Chương 28 ĐÌNH CHIẾN
Stephanie đang ngủ tự nhiên choàng thức giấc vì xung quanh đột nhiên im lặng một cách kỳ lạ. Suốt từ ngày 5 tháng Giêng đến nay, Paris liên tục bị pháo kích, vậy mà vừa rồi đột nhiên mọi tiếng nổ ngưng cả lại. Nàng ngồi phắt dậy, lắng nghe. Chỉ có tiếng tích tắc của đồng hồ treo trên tường.
Nàng đứng dậy, với ngọn đèn đêm soi. Đúng 12 giờ đêm. Thật ra quá mất vài phút. Lo lắng, nàng chạy sang gõ cửa phòng hai vợ chồng Aimé.
- Nóemie! Nóemie!... Không thấy tiếng đại bác nữa!
- Vâng, đúng thế, thưa bà chủ.
- Chính vì thế mà chúng tôi thức giấc - Tiếng Aimé nói - Thì ra chúng ta quá quen với tiếng nổ liên tục. Bây giờ đột nhiên không thấy nữa, chúng ta lại thức giấc! Có chuyện gì vậy không biết?
- Hay quân Phổ ngừng phong tỏa? - Nóemie đột nhiên reo lên.
- Đâu có chuyện ấy được? Vua Phổ vừa mới đăng quang lên ngôi Đại đế Đức* tại cung điện Versailles! Họ đang ăn mừng, chẳng lẽ họ lại ngưng cuộc phong tỏa để ăn mừng? Vô lý!
Lúc này phòng vợ chồng mới mở. Nóemie hiện ra, nét mặt hớn hở:
- Đúng thế đấy, thưa bà chủ! Để tôi chạy ra phố xem sao.
Lát sau Nóemie chạy vào sung sướng nói:
- Người ta bảo ông Jules Favre đã gặp ông Bismar để bàn về chuyện đình chiến!
Sáng hôm sau thì họ được tin chính xác. Hai bên Pháp - Phổ bắt đầu ngồi vào bàn thương lượng điều kiện đình chiến. Và để cuộc thương lượng tiến hành, hai bên tạm ngừng mọi hoạt động quân sự từ 12 giờ đêm. Trên tám áp - phích ghi rõ:
Trong suốt thời gian hai bên ngồi thương lượng, việc pháo kích Paris sẽ tạm ngừng.
Hôm sau nữa, thông báo của chính phủ nói:
... Cuộc phong tỏa thành phố Paris đã kéo dài 4 tháng 12 ngày. Cuộc pháo kích kéo dài trong một tháng... số thương vong tăng lên hơn gấp ba... Trong suốt thời gian đó không một ngày nào chúng ta ngã lòng... Kẻ địch đã khâm phục nghị lực và lòng dũng cảm của nhân dân Paris...
Chiều hôm đó, hiệp định đình chiến được ký kết, bao gồm 11 điều khoản. Nhờ bộ chỉ huy quân Phổ đóng tại cung điện Versailles, một cơ quan bưu chính được thành lập, làm nhiệm vụ chuyển thư không gắn xi qua lại giữa Paris và các tỉnh.
Stephanie không biết nên nói với René thế nào về cái chết của Agnès. Trong lá thư đầu tiên, nàng không hy vọng đến tay chàng, Stephanie chỉ viết rằng sinh nở của vợ chàng vô cùng vất vả. Đứa bé trai mới sinh mà nàng gọi là "Bé" cùng hai chị của nó đều khỏe mạnh, bất chấp những khó khăn về lương thực và củi sưởi. Agnès rất yếu.
Sau đó nàng viết thư đến lâu đài Chaulonniere, đến Vendée, đến cảng Le Harve cho bố chồng, đến Amélie và Madeleine. Trong ngần ấy lá gửi đi, nàng chỉ hy vọng một vài lá đến tay người nhận. Gửi thư xong, Stephanie luôn sống trong tâm trạng hồi hộp đợi chờ. Nàng chỉ đi ra phố với Aimé sau khi người đưa thư đi qua nhà mà không đem gì đến.
Một buổi sáng tiếng chuông ngoài cửa làm nàng giật mình. Nàng không đợi ai ở Paris, vả lại cũng không có ai quen biết còn ở lại đây. Một bác nông dân cao lớn, vạm vỡ đứng chật cả khung cửa. Nàng nhận ra bác giám mã ở lâu đài Fermondy.
- Xin kính cẩn cúi chào phu nhân Bourdeilles! - Bác ta nói.
- Bác ở chỗ phu nhân Resmont đến phải không? bà Amélie và bé Quille thế nào? Bà ấy có nhận được tin của ông Achille không?
- Bà Amélie và bé Quille vẫn bình thường. Tôi được lệnh đem thư đến cho phu nhân.
Stpehanie gỡ xi gắn. Mọi thứ đều ổn. Achille hiện ở binh đoàn sông Loire. René không ở cùng với Achillé nữa.
- Vậy chàng ở đâu? Hay ở Bordeaux, nơi các chính khách tập tụ, nơi Victor Hugo ngồi trên lưng ngựa được lâu...
Stephanie tiếp tục đọc thư. Amélie báo những tin tức về bên nhà chồng trước của nàng, gia đình Dytteville. Hồi quân Đức kéo đến, cả gia đình rời khỏi lâu đài Chaulonniere, đến tránh tại Vendée. Bà Francoise hiện nóng ruột chờ tình hình yên ổn một chút là sẽ đem lũ trẻ về Paris.
Stephanie yên tâm về gia đình, cảm thấy được thoải mái ở lại Paris và đón ngày giải phóng tại đây.
Cuối thư Amélie mời Stephanie đến chỗ chị để "an toàn" hơn, chờ hòa ước được ký kết và chờ kết quả của cuộc bầu cử.
Nàng nhìn người chuyển thư. Bác ta nói:
- Bà chủ tôi đưa tôi toàn bộ giấy tờ thông hành cho phu nhân và hai ông bà Aimé Becave. Phu nhân chỉ cần xin chữ ký và con dấu của tòa thị chính nữa là xong. Bà chủ tôi dặn mời cho bằng được phu nhân và chở cả ba người đến lâu đài Fermondy.
Stephanie cắn môi suy nghĩ:
- Bác có thể chở hai đứa trẻ nhỏ được không?
- Nếu phu nhân ra lệnh - Bác ta nói, xoay xoay chiếc mũ rơm.
- Đấy là hai con gái của ông Guinchamp, cả hai đều rất ngoan. Chúng tôi có tất cả năm người với một đứa trẻ sơ sinh. Nếu đi cả sẽ rất khó khăn và rất có thể không đến nơi được. Cho nên bác hãy chở hai cô bé đi trước, chúng tôi đi sau.
- Vâng, thưa phu nhân. Vậy xin phu nhân xin giấy tờ đầy đủ và sáng mai tôi đợi ở biệt thự Resmont vào 6 giờ sáng. Tôi để xe ở đó.
- 6 giờ kém 15 chúng tôi sẽ có mặt.
Bác nông dân đi rồi, Stephanie chạy xuống bếp:
- Nóemie! Tôi gửi hai đứa trẻ gái đến lâu đài Fermondy. Sáng mai chúng ta đi. Bây giờ chị đi với tôi đến tòa thị chính xin xác nhận.
Việc xin xác nhận vào giấy thông hành không đến nỗi khó khăn gì mấy. Aimé hỏi:
- Bà chủ nhất định không đi đâu, cứ ở lại Paris chăng?
- Tại nếu đi đông quá sẽ rắc rối. Hay anh muốn đi?
- Vợ chồng tôi theo bà chủ. Bà chủ ở đâu, chúng tôi ở đó. Dù ông René Guinchamp nhận được thư của bà chủ hay không thì khi đến Paris ông ấy sẽ tìm bà chủ đầu tiên, thưa bà chủ.
Aimé đã đoán trúng tim nàng. Đúng là nàng chờ René. Về đây, thế nào chàng cũng tìm đến nàng đầu tiên để hỏi tin tức vợ chàng. Stephanie trào lên một nỗi đua đớn. Nàng đã không bảo vệ được Agnès... Không cứu được chị thoát khỏi cái chết. Nhưng nàng còn làm cách nào khác được? Nàng đã làm tất cả những gì có thể.
Stephanie và Aimé ngồi trong xe ngựa, đưa hai chị em Catherine và Juliette đến cổng Neuilly. Tại đây người ta bán không thiếu thứ gì, chỉ phải cái đắt ghê gớm.
Sang đầu tháng 2 trời đã bớt lạnh, nhưng rất ẩm. Hai đứa trẻ gái con của Agnès đi đã được sáu ngày. Ngày nào Stephanie và Aimé cũng ghé qua biệt thự Lomanais. Chị hầu phòng Felibienne ở đó đưa nàng lá thư chị ta mới nhận được sáng nay. Stephanie giật lấy phong bì, vội vã bóc.
- Thư này gửi cho bà chủ - Chị hầu phòng nói.
- Vậy ta phải đưa a? Hay đem ra nghĩa trang?
- Ý cháu không phải định nói thế - Chị hầu phòng nói và lấy khăn tay lau nước mắt.
Thư này René viết từ lâu. Chàng không nhận được tin tức gia đình nên rất lo không biết ba mẹ con Agnès sống ra sao. Chàng dặn vợ nên gặp phu nhân Bourdeilles thường xuyên để dựa dẫm. René còn cho biết hình như Achille bị bắt làm tù binh.
Stephanie từ từ gấp lá thư lại.
- Cậu con bà chủ thế nào, thưa phu nhân?
- Khỏe mạnh.
- Tội nghiệp quá! - Chị hầu phòng nghẹn ngào nói - Gia đình đang đầm ấm, thế mà bây giờ tan đàn sẻ nghé...
- Ta rất thương phu nhân Guinchamp! Nếu có thư nữa, chị đem sang cho ta ngay nhé.
- Vâng, thưa phu nhân.
Vài ngày sau Stephanie nhận được lá thư nữa của René. Nàng run rẩy mở ra. René đã biết vợ mình và hai con gái chàng sang ở với Stephanie. Chàng yên tâm và sung sướng, tin rằng vợ con chàng sẽ thoát khỏi nạn đói và rét trong thành phố Paris bị phong tỏa. Chàng đang sống tại Bordeaux, gần Hội nghị Quốc gia và dặn vợ có thể viết thư đến đó. Chàng tin chẳng bao lâu nữa sẽ được về thăm vợ con.
Vậy là René không nhận được lá thư nàng gửi hôm ký kết đình chiến và chàng chưa biết đã có con trai.
Stephanie miên man nghĩ đến René. Chàng sẽ trở về Paris. Bây giờ chàng góa vợ, tự do, cũng như nàng goá chồng và cũng tự do. Hai người có thể quan hệ thoải mái với nhau. Ôi, René! Chàng là người nàng yêu đầu tiên và vẫn là người nàng không thể quên.
Stephanie viết ngay thư cho Amélie, báo địa chỉ René de Guinchamp và đề nghị Amélie làm cái công việc quá khó khăn đối với Stephanie là báo cho René biết tin vợ chàng đã chết.
Bưu điện chuyển thư rất thất thường nên Stephanie phải viết liên tiếp. Nàng hy vọng đến tay người nhận được một trong hai lá thư đó. Nàng chưa nhận được thư nào của bà Francoise. Tất nhiên đó chỉ là do bưu điện.
Một hôm Aimé ra bưu điện trung tâm bỏ thư về. Mặt anh trông không bình thường.
- Có chuyện gì vậy? - Stephanie hỏi.
- Biểu tình ở phố ngục Bastille.
- Bọn ngu ngốc ấy muốn kỷ niệm năm 1848 đấy mà. Nhưng sao họ không đợi đến lúc quân thù rút khỏi thành phố Paris đã?
- Họ không định đợi.
- Và họ biểu tình! Họ đòi gì vậy?
- Họ đòi có một chính phủ nhân dân, khuynh tả một cách dứt khoát hơn. Thưa bà chủ, hôm này là ngày cuối cùng của chúng ta. Ngày mai quân Phổ sẽ tiến vào Paris.
- Mồng 1 tháng 3! Tôi biết. Tôi không muốn nhìn thấy bọn chúng kéo vào đây.
Nhưng tình hình không diễn ra như vậy. Quân Phổ chưa kéo vào thì ngày 3 quân Đức đã rút khỏi Paris. Cuộc sống dần dần ổn định. Stephanie muốn đến phố Vivienne. Vài ngày nữa nàng cho mở lại văn phòng kinh doanh và mọi thứ lại như ngày trước.
Stephanie và Aimé khoác tay nhau đi trên đường phố. Nghe nàng ngỏ ý định mở lại văn phòng kinh doanh, Aimé không phản đối. Họ càng đến gần khu vực những đại lộ xanh, họ càng thấy nhiều người tụ tập, vẻ mặt phẫn nộ.
- Có chuyện gì vậy, Aimé?
- Dân Paris đã quá mệt mỏi vì những thiếu thốn, gian nan trong thời gian Paris bị phong tỏa. Đến nay họ lại thấy những điều khoản trong hiệp định đình chiến quá nặng nề cho nước Pháp: bồi thường chiến tranh 5 tỷ, nhượng những vùng đất bị chiếm cho Đức và còn nhiều điều khoản tai hại nữa mà bà chủ và tôi chưa biết đấy... Bà chủ không thấy những điều khoản đó vượt quá sức chịu đựng của một dân tộc hay sao?
- Nhưng không thể có cách nào khác.
- Tôi không đủ sức tranh cãi chuyện đó. Nhưng tôi muốn nói với bà chủ chính vì nguyên nhân đó mà người ta biểu tình trên phố xá, người ta phẫn nộ. Bởi nhiều người không chịu chấp nhận sự bại trận. Họ muốn tiếp tục cuộc chiến đấu.
Họ lặng lẽ đi thêm một quãng đường nữa.
Một nỗi lo sợ đè lên trí óc, Stephanie nghĩ đến René, đến cuộc Hội nghị quốc gia, đến hòa bình nhục nhã đó. Một số không chấp nhận. Nàng nghĩ đến Ủy ban Trung ương được thành lập từ tháng 2, do các quận của thủ đô Paris cử đại biểu lên, để bảo vệ bằng bất cứ giá nào nền cộng hòa đang bị đe dọa. Một số người tự xưng là "Phái Công xã". Một số khác chống lại và gọi họ là "bọn công xã rởm!" Nước Pháp bị chia đôi. René đang ở Bordeaux, nàng ở Paris, không được tin tức gì về chàng. René sẽ đi theo Hội nghị quốc gia theo chính phủ... nhưng nếu lại xảy ra xung đột thì sao?
Đến gần phố Abukir, Stephanie và Aimé thấy những tiếng gào thét "Nền Cộng hòa Muôn năm!"
- Ôi, đừng! - Stephanie đứng dừng lại, kêu lên đau đớn - Quân Phổ mới rút hôm qua, hôm nay đã xuất hiện các đám biểu tình! Vậy là không bao giờ yên ổn chăng? Tôi muốn ngủ yên, tôi không muốn suy nghĩ gì hết.
Nàng ngừng lại rồi lẩm bẩm nói tiếp:
- Người Pháp đánh lẫn nhau... nội chiến! Tôi không muốn tin vào chuyện đó, Aimé! Không thể được, ít nhất thì cũng không phải vào lúc này.
Aimé nhún vai tỏ ý mình chịu.
Một đám biểu tình khác hô vang:
- Đả đảo Thiers!
- Đả đảo Trochu!
- Tống cổ bọn ngoại quốc!
Tiếng vỗ tay vang lên. Stephanie cũng lẹt đẹt vỗ theo. Bỗng nhiên nàng ngưng lại. "Tống cổ bọn ngoại quốc!" Nhưng tống cổ bằng cách nào? Quân đội đâu? Vũ khí đâu? Làm sao tổ chức được quân đội trong khi toàn thể bộ máy quân sự của đất nước đã bị đập tan? Đành phải chờ Phải đoàn kết, phải tiến hành lại từ đầu.
Ngày nào họ cũng nghe thấy những tiếng gào thét, những tiếng hô khẩu hiệu như vậy. Mỗi ngày lại có thêm nhiều người giận dữ. Phải ái quốc và phải không nhượng bộ dành vị trí trên đường phố và tranh cướp đồng minh.
Vẫn không có tin tức gì của René. Cứ viết mãi cho chàng, Stephanie đâm cáu kỉnh trước tình hình hỗn độn kia. CHỉ cần có một cái cớ rất nhỏ là cả đám biểu tình lớn thành hình, hô vang khẩu hiệu "Đả đảo hoà ước!" Người ta gọi "Trochu, Favre và bè lũ!" Bây giờ người ta gọi những người ở Bordeaux là "lũ phản bội!"
Lại một quả bom nữa bùng nổ khi có tin Hội nghị Quốc gia từ Bordeaux chuyển về đóng tại cung điện Versailles. Versailles chứ không phải Paris như nhiều người hy vọng. Bởi "Hội nghị Quốc gia không thảo luận giữa nơi đang có ẩu đả!"
Stephanie bảo Aimé:
- Chúng ta đang ngồi trên thùng thuốc súng. Chỉ cần một tia lửa nhỏ là bùng lên thành đám cháy.
Trong thâm tâm, nàng ân hận đã không rời Paris. Nhưng cũng trong thâm tâm, nàng lại thấy không khí sôi động ở thủ đô lúc này hấp dẫn nàng. Luôn nhớ lời Armand hồi còn sống đã kể cho nàng nghe về những thống khổ của thợ thuyền bị bóc lột, tuy cả Armand và nàng đều là nhà tư bản nhưng một mặt nàng duy trì kỷ luật lao động rất nghiêm khắc, nàng vẫn không quen những khoản tiền thưởng, những biện pháp giảm nhẹ tình trạng đói nghèo của người lao động. Nàng đã tạo hãng Dytteville thành một hãng kinh doanh tốt. Công nhân gặp hoàn cảnh đặc biệt, cưới xin, sinh nở, đau ốm, chết chóc, nàng đều có trợ cấp đặc biệt dành cho họ. Nàng còn cho họ vay thêm với lãi suất chỉ mang tính tượng trưng.
Trong suốt thời gian Paris bị quân địch bao vây, phong tỏa, nàng vẫn trả lương đều đặn cho nhân viên và công nhân của hãng. Tuy nền dân chủ có quá nhiều điều quá đáng, nhưng nàng vốn mến hoàng đế Napoléon III. Nàng quý những người cộng hòa nhưng rất lo họ quá vụng dại trong việc quản lý xã hội.
Stephanie về nhà trong tâm trạng bối rối. Nhìn thấy đứa trẻ đang ngủ say, miệng ngậm ngón tay cái, nàng mủi lòng. Tội nghiệp Agnès. Chị ao ước sinh đứa con trai cho René, vậy mà sinh xong thì chị không sống được nữa.
- Thằng bé trông xinh quá, thưa bà chủ - Aimé trìu mến nói.
- Lớn lên chắc nó giống bố nó.
Nàng thoáng thấy Aimé nhăn mặt. Stephanie biết Aimé rất ghét René. Ngay thời kỳ nàng dan díu với Boris, Aimé còn tỏ vẻ tán thành phần nào, chỉ vì anh ta muốn Stephanie không yêu René.
Những tin tức ở Versailles đưa đến làm Stephanie càng sốt ruột. Nàng rất lo cho René. Nếu xảy ra nội chiến, chắc chắn René sẽ đứng về phía chống đối công xã và liệu chàng có an toàn được không?
Hôm đó Stephanie đang ở dưới bếp cùng với hai vợ chồng Aimé và Nóemie thì nghe chuông reo ngoài cửa. Nàng định chạy ra nhưng Aimé ngăn lại:
- Bà chủ để tôi ra xem ai.
Lát sau Aimé vào, nói lạnh nhạt:
- Bà chủ có thể ra được rồi...
Nghe giọng nói của Aimé, Stephanie tim đập mạnh. Nàng tin đó chính là chàng, là René. Quả vậy, chàng đã đứng đó. Không chịu nổi nỗi tủi thân trào lên, Stephanie lao đến nép vào vòng tay chàng. René đến đúng vào lúc nàng mong chàng nhất!
- René! René! - Nàng thì thào.
Nhưng đột nhiên nàng giật mình nhận ra René không ôm nàng mà vẫn buông thõng hai tay, không đáp lại tình cảm bột phát của nàng. Stephnie vội lùi lại. René nhìn thẳng vào mắt nàng, hỏi rất khẽ:
- Agnès đâu?
Bây giờ nàng đã hiểu. Lúc nãy nàng nép vào người René là một cách cho chàng biết Agnès không thể nhìn thấy hai người, nghe thấy hai người được nữa.
- Agnès đâu? - René nhắc lại câu hỏi.
- Anh đã có một đứa con trai.
René vẫn nhìn thẳng vào mắt Stephanie. Nàng không dám quay mắt đi. René trìu mến đặt hai bàn tay lên hai vai nàng. Mắt chàng mờ đi:
- Cô ấy chết rồi phải không?
- Vâng, René. Em xin cam đoan với anh rằng...
- Anh biết em đã làm tất cả những gì có thể được để giúp cô ấy, để cứu cô ấy. Anh vô cùng biết ơn em...
- Cả Aimé va Nóemie cũng cùng với em...
René từ từ quay lại nhìn hai người đó:
- Tôi cảm ơn hai anh chị cũng như đã cảm ơn phu nhân Bourdeilles. Khi được biết vợ tôi sống cùng ba người, tôi rất yên tâm...
- Anh lại đây! - Stephanie cầm tay René kéo đến bên chiếc nôi - Tên nó cũng là René như bố nó. Ý Agnès muốn đặt tên con trai như thế.
René chăm chú nhìn con:
- Lúc sinh, cô ấy đau đớn lắm không? Phu nhân hãy nói đi... Agnès có đau đớn lắm không? Tôi đã không yêu cô ấy nhiều lắm.
René nắm chặt bàn tay Stephanie. Chàng không định khóc, nhưng nước mắt cứ trào ra. Giọng chàng nghẹn ngào:
- Lần này sinh con, Agnès rất đau đớn, vất vả. Chị ấy yếu đến mức không rặn được. May mà chị ấy sinh được một đứa con trai cho anh. Thế là chị ấy đã thỏa nguyện...
- Mộ cô ấy chôn ở đâu?
- Nghĩa trang nhà thờ Père - Lachaise. Em không còn cách nào khác. Em không có cớ nào để xin chôn chị ấy trong khu phần mộ của dòng họ.
René nhìn Stephanie và nàng biết lúc này chàng đang nghĩ về Agnès, về những năm chung sống với vợ. Chàng đang nhớ lại khuôn mặt nhạt nhẽo nhưng tâm hồn tinh khiết của Agnès. Stephanie biết chàng đang hối hận, tự trách mình là đã vô ơn với vợ, đã ích kỷ.
Thấy vậy, Stephanie nói rất khẽ:
- Cho đến giây phút cuối cùng, Agnès vẫn yêu anh tha thiết. Chị ấy để lại cho anh đứa con trai này và đã thỏa nguyện. Anh đã tạo cho chị ấy hạnh phúc. Chị ấy luôn luôn nhắc đi nhắc lại với em như thế. Rằng chị ấy rất sung sướng và biết ơn anh đã lấy chị ấy... Anh không có điều gì phải trách cứ anh cả.
René cúi đầu nhắm mắt lại. Khi chàng mở mắt nhìn Stephanie, một nụ cười buồn vô tận khẽ nở ra trên cặp môi mím chặt. René nói rất khẽ, giọng xúc động:
- Cảm ơn em, Stephanie. Cảm ơn em đã an ủi anh. Cảm ơn em đã thấu hiểu cho anh bằng trái tim của người phụ nữ. Cô ấy khi còn sống đã là người bạn đời tận tuy, và chỉ nghĩ đến anh, đến một mình anh...
- Chỉ một mình anh, đúng thế, René. Agnès suốt đời kể cả đến bây giờ vẫn yêu anh, chỉ yêu một mình anh. Em tin là như thế... Chị ấy sinh ra và tồn tại trên thế giới là dành riêng cho anh...
René đưa tay lên trán, rồi như tự đấu tranh, thốt lên:
- Stephanie! Anh không thể ở lại với em. Anh đã gần như bỏ trốn để lên đây. Anh không thể làm khác được. Lúc này chắc người ta đang tìm anh. Anh phải đi...
- Tại sao anh đi? Tại sao anh ở Versailles?
- Bởi vì đang xảy ra cách mạng. Thiers muốn đưa hết dân Paris đi để đem quân từ bên ngoài tấn công vào thành phố, đập tan cuộc nội loạn.
- Nhưng trong thành phố còn có những đơn vị quân đội vẫn trung thành?
- Họ sẽ kéo ra ngoài. Thiers đã ra lệnh lúc 3 giờ. 50 phút sau ông ta đến Versailles. Các bộ trưởng đều phải tập trung tại trường sĩ quan. Bọn anh sẽ đi theo họ để bảo vệ họ.
Có nghĩa họ đã bỏ mặc Paris chỉ còn toàn những người cách mạng. Cảm thấy mình quá cô đơn, Stephanie khẽ nói.
- Anh lại đi... lại đi nữa...
- Tại sao em không rời khỏi đây, Stephanie? Tại sao? Các con em hiện ở đâu?
- Ở lâu đài Vendée. Bà Francoise và gia đình Dytteville cũng đang ở đó.
- Em thì ở lại Paris?
- Tại anh giao phó Agnès cho em. Agnès không chịu đi đâu. Chị ấy muốn ở lại đây để chờ anh. Đến khi cuộc phong tỏa bắt đầu bụng chị ấy to quá rồi không thể đi đâu được nữa.
René ôm nàng vào vòng tay. Chàng ôm chặt nàng. Stephanie phó mặc cho chàng. Nàng thấy đột nhiên rã rời, không muốn gì nữa, nhưng hạnh phúc vô bờ. Vậy là một cái ôm đã đền bù lại cho nàng mọi nỗi gian nan khổ cực thời gian qua.
- Thôi, anh phải đi...
Vòng tay René thít chặt, chàng áp miệng lên miệng Stephanie và họ đắm đuối trong một cái hôn da diết.
- Anh phải đi. Nhưng em hãy rời khỏi Paris càng sớm càng tốt. Paris bây giờ không còn an toàn nữa. Anh đi...