Chương 16 CUỘC TRỐN CHẠY VÀ CÁNH ĐỒNG TRẮNG
Tháng Giêng trời giá lạnh khủng khiếp. Nhưng bất kể thời tiết xấu đến đâu, Stephanie vẫn kiên trì ra ngoài trời. Nàng bảo với viên Đại Công tước rằng đấy là vấn đề sức khỏe của nàng. Và nàng đóng vai một phụ nữ kiều diễm, quý mến y, hãnh diện được dựa vào cánh tay y.
Nhiều lần viên Đại Công tước đưa nàng lên tháp pháo đài Malakof. Tuyết đã phủ kín toàn thành phố. Nhìn ra xa, người ta chỉ thấy một khối nhấp nhô trắng xoá, trừ những khe núi là còn đen. Stephanie điệu bộ tươi cười, huyên thuyên trò chuyện như một vị khách nồng nhiệt, trong khi óc nàng vẫn nghĩ đến Pompette đang tê cóng và phủ kín dưới lớp tuyết kia, trong những túp nhà bằng gỗ, bên ngọn lửa leo lét vì không có củi đốt.
Họ ăn bằng gì? Họ kiếm đâu ra củi sưởi. Trong khi ở đây nàng thừa thãi thức ăn và củi đốt!
Rồi René? Liệu chàng đã về Pháp chưa và lúc này có được ngồi bên mẹ chàng hay không? Liệu chàng đã rời khỏi bán đảo Crimée chưa? Stephanie linh cảm thấy René đã thoát chết. Pompette đã cứu sống được chàng. Nhưng René và Pompette, cũng như Achille và vợ con chàng liệu có biết chút tin tức gì về Stephanie không, bởi phía Nga từ chối không chịu trao cho quân đồng minh danh sách các tù binh họ bắt giữ.
Vả lại quân Nga bắt làm tù binh hết sức ít. Họ thường giết ngay những binh lính đối phương họ bắt được và kết liễu ngay lập tức những thương binh bên địch còn lại trên bãi chiến trường.
Rồi các con của nàng? Stephanie cố không nghĩ đến hai đứa con sinh đôi của nàng. Mỗi khi nghĩ đến chúng, lòng nàng đau đớn đến mức không chịu nổi. Đến mùa xuân chiến tranh sẽ tiếp tục và sau khi chiến thắng, quân đội đồng minh sẽ trở về tổ quốc. Bất chấp mọi thứ, Stephanie vẫn tin tưởng nước Pháp sẽ thắng trận. Ít nhất thì cũng là một hiệp ước đình chiến không bên nào thắng và bên nào thua.
Tháng hai bắt đầu những trận bão và mưa tuyết. Tuyết rơi thành từng tảng lớn. Lúc này khó mà lên nổi mặt thành. Tuyết lồng lộn, không thể nhìn xa được quá 10 mét.Gió mạnh gầm rú và những mảng tuyết đập vào mặt như những mũi kim.
Stephanie thầm nghĩ, chính giữa những lúc bão tuyết như thế này lại dễ chạy trốn. Sẽ không ai nghĩ đến chuyện đuổi theo nàng. Vấn đề khó khăn nhất là làm sao ra khỏi thành, làm sao lừa được cặp mắt hau háu theo dõi của mụ Karina, cô gái Anna cùng tất cả những người đàn bà lúc nào cũng canh chừng nàng chỉ trừ khi nàng đi cùng với... Boris... Boris... Ôi, Boris, liệu nàng có còn được gặp lại chàng ở Paris, khi nàng đã trở thành phu nhân René de Guinchamp?
Stephanie hình dung đến lúc đó. Boris và nàng sẽ nhìn nhau và qua ánh mắt họ thầm nhớ lại được nhau. René sẽ giới thiệu vợ với Boris, còn nàng sẽ giới thiệu Boris với chàng. Ôi, Boris thân yêu! Nghĩ đến lúc phải rời xa chàng, Stephanie đau xót. Nàng yêu Boris gần như yêu René, tuy nhiên vẫn có sự khác nhau. Với René nàng đã có cả một quãng thời gian dài dan díu. Còn Boris, mối tình với chàng như một thứ gì thoáng hiện lên, ngắn ngủi nhưng đậm đà biết bao, một mối tình nàng sẽ không bao giờ có thể quên.
Boris là tình nhân của nàng... Một nhân tình tuyệt vời, say đắm, cuồng nhiệt, một nhân tình tôn thờ nàng. Và Stephanie đột nhiên nở nụ cười buồn bã với bản thân: nàng nghĩ, đến lúc nàng già nua bên cạnh René cũng đã già nua, nhớ lại Boris nàng sẽ như khơi dậy trong lòng một cuộc tình nồng nàn, say đắm biết bao của tuổi thanh xuân kỳ diệu, một mối tình điên cuồng, rồ dại và mãnh liệt không bao giờ mờ nhạt trong tâm trí nàng. Một mối tình tuy ngắn ngủi nhưng in đậm trong ký ức thành một vết cháy bỏng.
Boris có được tất cả những gì René thiếu. Boris yêu nàng hoàn toàn vì nàng. Chàng nghĩ đến nàng trước tiên rồi mới nghĩ đến những thứ khác. Trong khi René yêu nàng cũng say đắm như vẫn là thứ tình yêu ích kỷ. René nghĩ đến chàng trước tiên và yêu nàng bởi nàng đem đến cho chàng khoái cảm chàng cần thiết. René trong khi yêu vẫn tự đặt mình lên trên, vẫn mang nét lấn át của giống đực trước giống cái và khi đã thoả mãn, chàng không còn quan tâm gì đến người tình nữa.
Trong khi đó Boris yêu nàng như một tín đồ tôn kính vị Chúa tể. Và lúc nào Stephanie cũng nhận thấy ở chàng niềm biết ơn sâu sắc đã được nàng ban cho chàng tình yêu. Đôi mắt chàng nhiều lúc loé lên nỗi kinh ngạc, như thể chàng vẫn chưa tin chàng được nàng yêu.
Trong lúc ân ái, Boris tuy mê đắm đến mấy vẫn có thứ gì đó kính cẩn đối với nàng. Trong khi René coi việc chiếm đoạt thân xác nàng là điều tự nhiên, là điều chàng được quyền hưởng bởi chàng là đàn ông và nàng là đàn bà. Boris coi nàng là thánh thần còn René chỉ coi nàng là một thứ được đem lên để dâng hiến cho thánh thần là chàng!
Trong những lúc trầm ngâm suy nghĩ, so sánh hai người tình, Stephanie đã rút ra được kết luận như vậy. Cuộc sống hai mặt lúc này đã đẩy Stephanie vào một cảm giác lãng mạn dịu ngọt mà nàng cảm thấy không đủ sức cưỡng lại. Tuy nhiên nhiều lúc nàng bực bội với bản thân. Nàng đổ tội sự yếu đuối của nàng cho thời tiết.
Bầu trời tháng hai vẫn xám xịt, bình minh đến rất muộn, ngày ngắn ngủi như vừa hiện lên đã bắt đầu tàn. Các buổi hoàng hôn sao mà ảm đạm đến thế. Rồi những bữa ăn tối nhạt nhẽo với viên đại tá ngu xuẩn đồng thời lại kiêu căng một cách lố bịch.
Boris không thể đến với nàng luôn, trừ những lúc có chàng bên cạnh, còn thường xuyên Stephanie bị tâm trạng day dứt hành hạ. Ngày nàng càng mong chóng trở lại với đồng đội, nhưng nàng vẫn chưa nghĩ ra được cách nào để thực hiện...
Trong lòng áy náy, khung cảnh nhàm chán, Stephanie chỉ còn trông chờ vào Boris. Nàng khao khát cánh tay chàng, cặp môi chàng. Nàng tự buông thả vào cuộc tình say đắm, cố gắng quên đi mọi suy nghĩ day dứt trong những ve vuốt, âu yếm của Boris. Những lúc đó, nàng hoàn toàn không nghĩ gì hết, hoàn toàn chỉ còn là một phụ nữ dâng hiến thân thể và tâm hồn mình cho người đàn ông cuồng nhiệt.
Một buổi sáng, tiếng động ngoài hành lang làm nàng thức giấc. Hôm nay tiếng bước chân dồn dập bên ngoài, hình như đang có chuyện gì không bình thường. Rồi những tiếng chân chạy rầm rập trong hành lang, ngoài sân, bên dưới. Stephanie vùng dậy, với tay mở một trong hai ô cửa sổ bịt lưới sắt, bất chấp nhiệt độ bên ngoài giá lạnh khủng khiếp.
Từ dưới sân vọng lên tiếng lầm rầm vang động như tiếng cầu nguyện. Người ta nói với nhau giọng hạ thấp và lo lắng rồi lại chạy đi. Chen vào những câu nói đó là những tiếng thét hốt hoảng, những tiếng nức nở. Trong đó nàng nhận thấy cả tiếng đàn ông lẫn tiếng đàn bà. Tiếng náo động mỗi lúc một tăng dần.
Stephanie chợt hiểu: Quân Pháp đang tấn công! Đám người Nga hoảng hốt, cuống quýt, gọi nhau, oà khóc nức nở. Có những nàng giơ tay lên trời, vẻ tuyệt vọng. Họ cầu Chúa Trời che chở.
- Anna! Chị nghe xem họ nói với nhau những gì vậy?
Anna không trả lời mà chạy đến trước pho tượng thánh mạ vàng quỳ vội xuống, lầm rầm khấn gì đó. Stephanie lao đến, lay vai cô ta:
- Nói đi... nói đi...
Anna nghẹn ngào:
- Ngài... Ngài...
- Ai?... Ai làm sao?
Thì ra Sa hoàng Nicolas I đã chết! Stephanie sững người lại, đầu óc nàng rối mù và nàng phải cố gắng thu hết nghị lực để hình dung xem cái tin đó tác động đến nàng ra sao, và đến các chiến binh đồng đội, đến René nữa... Và đột nhiên trước mắt nàng hiện ra hai đứa con sinh đôi đang nằm trong nôi, đúng như hình ảnh chúng lúc nàng chia tay. Lúc này chắc hai đứa con nàng đã cứng cáp lắm rồi. Nhưng hình ảnh chúng trong trí óc nàng vẫn là khi chúng còn non nớt quá mức.
Rồi nàng nghĩ đến René, những lúc cánh tay chàng ôm ghì nàng như gọng kìm, nụ hôn chàng cuồng nhiệt, thân thể chàng đè nặng lên thân thể nàng, miệng chàng thủ thỉ những lời âu yếm, tất cả những thứ đó khiến nàng run rẩy vì sung sướng...
Nàng lại nghĩ đến Boris, người mà nàng sắp phải rời xa. Boris: đấy là kỷ niệm về một mối tình dịu dàng, trìu mến, một mối tình thăng hoa với những vòng tay xiết chặt thân thể nhau. Boris đã tạo cho nàng một ốc đảo xanh tươi, hạnh phúc giữa cơn bão tố đang lay chuyển thành phố Sebastopol và nàng đã được hưởng niềm sung sướng bao nhiêu...
Tội nghiệp Boris, Stephanie nghĩ, ta yêu chàng biết chừng nào vậy mà giữa lúc tình cảm mặn nồng đến như vậy ta phải rời xa chàng. Stephanie biết Boris sẽ đau đớn vô cùng! Nàng cũng đau khổ không kém như chỉ ít lâu nữa nàng đã có vòng tay René ôm ấp... René lại ôm ta vào lòng, vuốt ve âu yếm ta. Ta yêu René đã từ lâu lắm rồi và ta không thể hình dung cuộc sống của ta vắng bóng chàng... Boris, hãy tha thứ cho em. Em biết anh sẽ nhớ em vô cùng cũng như em không bao giờ quên được anh... Boris... Boris. Hoàng đế nước Nga Nicolas I đã chết. Tình hình cuộc chiến sẽ thay đổi theo chiều hướng khác. Thậm chí nhân sự trong Bộ Tổng Tư lệnh Nga cũng thay đổi. Chắc chắn chiến tranh sẽ không kéo dài nữa.
Thái tử Alexandre lên ngôi nối nghiệp cha sẽ chủ trương ra sao đây? Cái chết đột ngột của Sa hoàng Nicolas I sẽ gây ra những lộn xộn và bao nhiêu chuyện phức tạp khác trong chính giới nước Nga. Phải chăng có bàn tay của Chúa?... Lúc này đang tháng ba... Chẳng mấy lúc nữa mùa đông khủng khiếp này sẽ kết thúc và đến mùa xuân...
Boris! Em phải về nước thôi. Em phải về với gia đình, với những người thân thiết của em. Điều đó là cần thiết và em cũng nóng lòng mong như thế.
Bất giác, Stephanie quỳ sụp xuống bên cạnh Anna, trước pho tượng thánh và chắp tay. 10 phút sau, đầu gối mỏi và đau, nàng đứng dậy lấy gối kê xuống sàn và lại quỳ chắp tay dáng điệu cầu nguyện như cũ.
Mụ Karina vào. Stephanie đang tỉnh táo, nhận ngay thấy dáng đi ngập ngừng của mụ. Stephanie thấy việc làm của mình lúc này thật là thích hợp. Nàng bèn tiếp tục quỳ và giả vờ cầu nguyện một cách hết sức thành tâm, mắt không rời pho tượng thánh và hy vọng làm được cho nước mắt chảy ra...
Karina đặt khay điểm tâm lên bàn rồi cũng quỳ xuống bên cạnh Stephanie, trước pho tượng thánh. Stephanie đã làm được cho nước mắt trào ra và chảy ròng ròng trên hai má nàng. Nàng cố tình không nhìn Karina.
Mụ ta đứng lên, ra ngoài. Vài tiếng đồng hồ sau, lúc mụ quay lại để lấy khay điểm tâm, mụ thấy thức ăn trên khay vẫn còn nguyên và vị phu nhân người Pháp vẫn còn quỳ trước pho tượng thánh. Stephanie hầu như không ăn uống gì suốt ngày hôm đó. Nàng đã nhẩm tính một kế hoạch. Nàng chờ Boris, nhưng mãi không thấy chàng. Đến tối, lúc mụ Karina bưng khay thức ăn bữa tối đến, Stephanie mới ngoái đầu nhìn mụ.
- Ta muốn cầu nguyện cho vong linh đức vua, cầu Chúa phù hộ cho hương hồn đức vua được nghỉ ngơi thanh thản bên Chúa. Ta muốn cầu nguyện cho đức vua trong một nhà thờ lớn. Bây giờ Ngài đã về với Chúa, Ngài không còn là kẻ thù của ta nữa. Ta muốn đến một nhà thờ nào lớn để cầu nguyện cho vong linh Ngài... Ta muốn mụ dẫn ta đi... và mụ cầu nguyện với ta...
Nhà thờ lớn! Stephanie, trong những lần đi theo đại tá Kirill Krassotkin, đã đứng trên lũy thành và nhìn thấy nóc của nó. Stephanie năn nỉ mụ Karina. Anna dịch lại cho mụ nghe và Karina tỏ vẻ hết sức cảm động.
Hôm sau, mụ Karina vào phòng mang theo một bọc quần áo nhàu nát rách rưới. Mụ nói gì đó rất lâu với Anna. Rõ ràng là mụ ra những mệnh lệnh và đe doạ cô gái nông nô. Sau khi mụ ra khỏi phòng Anna giải thích cho Stephanie bằng thứ tiếng Pháp rất tồi tệ.
Chị ta bảo ngài Đại Công tước biết ý nguyện của Stephanie đã rất xúc động, thấy người phụ nữ Pháp mà cũng thành kính với đức vua nước Nga như vậy. Ngài cho phép Stephanie đến cầu nguyện ở nhà thờ lớn. Nhưng vì nàng là tù binh, theo quân Pháp, tù binh không được ra ngoài pháo đài. Tuy ngài Đại Công tước chấp nhận cho nàng ra, nhưng với điều kiện nàng không được mặc quần áo đẹp, không được choàng thứ lông thú nào trên người để không ai nhận được mặt. Đồng thời áp giải nàng đến đó là một đoàn người, tất cả đều là phụ nữ.
- Còn ông Boris? - nàng hỏi.
- Ông chủ đã đi Moskva, chưa về - Anna đáp.
Mặc vào người bộ váy áo bằng vải thô của nữ nông nô, rách rưới, nhàu nát trông nàng không khác đám nữ nông nô áp giải. Ngoài cùng nàng khoác tấm áo choàng rộng và quấn khăn quàng kín cổ. Stephanie ra khỏi cổng pháo đài. Mụ Karina nắm một tay nàng, Anna nắm tay bên kia. Đám phụ nữ nông nô bao quanh, vòng trong vòng ngoài.
Cả đám đi trên đường phố phủ đầy tuyết. Vào đến nhà thờ lớn, tất cả quỳ xuống sàn đá cẩm thạch lạnh ngắt, bắt đầu than khóc cho đức vua vừa băng hà và cầu nguyện cho Ngài. Họ đang cầu nguyện thì bên ngoài có tiếng vó ngựa và nhạc ngựa. Rôi tiếng ngựa hí vang động. Vậy là có một đoàn nhân vật quan chức nào sắp đi vào cầu nguyện đây, Stephanie thầm đoán.
Đúng vậy. Thế là cả đám nông nô, trong đó có Stephanie, đều bị đẩy một cách phũ phàng vào chân tường. Vị thống đốc của thành phố Sebastopol tên là Asten - Sacken, cùng với đám người tháp tùng gồm những nhân vật chức sắc của thành phố bước vào.
Đám lính cảnh vệ cầm roi quật vào tất cả những người đang cầu nguyện trong nhà thờ, đẩy họ ra đứng sát các bức tường. Đám đông sợ hãi, chạy toán loạn, chen chúc, giẫm đạp lên nhau trong tiếng roi quất vun vút. Không khí trong nhà thờ bỗng nhiên hỗn loạn.
"Dịp may đây rồi!" Stephanie thầm nghĩ. Nàng cũng bị chen đẩy giữa đám thường dân hỗn loạn. Vừa lách, vừa chạy, vừa nhoài lên, ngã xuống rồi loại nhoài lên, Stephanie mở đường ra phía cổng nhà thờ. Một người ngáng chân nàng, một người kéo rách áo nàng, một người chen làm suýt trẹo cánh tay nàng. Có lúc do mải chen nhau, đầu khăn quàng bịt vào miệng làm nàng nghẹt thở.
Mấy lần Stephanie phải nhoài ra chỗ nào trống một chút để thở. Toàn thân nàng run rẩy vì sợ, mồ hôi chảy ướt đẫm lưng áo. Dạ dày nàng đau quặn, tim đập thình thịch... Cuối cùng nàng đã lần ra được đến cổng nhà thờ.
Bây giờ nàng chỉ còn một mình, không còn ai canh giữ. Một mình lọt thỏm giữa thành phố Sebastopol. Phải làm cách nào để ra khỏi thành phố này. May mắn thay trên người nàng là bộ quần áo rách rưới nên không ai nhận ra nàng. Nàng vội vã rảo bước trên đường phố nhỏ, ra đến một phố lớn. Đi mãi, đi mãi, cuối cùng nàng đã đứng bên rìa thành phố. Trước mắt nàng trải rộng một cánh đồng mênh mông tuyết phủ.
Nhìn những dòng người đi lại trên cánh đồng tuyết, Stephanie đoán được những con đường, đặc biệt nàng chú ý đến con đường đi đến thành phố nghỉ mát Simferopol... Nàng quanh quẩn ra phía đó, đợi trời tối mới dám chạy về phía cao nguyên Inkermann. Giữa ban ngày ban mặt rất nguy hiểm. Cần phải dựa vào bóng đêm che phủ.
Nàng ra khỏi cổng lớn của thành phố. Một cỗ xe trượt ngựa kéo mời nàng dùng... Stephanie lắc đầu từ chối... Cỗ xe chạy đi. Nàng nhìn theo thấy nó theo một đường vòng cung: đó là con đường Yalta, trong khi ta cần con đường đi Simferopol, con đường dẫn ta đến đồng đội, đến những người thân... đến với René... đến với hai đứa con của ta...
Sao hôm nay trời lâu tối thế? Mãi ánh sáng không trầm xuống, mãi chân trời không thẫm đi! Tuy nhiên cả bầu trời trông u ám giống như quang cảnh ban đêm, chỉ thiếu có những chấm sáng của các ô cửa sổ sáng đèn, Stephanie không sao đoán được lúc này mặt trời vẫn trên cao hay đã lặn. Nàng không thể đoán nổi lúc này là mấy giờ.
May mà nàng đã cẩn thận chuẩn bị trước lót thêm lần lông thú vào bên trong tấm áo choàng tồi tàn, và mang theo cả sợi dây chuyền đề phòng nếu cần đút lót ai đó... Nàng nghĩ ở nơi này chắc chẳng kẻ nào dám nhận đút lót của một tù binh để giúp hắn trốn thoát.
Stephanie hiểu rằng nàng chỉ trông chờ vào độc một thứ, đó là ý chí của nàng. Thân thể nàng lạnh giá, bụng nàng đói meo và chỉ có ý chí mới giúp được nàng quên đi tất cả những thứ đó. Nàng vẫn đi đi lại lại chờ đợi. Cuối cùng chân trời cũng thẫm lại và bóng tối bắt đầu lan toả. Lát sau những đường viền của lũy thành Sebastopol, của pháo đài, tất cả đều chìm vào màn đêm.
Dáng vẻ quyết tâm và liều lĩnh, Stephanie xông ra cánh cổng trống trải phủ tuyết. Nàng cố chăng một đường dây tưởng tượng nối nàng với những nơi trú ngụ của quân đội Pháp. Đường dây đó hướng nàng tiến theo. Nàng cứ nhắm hướng đó mà đi, bất chấp mọi trở ngại trên đường.
Nàng vừa đi vừa dò dẫm lớp nền đất dưới tuyết, lê bộ áo quần và tấm áo choàng dính đầy tuyết nặng trĩu. Tuyết ngập đến khuỷu chân, có lúc đến đùi nàng... Stephanie vẫn tiến bước... Nàng vất vả đi như thế trong bao lâu nàng không còn biết nữa. Vấp ngã, đứng dậy, lại vấp ngã, lại đứng lên. Có lúc nàng đưa chân xuống một chỗ trũng, có rút chân lên và lăn lông lốc.
Stephanie vẫn đi. Toàn thân mỏi nhừ, hai chân tê dại, nàng vẫn cố bước. Thỉnh thoảng mệt quá nàng đã định dừng lại nghỉ một chút nhưng rồi lại đổi ý, vẫn cố lê bước. Và ngạc nhiên thay, lúc nãy nàng đói cồn cào, vậy mà bây giờ nàng không cảm thấy gì hết. Phải chăng dạ dày nàng cũng cứng lại như băng rồi.
Thậm chí nàng cũng như tê dại. Stephanie bước như kẻ mất trí, như thể nàng không còn cảm giác, không hay biết gì hết. Hai chân nàng cứ bước, kéo lê nàng về phía trước. Xung quanh nàng là cánh đồng mênh mông phủ kín tuyết trắng xoá như không có bờ bến. Xa nữa thì nàng không thấy gì, bởi trời tối. Nàng đi trên tuyết trắng mờ mờ như kẻ mộng du. Đột nhiên nàng cảm thấy mình bị rơi xuống, một sự rơi đột ngột, phũ phàng khiến nàng choàng tỉnh.
Nàng đã mơ... một giấc mơ tạo cho nàng thêm nghị lực để đi. Nàng mơ thấy René ở phía trước đang chờ nàng... Nàng phải dấn lên, bằng mọi giá dấn lên... đến với chàng và ngã vào vòng tay chàng, vòng tay ấm áp và êm ái... vòng tay nàng đã được hưởng bao nhiêu lần và cũng đã phải chịu bao tháng ngày khao khát...
Stephanie vẫn cắn răng đi tiếp. Nàng đã đuối sức lắm rồi và tuyết trắng đầy xung quanh như một thứ bông xốp níu nàng lại... cầm tù nàng trong chất trắng của nó... René vẫn ở đó chờ nàng... Nàng phải đi, cho dù đấy là điểm cuối của đường đời nàng, là nơi cạn kiệt sức lực nàng. Màu trắng vây bốn xung quanh nàng lúc này đã nhuốm màu chết chóc. Màu trắng của tuyết mờ ảo và lạnh lẽo. Loay hoay vất vã một lúc, cuối cùng Stephanie đã leo lên được miệng khe rãnh và lại tiếp tục đi tới.
Lúc nay không còn là đi nữa mà Stephanie ôm từng cẳng chân nhấc đi. Và mỗi bước nàng phải khổ sở mới rút được cẳng chân ra khỏi lớp tuyết dày quái ác... Lại ngã, lại đứng dậy, lại ngã nữa. Nàng luôn miệng nhắc đi nhắc lại "Không được ngủ! Không được ngủ!..." Bởi hai mắt nàng chỉ chực díp lại. Đôi lúc nàng có cảm tưởng không thể cưỡng nổi cơn buồn ngủ và sẽ ngủ thiếp đi mất... Không, ta phải đi. Bây giờ nàng giống như con thú bị tử thương đang cố lê về hang để nằm nghỉ... để chết ở trong cái hang của nó.
Bên phải nàng, giữa đám sương mù dày đặc hiện lên một ngọn thấp, nàng tưởng đó là một nóc lâu đài nào trong truyện thần tiên nàng đã từng nghe thưở nhỏ... Nhưng đúng rồi, nàng đã nhận ra. Đấy là pháo đài... Và bên trái nàng là cao nguyên Inkermann.
Xa xa, nàng nhận ra hình thù của doanh trại quân đội đồng minh. Đấy là quân Pháp, quân Anh, là trung đoàn Bắc Phi. Đó cũng là Pompette và bao binh lính bạn bè của nàng. Và cũng đến bây giờ nàng mới nhận ra trời đã bắt đầu sáng. Một thứ ánh sáng yếu ớt như thể đang lan toả như sương trên cao nguyên mênh mang.
Bao nỗi mệt mỏi dường như tan biến gần hết. Stephanie hít một hơi dài làn không khí lạnh buốt rồi tiếp tục đi, đi như một kẻ mộng du. Lúc này hình như chân nàng có khỏe lên được đôi chút. Những hình thù doanh trại binh lính đồng minh đang đến gần. Những đốm lửa như những ảo ảnh giờ đã dần rõ nét.
Nàng gào lên... nhưng hình như không ra tiếng, bởi tiếng gào của nàng lọt thỏm vào quãng hư vô và tan biến ngay lập tức. Nàng bất lực giơ cao hai tay. Nhưng làm sao ai thấy được? Vẫn còn khá xa và lúc này chắc chắn mọi người còn đang ngủ say trong các túp nhà gỗ thảm hại, xung quanh những ánh lửa chập chờn kia. Cho dù có ai thức thì họ cũng chẳng nghĩ là lúc này lại có kẻ nào đó lê bước trên bãi tuyết về phía họ...
Đột nhiên nàng nghe thấy một tiếng chó sủa từ nơi xa vọng đến. Một tiếng chó văng vẳng đến tai nàng, nửa hư nửa thực. Toàn thân nàng nhũn ra và nàng không còn đủ sức gượng dậy nữa. Và trước khi rơi vào trạng thái vô thức, nàng vẫn còn cảm thấy như có tiếng chó sủa ở đâu đó. Nàng chỉ kịp thốt lên mấy tiếng "René... René... Boris..." và không biết gì nữa.
Tuyết đã đón nhận nàng như một tấm vải liệm nàng...