cuộc hành trình này. Khi ra khỏi nhà, tôi cảm thấy nếu đi qua vườn không theo đường mòn mà đi trên cỏ, có lẽ không bị nóng đến thế. Thật là một ý nghĩ ngu ngốc, vì tôi trốn đâu cho thoát cái nóng. Nó ở trong tôi, trong những vận động ở tốc độ ma quái của tôi mà chính tôi lại thấy là chậm chạp khác thường.

Do tôi không mặc áo nên tai họa càng lớn. Thoạt đầu tôi nảy ra ý nghĩ lấy khuỷu tay che kín ngực và lấy bàn tay che mặt. Nhưng tay không cử động thì tôi không thể đi xuyên qua được không khí đặc sệt.

Đôi lúc tôi đã ngất đi vì quá nóng. Mọi vật xung quanh trở nên đỏ rực rồi lại tái nhợt đi và bị màng khói xám che phủ. Rồi tôi lại hồi tỉnh và đi tiếp.

Có lẽ mất ba giờ tôi mới đến cửa hàng.

Người bán hàng đứng trong một tư thế lạ lùng. Vẻ tức giận hằn lên bộ mặt có ria mép. Tay ông ta cầm con dao to tướng dùng để thái thịt, đang vung lên trên giá đặt các hộp thức ăn.

Chắc ông ta đã thấy những hộp thịt bò xốt cà chua và gan cá tuyết biến mất, hết hộp này đến hộp khác, và định chặt đứt đôi tên kẻ trộm vô hình. Bản thân sự việc kỳ lạ này không làm ông ta sửng sốt bằng việc ông ta hùng hổ tìm cách trừng phạt lên kẻ trộm. Khi con dao hạ xuống, tôi đã kịp vét sạch cả cửa hàng. Tuy vậy vẫn không kịp.

Điều lạ là sức mạnh của tôi dần dần yếu đi. Bốn mươi hoặc năm mươi giờ trước, khi cùng Giô-ra đến Glu-scô-vô, tôi cảm thấy gần như chúng tôi có sức mạnh vạn năng. Chúng tôi bẻ cành cây thật nhẹ nhàng hoặc uốn cong một cái sắt móng ngựa chẳng chút khó khăn gì.

Nhưng bây giờ, với tốc độ sống và tốc độ vận động tăng nhanh hơn nhiều, sự không bền chắc của mọi vật lại xoay sang hướng khác. Tôi không sao cầm được một vật gì, mọi cái gãy tan, nát vụn, rách bưng ra trong tay. Còn giờ đây tôi lại bất lực vì chính sức mạnh vô hạn của mình.

Thậm chí tôi lấy cho mình cái bánh mì, chẳng khác nào vớt một cái bọt sóng. Bánh mì bở tung ra khi tôi vừa chạm tay vào và không thể nhấc được nó lên khỏi giá.

Đứng một lát bên người bán hàng, tôi ăn từng vốc bánh mì – ông ta vẫn đứng nguyên bất động như thế. Tôi lại rất muốn uống, phía sau cửa hàng có một cột nước, nhưng khi xoay vòi, bắt đầu hút nước và chờ uống được phải mất đến hai ba giờ. Hơn nữa tôi còn sợ làm gãy van vòi nước bởi cử động không cẩn thận của mình.

Rồi mỗi tay một hộp thịt, tôi lê gót quay về.

Tôi vượt qua đường phố đi về nhà, đoạn này là khó khăn nhất trên đường đi đối với tôi. Không cẩn thận tôi sẽ ngã không dậy được. Đến bên hàng rào tôi cảm thấy tin tưởng hơn.

Lúc đi ngang qua nhà Mô-khốp, tôi nhìn vội vào cửa sổ mở rộng của phòng làm việc. An-đrây và Va-li-a đang đứng nhìn lên bàn. Có lẽ họ đợi tôi xuất hiện.

Tim đập dồn dập, và cứ mỗi cử động tôi lại nghe tiếng rít the thé váng óc. Cơn khát ghê gớm làm miệng tôi khô đắng, và cả cái làng lúc thì đỏ bầm lúc thì xanh tái ngay trước mắt.

Tôi nhìn Mô-khốp với nỗi buồn rầu vô hạn. Anh hoàn toàn không giúp được gì dù có biết những nỗi đau khổ của tôi. Không một người nào có thể giúp gì cho tôi.

Trong làng cuộc sống vẫn bình yên như trước. Lúc này là sáng sớm chủ nhật, mọi người sửa soạn đi ra bãi biển. Không một ai ngoài An-đrây và Va-li-a nhìn thấy tôi, và không một ai biết tấn bi kịch đã diễn ra ở đây.

Về đến nhà tôi giở đồ hộp ra ăn – vỏ sắt tây đứt dưới lưỡi dao như tờ giấy – uống no nước rồi ghi nhật ký:

Cũng ngày trên, 8 giờ 25 phút 5 giây

Hình như tốc độ sống của tôi đã gấp 900 lần bình thường. Có lẽ còn hơn nữa.

Có một người đàn ông và một người đàn bà đi từ đường cái về hướng nhà ga, với chiếc va-li to màu đỏ trong tay. Lúc họ đi tới cổng vườn nhà tôi, thì tôi đã chết.

Tôi chui vào buồng tắm nằm sấp xuống bắt đầu húp cái chất đông sệt, tức là nước, với niềm thích thú mãnh liệt.

Tôi chờ chết! Tôi chỉ tiếc là không phải tự mình đã làm cái thí nghiệm khủng khiếp này: cái mãnh lực chưa từng biết đã ngẫu nhiên ập xuống đầu tôi. Bỗng nhiên những vần thơ Léc-môn-lốp thoáng qua trong đầu tôi:

Dưới lớp tuyết của nước Nga lạnh lẽo,

Dưới cát bỏng của những kim tự tháp...

Có thể vì tôi lại bị cái nóng đáng sợ này thiêu đốt nên đã mê đi và bám lấy những câu thơ trên như người chết đuối bám vào cọng rơm.

Dưới cát bỏng của những kim tự tháp...

Sau đó tôi nghe thấy tiếng rên rỉ... Tiếng rên của con người... Có lẽ âm thanh đó đã vang lên tới ba lần, lúc đó tôi mới hiểu đó là cái gì.

Vì gắng gượng ngồi dậy, nên cả cái lưng tôi như phải bỏng. Tôi nhìn qua đầu buồng tắm ra ngoài. Trên sàn hành lang, Giô-ra nằm đó. Tôi nhận ra hắn ngay nhờ chiếc áo vét-tông kẻ sọc, dù áo đã rách tả tơi và bị cháy xém ở nhiều chỗ.

Thật kỳ lạ, một sức mạnh nào đó giúp tôi bò ra khỏi buồng tắm đến bên Giô-ra và lật ngửa hắn lên. Có lẽ số phận tôi cũng như vậy. Không còn là mặt nữa, mà là một khối đỏ ngầu sưng húp với đôi mắt trũng sâu, cái miệng há ra đen ngòm.

Phải chăng sự tăng vọt tốc độ đã chụp xuống đầu hắn lúc ở cách làng khá xa. Hắn cảm thấy mỗi lúc càng khó vận động, không thể ăn uống được, và hoảng sợ. Có thể, hắn đã thử cầu xin mọi người bình thường cứu giúp hắn; và khi hiểu ra là chẳng ăn thua gì cả, hắn liền nhớ đến tôi và quả quyết là chỉ có tôi mới hiểu được và giúp được hắn.

Tôi nghĩ trên những đoạn đường cuối cùng đến đây hắn đã sờ soạng đi chẳng khác người mù.

Tôi lôi hắn vào buồng tắm và thử múc nước ở đáy bồn tắm bằng chiếc ca tráng men. Nhưng cái ca chỉ gạt bắn lên một vệt nhỏ như phôi bào, nó tròn lại trong không và từ từ rơi xuống trở lại đáy bồn.

Lúc ấy tôi liền hốt từng vốc nước một và nhét vào miệng Giô-ra. Hắn nuốt cái chất đông đặc này một cách thèm thuồng.

Đôi mắt hắn hơi hé mở, anh thử đoán xem thấy gì trong đó? Nước mắt! Nước mắt đau khổ! Thật vậy, hắn rất đau khổ.

Tôi bóc nốt khỏi lưng hắn những mảnh áo vét-tông và áo sơ-mi tả tơi bốc khói, kéo hắn vào bồn tắm và giúi mặt hắn xuống chỗ nước còn lại ở đáy bồn.

Sau đó tôi tự nhủ phải cho hắn ăn. Nếu không làm việc đó, thì một giờ sau hắn sẽ chết. Điều đó đã xảy ra với bản thân tôi. Tôi cào ở đáy bồn cho mình vài vốc nước rồi cắn răng, lê bước ra cửa hàng. Không hiểu do đâu, nhưng tôi tin rằng tôi sẽ đi tới đấy và trở về với những hộp thịt cho Giô-ra.

Ngoài vườn tôi phải đè ngực vào không khí đặc sệt, băng qua bất chấp mọi hiểm nguy. Ngực và vai tôi cháy bỏng.

Đến được cổng vườn, nhìn quanh, tôi thấy những người bộ hành mang va-li màu đỏ ở cách tôi khoảng ba chục mét. Họ vẫn đi một cách hết sức chậm chạp đến nổi tôi đã quen coi họ gần như một bộ phận của phong cảnh. Phía trước mặt, trong vườn nhà I-u-scốp, con trai họ vẫn đứng giơ tay lên. Cạnh cậu ta, chị giúp việc Ma-sa vẫn kéo cái tã ở trên dây phơi xuống đã mấy tiếng trôi qua.

Việc khó nhất đối với tôi là vượt qua đường phố. Thu hết sức lực tôi tiến tới một bước... rồi một bước nữa. Tôi nhớ là mình đã rên khá to khi làm việc đó... Và... bỗng nhiên...

Tôi không hiểu ngay được chuyện gì xảy ra.

Một làn gió mát bắt đầu thổi vào vai và bên hông tôi. Người đàn ông và người đàn bà ở bên trái rời khỏi chỗ và lao đến chỗ tôi với một tốc độ khủng khiếp như thể họ sẽ xô ngã tôi bằng cái va-li. Chiếc tã tuột khỏi tay Ma-sa và bay như chim về hướng nhà ga-ra. Cậu con trai nhà I-u-scốp ngồi xuống nhanh như nhà ảo thuật và bắt đầu vung tay ra hai bên.

Cùng một lúc trong tai tôi vang lên âm thanh rất to của đàn pi-a-nô và tiếng sóng vỗ vào bờ vịnh.

Thế giới ngủ đã thức dậy và ùa vào tôi.

Cảm giác đầu tiên là nỗi sợ hãi kinh hoàng xâm chiếm tâm hồn. Tôi quay người lại và chạy lao vun vút qua vườn về nhà.

Tôi vấp ngã đến mấy lần, và thấy hình như mình chạy quá chậm và không thể thoát khỏi những âm thanh to mạnh rợn người và những cử động cực kỳ nhanh ấy.

Tới thềm nhà, tôi lại vấp. Tôi chạy bổ vào bếp và lại vướng chân vào bậc cửa, ngã sóng soài ra sàn nhà.

Thế rồi một loạt âm thanh dịu dàng ùa vào trong ý thức tôi, làm tôi hồi sức một cách kỳ lạ.

Nước chảy! Nước chảy từ vòi trong bếp, nước giội xuống bồn tắm. Những bụi nước bay tung trong không. Và bên trên thành bồn tráng men đã thấy nhô lên gương mặt đỏ bầm, sưng húp, sửng sốt của Giô-ra.