← Quay lại trang sách

Chương 4 GWEN

Sau một ngày lục tung các kệ sách ở thư viện cộng đồng và mạng Internet cùng việc trả tiền in với giá cắt cổ, chúng tôi thu thập được một tập hồ sơ mỏng đến mức kinh ngạc, nhưng đó là tất cả những thông tin mà chúng tôi tìm được cả về Markerville lẫn Arden Miller. Chúng tôi xác định được chỗ ở của mười bốn Arden Miller, nhưng chỉ có hai người ở Tennessee, và một trong hai đang sống trong viện dưỡng lão - khó lòng là người chúng tôi đang tìm kiếm. Arden Miller còn lại là một cô gái tóc đỏ cao ráo, ba mươi ba tuổi, không thấy dùng mạng xã hội - đối với một người ở độ tuổi đó, điều này rất kỳ lạ. Chúng tôi tìm được vài bức ảnh có gắn thẻ cô ta trong đó, nhưng không nhiều, và mấy bức ảnh nọ cũng không chụp rõ mặt cô ta. Trong bức rõ nhất, cô ta đội mũ rộng vành và đeo một cặp kính râm khổng lồ, đã thế lại còn quay gần nửa mặt ra khỏi ống kính, tay giữ chiếc mũ cho gió khỏi thổi bay.

Tôi không biết tại sao chúng tôi phải tìm cô ta, hay vì lý do quái quỷ gì mà cô ta lại sống ở một nơi xa xôi hẻo lánh trong một thị trấn bị bỏ hoang từ bốn mươi năm trước.

Hay, nhắc tới chuyện đó, tại sao Mike Lustig muốn chúng tôi đi tìm cô ta, ngoại trừ việc cô ta có vài liên quan tới vụ án về gã chồng cũ của tôi.

Chúng tôi lại nghỉ thêm một đêm nữa ở Nhà trọ Địa Ngục, và tôi cảm ơn Chúa vì giữa chúng tôi đã bớt căng thẳng; giờ mọi thứ đều có cảm giác được gột rửa sạch sẽ hơn. Đơn giản hơn. Và khi tôi ngủ, lần đầu tiên sau một thời gian dài, tôi cảm thấy an toàn. Có thể coi đó là một thành tựu, vì Nhà trọ Pháp này luôn mang lại cảm giác như nơi đây là nhân chứng câm lặng của hàng trăm tội ác suốt bao nhiêu năm qua.

Ngày hôm sau, đường đến Markerville đưa chúng tôi tiến vào những vùng đất hẻo lánh hoang vu, nơi bạn có thể dễ dàng tin mình là người duy nhất còn sót lại trên trái đất, trừ những chiếc máy bay của thời hiện tại đang lướt ngang trên đầu. Đường chúng tôi đi phải rẽ vào rất nhiều lối hẹp, mỗi lúc một hẹp hơn và khó đi hơn, chúng dẫn lên những ngọn đồi gồ ghề và độ hiểm trở của nó hoàn toàn không phù hợp với những người chạy bộ đường dài và mấy chiếc SUV.

Tôi nhẩm sơ tổng số kilômét chúng tôi đã đi và nhắc với Sam lúc xe chúng tôi gần tới hạn; chúng tôi dừng xe và đỗ vào một con đường đất nhỏ, khuất sau những rặng cây. Từ đường cái nhìn vào, chiếc xe khuất tầm mắt hoàn toàn, rồi chúng tôi men theo đường mòn mấy người leo núi hay đi để leo lên chỗ Markerville từng tọa lạc. Theo hồ sơ ghi lại, nơi này chưa bao giờ thực sự phát triển; khi tàu hỏa không chạy tuyến này nữa, mấy doanh nghiệp kinh doanh ở đây đều bị phá sản và hầu hết cư dân đã chuyển đi chỗ khác, không thì cũng chết dần chết mòn trong những ngôi nhà đổ nát của mình. Những nơi cuối cùng giải thể là bưu điện/cửa hàng bách hóa và cửa hàng đồ cũ, rõ ràng đã bị bỏ hoang với cửa rả mở toang và một tấm biển đề LẤY NHỮNG GÌ BẠN MUỐN treo trên cửa sổ. Chúng tôi tìm thấy một mẩu báo khóc than thị trấn nhỏ này, viết theo kiểu tự mãn thường thấy nơi dân thành thị, về những tai ương xảy đến với người nông dân, và rồi… không có gì nữa.

Chúng tôi cũng không ôm hy vọng sẽ tìm được nhiều thứ ở đây, và khi rẽ những cành cây, len lỏi qua đám bụi rậm dưới ánh nắng chiều để nhìn xuống thung lũng nhỏ nơi là Markerville, thứ hiện ra trước mắt chúng tôi cứ như một bối cảnh trong phim trường bỏ hoang. Những tòa nhà phục vụ cộng đồng trên con phố chính vẫn trơ trơ đứng đó, có lẽ bởi vì chúng được xây bằng gạch, nhưng hầu hết các ngôi nhà khác được dựng bằng gỗ đều đã nghiêng ngả, bị mưa gió bào mòn, sụp chỗ nọ, đổ chỗ kia, hoặc hoàn toàn đổ nát. Tựa như chuỗi quay chậm một cơn thảm họa vậy. Chúng tôi ngồi thụp xuống và quan sát một lúc, nhưng không có gì chuyển động ngoại trừ mấy con chim và có hai lần là một con mèo gầy còm rón rén bước đi. Một cánh cửa chỉ còn dính lại với một bản lề kêu kẽo kẹt trong gió.

“Nếu cô ta ở đây…” Tôi nói. “Cô ta phải ở trong mấy căn nhà gạch. Đúng chứ?”

“Đúng thế.” Sam tán thành, rồi anh đứng dậy. “Giờ ta phải thống nhất với nhau thế này: ta sẽ không bắn trừ khi ta bị bắn trước. Được không?”

“Ta vẫn chừa những trường hợp ngoại lệ như tấn công bằng dao hay gậy gì đó chứ?”

“Tất nhiên rồi. Nhưng phải là vết thương không chí mạng. Chúng ta cần tra hỏi Arden, chứ không phải đoạt mạng cô ta.”

Điều đó sẽ đẩy chúng tôi vào thế bất lợi nghiêm trọng, nhưng anh biết rõ điều đó.

Lúc cả hai đang đi xuống sườn đồi, tôi chợt trông thấy có ánh sáng lóe lên, giống như tia phản chiếu trên mặt kính, đằng sau mấy tấm ván nghiêng, tôi bèn kéo Sam đứng lại và chỉ cho anh. Là một chiếc ô tô. Không phải chiếc ô tô bị bỏ lại sau chuỗi ngày hoàng kim như những phế vật ở đây; chiếc này trông giống dòng xe tiết kiệm nhiên liệu cỡ trung, được xuất xưởng chưa quá năm năm. Tôi thật may mắn khi phát hiện ra nó. Ai đó đã cố giấu chiếc xe đi. Chỉ cần nhìn qua, tôi cũng thấy, chiếc xe này không hề bị bỏ bê lâu ngày. Trông như nó chỉ vừa mới được đỗ lại ở đây.

Tôi báo luôn cho Sam, và hai chúng tôi thận trọng tiến dần tới chỗ chiếc xe, xem xét tình hình. Lúc hết sức cẩn thận đặt tay lên mui xe, tôi thấy nó đã nguội. Tôi phải cẩn trọng để không vô tình làm chuông báo động réo lên… nhưng rồi sau đó, tôi lại nảy ra một ý. Tôi đưa mắt nhìn Sam, và một lần nữa, chúng tôi hiểu nhau hoàn toàn.

“Cứ làm vậy đi.” Anh nói.

Tôi kéo mạnh tay nắm cửa - đang bị khóa - và bức màn im lặng bao trùm thị trấn lập tức bị một hồi còi rền rĩ đinh tai nhức óc xé toang. Sam và tôi nấp lại vào trong chỗ khuất và chờ đợi; mãi một lúc lâu sau mới thấy một người phụ nữ tóc đỏ mảnh khảnh chạy ra từ ô cửa mở toang của một tòa nhà gạch, quăng tấm ván sang một bên và nhìn chằm chằm vào chiếc xe. Đèn báo động nhấp nháy và đèn pha ô tô nhuộm gương mặt cô ta hết từ trắng bệch lại sang vàng khè. Cô gái lục tìm chìa khóa trong túi áo khoác, rồi tắt báo động đi.

Giữa lúc yên ắng, tôi lên tiếng: “Arden Miller?”

Cô ta suýt ngã, cô ta lấy đà lại rất nhanh, nhưng Sam đã bước ra, chặn đường rút lui của cô ta từ lúc nào. Cô ta va phải anh và bật ngửa ra sau, rồi vội vàng quay người nhảy về phía chiếc xe, và nói cho đúng hơn, cô ta gần như trèo hẳn lên mui xe. Tôi thấy nỗi sợ hãi hiện rõ mồn một trên gương mặt Arden. “Để cho tôi yên!” Cô ta hét lớn, rồi co chân lao thẳng về phía tôi, toan chạy tháo thân.

Tôi điềm nhiên rút súng ra, chĩa nòng về phía cô ta, và cô ta đứng phắt lại, trong một đám bụi mù gồm những cành khô, lá cây và sỏi nhỏ văng ra. Hai tay cô ta giơ thẳng lên trời cứ như chúng bị mắc trên dây.

“Đừng giết tôi.” Cô ta nói, rồi òa lên khóc lóc thảm thiết, tỏ vẻ rất kinh hoàng. “Ôi Chúa ơi, xin đừng giết tôi, làm ơn, tôi có thể trả tiền, tôi có thể đưa cho cô tiền, tôi sẽ làm bất cứ điều gì…”

“Bình tĩnh!” Tôi nói với cô ta. Giọng của tôi nghe như ra lệnh, và tôi nhận ra nói năng như vậy chỉ tổ phản tác dụng. Tôi dịu giọng. “Cô Miller, không ai định làm hại cô đâu. Hít thở sâu nào. Bình tĩnh đi. Tên tôi là Gwen. Kia là Sam. Được chưa nào? Bình tĩnh đi.”

Câu “bình tĩnh” lặp lại lần thứ ba dường như đã có tác dụng, cuối cùng, cô ta cũng hít sâu được một hơi và gật đầu. Arden không giống trong ảnh lắm. Tóc vẫn còn nguyên màu đỏ, nhưng được cắt kiểu bob, ngắn ngang hàm rất sành điệu và cô ta đeo một cặp kính dày làm đôi mắt xanh trông to hơn. Cô ta cũng như bao phụ nữ xinh đẹp khác, nhưng có cái gì đó ở cô ta…

Phải mất một lúc tôi mới nhận ra. Arden Miller không khởi đầu cuộc sống dưới hình hài phụ nữ, nhưng cuộc chuyển giới của cô ta gần như hoàn hảo. Cô ta đi đứng đúng tư thế, cơ thể đầy đặn ở những nơi nên được đầy đặn, và gọn gàng ở những chỗ nên được gọn gàng. Nếu cô ta đã qua phẫu thuật thẩm mỹ thì cuộc phẫu thuật ấy quá hoàn hảo. Cô ta trông còn nữ tính hơn cả tôi, và hành động của cô ta cũng thế.

“Họ phái hai người tới ư?” Cô ta hỏi, ngước đôi hồ thu ầng ậng nước của mình lên nhìn tôi, nhìn sang Sam rồi quay lại nhìn tôi. “Tôi không có đâu! Xin thề là tôi không có, làm ơn đừng hại tôi, rồi tôi sẽ nói!”

“Không có cái gì?” Sam hỏi, và cô ta rụt người lại. Tôi đưa tay ra hiệu cho anh lùi xuống, anh làm theo. Tôi cất súng vào bao.

“Nói gì hả, Arden? Hãy ngồi xuống đi. Ở đây có chỗ nào khiến cô thấy dễ chịu hơn không?”

Cô ta sụt sịt, đưa tay dụi mắt nhưng rất rón rén, đúng kiểu của một người sợ làm mascara trên mi bị nhòe, và nói: “Trong nhà tôi. Cũng không hẳn là nhà của tôi. Tôi đến đây để làm việc.”

“Được rồi.” Tôi nói. “Ta vào trong.”

Tác phẩm của Arden, hóa ra lại đẹp tuyệt trần. Tôi không biết nhiều về nghệ thuật, nhưng thậm chí đến tôi cũng có thể nói: những gì cô ta tạo ra ở đây, bằng sơn và toan [9], thật sự phi thường - cô ta ghi lại những hủy diệt, những điêu tàn và cái đẹp. Cô ta lấy Markerville làm mẫu và thay vì những bức tranh đen tối, cô ta lại biến nơi tiêu điều trở thành một thứ đáng kinh ngạc. Có sáu tấm toan đã vẽ dựng ở tường để hong khô. Chỗ cô ta đang làm việc là bưu điện/cửa hàng bách hóa cũ, vẫn còn - dẫu có hoang tàn - mấy tấm kính ở cửa sổ phía trước, và cửa sổ này đón được ánh sáng phía đông. Lúc này, cô ta có mấy chiếc đèn lồng đang thắp, và cô ta cũng tìm được một chiếc ghế sofa, khá sạch sẽ.

Tôi nghĩ đôi khi cô ta còn ở lại đây qua đêm; có một chiếc túi ngủ được cuộn gọn lại và bộ đồ cắm trại xếp gọn gàng. Arden tận dụng một chiếc bàn đóng kèm kệ sách đã cũ - chắc chắn là món đồ của dân sưu tầm - kê sát bức tường đằng xa ở phía bắc, và trên đó có đặt một chiếc máy tính xách tay. Ở đây không có Wi-Fi, vậy chắc cô ta dùng di động “rác” để kết nối Internet, và dùng công cụ ẩn danh để online. Tôi vẫn làm như thế.

Arden giờ đã thấy đỡ hơn, ở trong nhà; hình ảnh những bức tranh cô ta vẽ, không gian riêng của cô ta giúp cô ta bình tĩnh và lại sức. Cô ta dẫn chúng tôi đến chỗ chiếc sofa. Cô ta và tôi ngồi xuống, còn Sam ngắm nghía mấy bức tranh. Arden cứ liếc nhìn anh, nhưng cô ta vẫn tập trung vào tôi.

“Hai người muốn gì?” Cô ta lo lắng hỏi. “Bọn họ phái hai người tới ư?”

“Không ai phái chúng tôi tới hết.” Tôi trả lời cô ta, điều đó cũng không hẳn là đúng, nhưng cũng gần thế. “Chúng tôi chỉ nghĩ rằng cô có thể giúp được chúng tôi thôi, Arden ạ.”

Lưng cô ta thẳng hơn một chút, và tia cảnh giác trong mắt cô ta không qua được mắt tôi. “Về chuyện gì?”

“Absalom.” Tôi đã cân nhắc kĩ lưỡng trước khi nói cái tên đó ra, và tôi thấy cơn hoảng loạn thuần túy lồ lộ bùng lên trong Arden. Cô ta gồng mình cứng đơ, cứ như không làm thế, cô ta sẽ rơi xuống và vỡ vụn ra thành ngàn mảnh. Tôi chớp thời cơ, đánh liều nói một tràng. “Bọn chúng cũng đang đeo bám tôi. Và anh ấy nữa. Chúng ta cần tìm cách ngăn chúng lại.”

Arden thở gấp và khoanh tay trước ngực. Thủ thế, nhưng không đề phòng tôi. “Tôi ở ẩn, tránh xa mạng mẽo, giao tiếp gần như hoàn toàn…” Cô ta đáp. “Vậy là họ không thể tìm được tôi. Cô cũng nên như thế.”

“Tôi thử rồi.” Tôi nói với cô ta, rồi sau đó, theo trực giác tôi lại nói tiếp. “Cô rời nhóm khi nào vậy?”

Lần này, cô ta hầu như còn chẳng hề do dự. Tôi cảm thấy cô ta muốn kể chuyện này ra đến chết đi được, và đơn thuần chỉ vì mối giao tiếp giữa người với người. Tình bạn, ngay cả khi chỉ là tạm thời. “Một năm trước…” Cô ta đáp. “Tôi chưa bao giờ tiến sâu vào nhóm cốt lõi, chắc cô hiểu ý. Mới đầu, chỉ là trò chơi vớ vẩn thôi. Chọc phá mấy tên ấu dâm. Chửi bới, nhục mạ những kẻ đáng bị lăng nhục. Hoặc chúng tôi nghĩ rằng họ đáng bị như thế. Và chúng tôi cũng được trả tiền để làm điều đó nữa.”

Lần này, tôi mới là người ngồi thừ ra, bởi vì đây là điều mà tôi chưa bao giờ nghĩ tới. “Được trả tiền? Ai trả?”

Arden bật cười. Nghe như tiếng lá xao xác trong khu rừng cằn cỗi, chết chóc. “Làm như tôi biết ấy! Nhưng hậu hĩnh. Và tôi vẫn thấy ổn cho tới khi… cho tới khi tôi phát hiện ra lý do tại sao chúng tôi làm điều đó. Không hề giống như những gì bọn họ quảng cáo cho thành viên ở thứ hạng như tôi, nhưng một người ở hạng cao hơn đã lỡ lời và nhắc tới nó.”

Tôi nuốt khan. Chẳng biết vì lý do gì, tôi thấy mình muốn uống nước đến chết đi được, cứ như tôi đang bò qua một sa mạc bỏng rẫy. Bây giờ, tôi đang ở một vùng xa lạ. “Tôi không hiểu.”

“Nghe này, chúng tôi chắc chắn đã làm thế cho vui, không phải nghi ngờ gì; chúng tôi cũng rất giỏi chuyện đó, đó là lý do tại sao bọn họ tuyển chúng tôi vào những kế hoạch đặc biệt kia. Tôi nghĩ việc đó cũng đại khái như một cuộc thập tự chinh, cô hiểu ý chứ? Thuần túy. Nhưng họ phái chúng tôi săn lùng người ta khi người ta ngừng trả số tiền mình bị tống tiền. Họ phái chúng tôi trừng phạt những người nọ, để những người đó phải nôn hết tiền ra lần nữa.” Cô ta nói. “Chúng tôi chỉ là những tay du côn ảo trên mạng. Khi người ta cứng đầu, đám chó săn như tôi được tháo xích. Tôi biết mình đúng là loại chó má chẳng ra gì, nhưng mà thôi nào.” Arden lại cười lớn. Tiếng cười nghe cũng chẳng có gì vui vẻ hơn. “Ý tưởng về việc ai đó kiếm được nhiều tiền từ việc hủy hoại người khác - đơn thuần là sai lầm.”

“Hủy hoại người khác mà không nhận tiền thì tốt hơn sao?” Tôi hỏi. Tôi cảm thấy hơi choáng váng.

Lần này, tôi nhận được một cái nhún vai đầy hối lỗi. “Nếu cô làm chuyện sai trái và hoạt động trên mạng, cô phải mong mình có chút gì đó chứ, phải không?”

Tôi thấy quý Arden, nhưng điều này khiến tôi lạc hướng. Đó là một điểm mù, một giả định rằng tàn ác là tốt khi được thực hiện trong một bối cảnh đúng. Làm chuyện sai trái. Mọi người ai cũng từng làm chuyện sai trái với người khác. Ngay cả lúc này, cô ấy vẫn chưa thấy được hậu quả tàn khốc từ cách tiếp cận nạn nhân theo phương thức dễ dàng đó.

Tôi phải bắt đầu sắp xếp lại toàn bộ những hình dung của mình về Absalom. Tôi cứ nghĩ chúng là những kẻ cuồng tín ưa thao túng người khác, chúng đâm đầu vào làm những chuyện như thế chỉ vì mê mẩn cái hỗn loạn đẫm máu khi hủy hoại người khác, và một số trong số chúng chắc chắn hoàn toàn phù hợp với mô tả đó. Nhưng theo những gì Arden đang kể… chúng còn lớn hơn thế rất nhiều. Cay độc, bất chấp đạo lý hơn thế rất nhiều. Melvin có trả tiền để chúng đeo bám tôi không? Bằng cách nào? Hắn ta không được dùng tiền mặt trong tù. Có lẽ hắn đã trao đổi gì đó để có được đặc quyền ấy.

Đối phó với những kẻ bệnh hoạn hăng máu điên rồ trên mạng là một chuyện. Đối phó với chúng khi đeo bám tôi là công việc của chúng có thể còn tồi tệ hơn.

“Arden này…” Tôi ngả người về phía trước, lôi hết tất cả những hảo ý và chân thành ra. “Tại sao Absalom lại quay ngược mũi dùi vào cô?”

Mặt Arden rúm ró, méo xệch đi, và cô trượt bàn tay lên xuống khắp người mình. “Bọn họ đã phát hiện ra…” Cô nói. “Rất nhiều người trong số bọn họ căm ghét phụ nữ. Tất cả bọn họ đều căm ghét phụ nữ chuyển giới. Họ bắt đầu đăng bài về tôi. Tôi đã chống lại. Khi họ vẫn tiếp tục làm, tôi tải xuống một loạt hồ sơ thanh toán của họ còn lưu trên máy chủ về và dọa sẽ công bố toàn bộ nếu họ còn đeo bám tôi. Tôi cứ nghĩ làm thế sẽ ngăn được họ.” Cô nhìn đi chỗ khác. “Một người bạn của tôi hôm đó đã đến nhà chơi. Tôi ra ngoài để mua mấy món Trung Quốc về ăn. Khi tôi về tới nhà, căn hộ của tôi bị cháy. Cả tòa nhà bị thiêu rụi. Bảy người chết oan.”

“Và… cô không cho rằng đó là tai nạn.” Tôi nói. “Tôi rất tiếc.”

Cô gật đầu và cố kìm nước mắt. “Hiện giờ, họ nghĩ rằng họ đã tiêu diệt được tôi. Nhưng tôi thường xuyên di chuyển, tìm nơi ẩn náu. Có một chuyện tốt thế này, tôi bắt đầu vẽ tranh, và phòng tranh mà tôi mang tranh tới nói rằng tôi vẽ khá giỏi. Tôi cần bán những thứ này và ra nước ngoài. Có lẽ sẽ dễ sống hơn khi ở một nơi khác. Thụy Điển chẳng hạn.”

“Những tập tin mà cô đã lưu…” Tôi nói. “Arden này… cô vẫn còn giữ chúng chứ?”

Tôi cầu cho cô ấy nói có, nhưng cô ấy chỉ nhìn tôi buồn bã và lắc đầu. “Chúng được lưu trong USB.” Cô đáp. “Nó đã cháy rụi cùng tất cả những thứ khác. Giờ tôi không có thứ gì để ngăn cản bọn họ nữa rồi. Tôi sợ chết khiếp, Gwen ạ. Cô có như thế không?”

“Có chứ.” Tôi nói với cô. “Cô có chắc mình không hề biết bất cứ điều gì có thể giúp tôi tìm thấy chúng…?”

Cô ngẫm nghĩ. Nhặt một sợi tóc đỏ rơi trên ống quần của mình lên, thả nó rơi xuống đất trong tia nắng và nhìn sợi tóc rơi.

“Tôi có biết một điều đấy.” Cô ấy đáp. “Tên khốn hung hãn với tôi nhất, tôi biết hắn ta sống ở đâu. Đó là điều cuối cùng tôi tìm được, trước khi thấy sợ mà không tiến thêm bước nào nữa.”

Tôi liếc sang Sam. Anh quay lại nhìn chúng tôi và gật đầu. “Vậy… cô sẽ nói cho chúng tôi chứ? Hãy để chúng tôi bám theo hắn vì cô, được chứ?”

Arden xếp hai tay vào lòng và ngồi thẳng dậy. Mắt cô ấy chạm mắt tôi, và có vẻ thách thức trong ánh mắt ấy. Phẫn nộ. Sợ hãi. Nhưng chủ yếu là quyết tâm.

“Tôi đã không phải là người tốt.” Cô nói. “Tôi đã căm ghét chính bản thân mình, tôi thấy thế giới này thật rác rưởi và tất cả mọi người đều đáng nhận được những gì họ đã nhận. Tôi đã muốn thấy tất cả mọi người đều bị tổn thương giống như mình. Nhưng giờ tôi không như vậy nữa. Và tôi rất hối hận vì chuyện những người tôi từng rình rập trên mạng. Tôi không bao giờ có ý…” Cô dừng lại và lắc đầu. “Tôi biết điều đó chẳng có nghĩa lý gì. Nhưng nếu cô có thể bắt được gã đó, có lẽ đó là một bước đi đúng hướng. Cô có bút chứ?”

Tôi bỏ hết giấy bút trong xe, nhưng Arden chỉ nhún vai, đi đến chỗ cái bàn, và lấy đồ đạc ra. Cô ghi chép gì đó, bước lại và đưa cho tôi. Tôi chớp mắt, bởi tôi vốn mong một địa chỉ cụ thể.

“Tọa độ GPS.” Cô nói với tôi. “Ứng với vị trí một cabin ở chỗ khỉ ho cò gáy nào đó thuộc vùng Georgia trên bản đồ. Nhưng hãy cẩn thận, Gwen ạ. Cô phải thực sự cẩn thận. Tôi chỉ là một ả tồi, nhưng gã này lại là một con quỷ đấy. Chỉ nghĩ tới gã thôi tôi cũng thấy rùng mình.”

“Cảm ơn cô.” Tôi nói, rồi cất tờ giấy đi. Tôi đứng dậy và ngập ngừng. “Cô sẽ ổn chứ?”

Arden ngước nhìn tôi. Đôi mắt cô trong veo, xương hàm cô hoàn hảo. Tôi nhận ra ánh mắt đó. Tôi từng nhìn thấy nó trong gương. Ánh mắt ấy xuất hiện khi bạn sợ hãi và dùng chính sự sợ hãi đó làm nhiên liệu. “Vẫn chưa…” Cô đáp. “Nhưng rồi một ngày nào đó. Phải. Tôi sẽ ổn.”

Tôi chìa tay ra và chúng tôi bắt tay. Sam bước đến gần hơn, và tôi thấy người Arden căng lên một chút. Cô ấy sợ đàn ông, và tôi tự hỏi không biết cô ấy đã phải chịu bao nhiêu ngược đãi. Nhưng anh cũng chỉ chìa tay ra, và cuối cùng, Arden cũng bắt tay được với Sam.

“Cô thật sự rất tốt.” Anh nói với cô ấy. “Hãy cứ tiếp tục như vậy nhé. Và hãy bảo trọng.”

Cô nở một nụ cười yếu ớt, thận trọng. “Vâng. Anh cũng vậy. Cả hai người.”

Tôi gọi cho bọn trẻ bằng điện thoại dịch vụ. Cái điện thoại nhớp nháp mồ hôi cùng nhiều thứ khác, bốc mùi bia nồng nặc. Chắc có kẻ nào đó đã đánh đổ. Connor vẫn “cạy miệng không nói nửa lời” như mọi khi, còn Lanny thì mang thái độ lạnh lùng, xa cách, đủ để tôi biết con bé giận vì tôi bỏ chúng mà đi. Tôi ghét điều đó. Tôi ghét khi phải bỏ chúng lại. Sẽ không lâu đâu. Đây có lẽ chỉ là quãng nghỉ giải lao mà chúng ta cần phải có.

Có lẽ mình nên để Sam đi tiếp mà không có mình, tôi trộm nghĩ khi cúp máy. Nhưng dẫu bỏ mấy đứa trẻ lại làm tôi nhức nhối vì cảm giác tội lỗi, tôi cũng biết chắc mình sẽ không làm thế. Tôi cần phải ngăn Melvin lại.

Chỉ vài ngày nữa thôi.

Chúng tôi phải mất thêm trọn một ngày nữa để tới gần tọa độ GPS do Arden cung cấp và tôi hy vọng chúng không phải là những con số ngẫu nhiên cô ấy viết bừa để cắt đuôi chúng tôi… Nhưng cô ấy đúng, chúng dẫn hai chúng tôi đến nơi tận cùng của hư không ở Georgia, nơi xa xôi nhất có thể. Sau vài cuộc thảo luận, Sam gọi cho bạn mình là đặc vụ Lustig, và chúng tôi nói với anh ấy những gì chúng tôi thu thập được từ Arden; Lustig nói anh sẽ kiểm tra khi phía mình có nhân lực.

Chúng tôi thống nhất với nhau như thế có thể sẽ là không bao giờ, và chúng tôi không định chờ.

Chúng tôi ngủ lại trên xe vài tiếng, trên một con đường đất trong rừng, nơi người ta thường chở gỗ qua, và khi Sam đánh thức tôi dậy, trời đã về đêm. Lạnh, và ẩm nữa. Có ánh sáng chiếu tới tấm kính chắn gió của xe chúng tôi, khiến nó trông như một tấm mành pha lê dễ vỡ.

“Ta nên đi thôi.” Sam nói. “Xem gã kia có ở nhà không.”

“Nói với Lustig ta chuẩn bị vào đi.” Tôi nói.

“Mike sẽ cản chúng ta đấy.”

“Chà, vậy anh ta hãy nhấc mông lên mà tới đây và ngăn chúng ta lại.”

Sam mỉm cười, bấm điện thoại. Hộp thư thoại trả lời. Anh thông báo ngắn gọn cho Lustig về chỗ chúng tôi đang ở và những gì chúng tôi định làm, sau đó, anh tắt điện thoại và cất vào trong túi. Tôi cũng tắt chuông điện thoại của mình.

“Sẵn sàng chưa?” Anh hỏi. Tôi gật đầu.

Và chúng tôi đi.

Chúng tôi leo lên một con dốc đứng, rất khó đi, và nếu không vì đã biết đường từ trước, chúng tôi sẽ hoàn toàn chẳng để ý tới lối đi này.

Tôi quỳ xuống nấp sau đám cây bụi vùng Georgia mọc rậm rạp như một bức màn, dưới bóng thông đổ dài. Đó là một căn nhà nhỏ, đơn sơ, dựng bằng gỗ, có nhiều lắm là hai phòng và được giữ gìn rất tốt. Rèm cửa sổ may bằng vải gingham [10]. Một đống củi được xếp gọn gàng, chờ được làm ấm nhà. Không có ai nhóm lửa đêm nay. Không có khói bay ra từ ống khói.

Có ánh sáng nhấp nháy trong căn phòng chính. Có người ở nhà. Sam thuyết phục tôi phải đồng ý: quan sát và báo cáo tình hình, và chỉ vào trong nếu cả hai đều đã chắc chắn không có ai ở trong nhà; sau cảnh báo của Arden, cả hai chúng tôi đều không muốn xảy ra xung đột bạo lực với một kẻ thái nhân cách chống đối xã hội. Vì vậy mà chúng tôi sẽ phải đợi hắn ta ra ngoài… hoặc quay trở lại sau. Thấy trời lạnh đến thấu xương, tôi ưng phương án thứ hai hơn, và vì lúc này xung quanh cũng đã tối đen như mực, gió thì buốt như mảnh băng sắc nhọn lướt qua, cứa vào mắt tôi, làm nước mắt chảy đầm đìa. Mỗi lần hít thở lại thấy rát như cắt vào da thịt. Người tôi đau nhức và cứng đơ, tôi chỉ muốn về nhà và ôm chầm lấy các con mình mãi mãi.

Nhưng suốt nhiều tiếng sau đó, tôi tập trung hết sức vào ánh sáng chập chờn lúc bật lúc tắt, như chiếc TV khi thì bật rồi lại tắt, trong căn nhà gỗ kia. Đi đi, tôi cầu xin gã đàn ông trong nhà, nhưng điều đó không xảy ra. Đầu óc tôi quay cuồng với những tưởng tượng về cách thoát khỏi chuyện này. Một danh sách viết tay tên thật của những tin tặc khác trong nhóm Absalom sẽ tuyệt vời biết bao. Chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra, dĩ nhiên. Nhưng có danh tính trên mạng cũng được, chúng tôi có thể dùng nó để nhờ FBI theo dõi. Bạn của Sam ở FBI có thể tìm giúp chúng tôi những thông tin hữu ích. Nhưng ít nhất, chúng tôi cũng đã xác định được một nghi phạm cho Mike Lustig tha hồ “quay”. Điều này phải được ghi nhận chứ!

Trong nhà có tiếng đài phát thanh. Một âm thanh gì đó nhỏ nhẹ và êm ái. Nhạc jazz thì phải, tôi nghĩ thầm. Có lẽ hơi định kiến, nhưng tôi cứ nghĩ hacker sẽ nghe thrash metal [11] kia! Nhạc Coltrane [12] có vẻ không hợp cho lắm. Tôi chỉ thực sự chú ý khi nhạc tắt, và khoảng một phút sau, ánh đèn đằng cửa sổ phía trước cũng tắt. Từ chỗ tôi nấp không nhìn được đằng đó, nhưng tôi vẫn thấy ánh sáng lan dần trên mặt sàn như một làn nước màu vàng rực. Tôi cũng thấy được ánh sáng ấy tắt vào lúc nào.

Đối tượng của chúng tôi đã lên giường đi ngủ. Cuối cùng cũng chịu đi ngủ. Tôi bấm điện thoại để xem giờ. Đã gần hai giờ sáng.

Sam từ từ nhổm dậy, không một tiếng động, và tôi cũng cố gắng làm theo. Tôi vốn khỏe mạnh, ưa vận động và có sức, nhưng bò loanh quanh khu rừng tối đen không phải là một trong các kỹ năng đặc biệt của tôi. Tôi chỉ cố gắng không làm bất cứ điều gì ngu ngốc. Anh giơ tay làm điệu bộ như cắt cổ họng; anh muốn dừng tại đây và thử lại vào ngày mai. Chúng tôi phải tìm ra khoảng thời gian gã đàn ông của chúng tôi không có ở nhà, để tránh xảy ra bất kỳ cuộc chạm trán nào. Tôi hiểu rõ lý do, nhưng đã tiến đến gần thế này mà không có kết quả - bất kỳ kết quả nào - thực sự rất bực bội.

Mày không muốn làm tổn hại đến bất kỳ ai, Gwen ạ, tôi tự nhủ với lòng. Đó là những thiên thần trong tôi đang nói. Đám ác quỷ trong tôi lại bảo tôi hoàn toàn muốn làm điều đó, rằng tôi muốn dí họng súng vào đầu gã đàn ông này và đòi gã phải khai ra: gã nghĩ gã có quyền gì mà lại khiến đời tôi và cuộc sống của hai đứa trẻ vô tội nhà tôi thành địa ngục trần gian. Loại khốn nạn bệnh hoạn nào lại đứng về phía một kẻ tâm thần máu lạnh đã tra tấn và giết chết biết bao nhiêu phụ nữ trẻ vô tội? Và được trả tiền để làm điều đó?

Tôi không muốn đi. Tôi muốn vào trong đó và tra hỏi, nhưng tôi biết Sam nói đúng. Tôi thấy mình bị kích động mạnh và có cảm giác vô cùng khủng khiếp trước tất cả những chuyện này. Tôi muốn gã chồng cũ của tôi chết đi, vì cứ mỗi giây hắn nhởn nhơ bên ngoài thế giới tự do là thêm một giây hắn hãm hại người khác. Và tìm đến các con tôi, và cả tôi nữa.

Tôi ép mình phải gật đầu đồng ý với Sam, phải, chúng tôi sẽ rút lui và quay trở lại vào ngày mai.

Có cái gì lờ mờ không rõ hình thù đang di chuyển làm tôi chú ý, và tôi quay ngoắt đầu sang phải, kịp lúc nhìn thấy một con thỏ nhỏ lao khỏi chỗ nấp và chạy vụt qua khoảng sân trống trước mặt căn nhà. Theo sau nó là một con mèo đen hăm hở bám sát con mồi của mình. Không ai trong số chúng gây ra tiếng động. Sự sống và cái chết, xảy ra ngay trước mắt chúng tôi.

Con thỏ mới chạy được khoảng một phần tư khúc sân thì đột ngột, có ánh sáng lóe lên, chói lọi, nhằm mục đích chiếu sáng toàn bộ khoảng sân hình bán nguyệt ở phía trước ngôi nhà. Đèn cảm biến chuyển động. Tôi thụp người xuống trở lại, và tôi cũng thấy Sam làm y như vậy. Tôi muốn đá cho mình một cái vì đã không nhìn thấy một thứ được lắp cố định như thế, nhưng quả thật, nếu cái đèn kia không sáng lòa lên như một quả cầu lửa trắng thì cũng khó mà trông thấy được; nó lắp ở tít xa chỗ tôi, nằm bên dưới đỉnh mái, và khi tôi giơ tay để cố che ánh sáng chói, tôi nghĩ hình như tôi đã thấy rằng nó còn nằm sau một lớp lưới thép.

Không hề dễ tiếp cận, vô hiệu hóa hoặc đánh lừa.

Con thỏ thua cuộc ngay giữa sân. Con mèo nhào tới, vồ lấy nó và con thỏ kêu lên một tiếng rùng rợn nghe như tiếng thét khi bị ngoạm chặt phía sau gáy. Tiếng ré nhỏ xíu tắt ngúm khi con mèo lắc nó dữ dội và đè nghiến xuống mà cắn. Lũ mèo, đám sát thủ lành nghề, rất thạo việc.

Giết xong con mồi, con mèo thả cái túi lông mềm oặt xuống đất, dùng chân đập nó để vờn một lúc, rồi bỏ đi chơi. Để con mồi nằm lại nơi đó.

Tôi nghĩ về gã chồng cũ của mình.

Đèn cảm biến chuyển động tắt phụt sau khi con mèo biến mất chừng ba mươi giây, và tôi quay sang nhìn Sam. Trông anh có vẻ đăm chiêu, anh đang suy nghĩ kĩ lưỡng trước những gì vừa xảy ra, và cuối cùng, anh lắc đầu. Anh cho rằng căn nhà gỗ này là một nơi rất tệ. Nó phát ra luồng khí hắc ám - tôi không biết phải diễn đạt khác đi thế nào. Tôi có thể tưởng tượng ra những điều xấu xa đang được thực hiện ở ngay đây. Tôi gần như có thể cảm nhận được những bóng ma đang vây xung quanh tôi. Gã đàn ông ẩn mặt này đã làm những chuyện gì? Arden chắc chắn trông có vẻ rất kinh khiếp hắn ta.

Lần đầu tiên, tôi tự hỏi, liệu gã đàn ông kia có ở một mình trong căn nhà này không. Hắn có cùng sở thích với gã chồng cũ của tôi không? Hắn có giam cầm ai đó trong nhà không? Nếu chúng tôi bỏ đi, liệu chúng tôi có vô tình để mặc một ai đó phải chịu đựng đau khổ hay không?

Không có câu trả lời hẳn hoi nào ở đây. Về mặt luật pháp, chúng tôi đã sai; chúng tôi có rất ít thông tin về gã đàn ông này, và cũng không có bằng chứng chứng minh hắn đã làm điều sai trái. Chúng tôi đang xâm phạm chỗ ở của hắn. Có lẽ là rình rập, vì chúng tôi đã theo dõi nơi này hàng giờ liền. Chúng tôi vẫn chưa hề trông thấy, dù chỉ thoáng qua, người sở hữu ngôi nhà này.

Có cái gì đó cứ léo nhéo bên tôi suốt từ bấy đến giờ, và lúc này, đột nhiên, tiếng thì thầm đã trở thành tiếng hét. Hắn phải nhìn ra ngoài mới đúng!

Đèn an ninh sáng lóa. Nếu hắn sợ bị người khác tiếp cận quá mức như thế, hắn phải nhìn ra ngoài mới đúng.

Tôi tự trả lời mình rằng có lẽ hắn không để ý, hắn đang ở trong một căn phòng khác, có thể là trong nhà vệ sinh, nhưng điều đó vẫn vô nghĩa. Căn nhà gỗ này không hề to. Đáng ra, hắn sẽ phải kéo rèm, hoặc mở cửa và kích hoạt lại đèn an ninh để kiểm tra xung quanh.

Tất cả những ánh sáng kia, bật và tắt từ lúc mặt trời lặn. Và chúng hoạt động theo khuôn mẫu định sẵn. Giờ lần lượt điểm lại mọi chuyện trong trí nhớ, tôi mới thấy.

Tất cả đều được hẹn giờ. Chúa ơi. Không có ai ở trong đó hết.

Có thể tôi sai, tất nhiên, nhưng tôi không quan tâm. Nhìn con thỏ kia chết, nhìn những tia máu phun ra xung quanh khi con mèo lắc nó, tôi liền nhớ tới những bức ảnh gã đàn ông này gửi cho tôi, hắn ta hoặc một kẻ nào đó trong số đám bạn ti tiện nhơ nhớp của hắn. Những bức ảnh làm nhục các nạn nhân của tội ác gã chồng tôi đã gây ra, ghép mặt của các con tôi vào ảnh các nạn nhân của những vụ giết người và hãm hiếp, photoshop chúng vào những tấm ảnh với các tư thế vô cùng đồi bại và kinh tởm. Gã đàn ông này là một thằng hèn. Hắn nấp đâu đó ngoài kia, ở nơi hoang dã này và hành hạ gia đình tôi, và giờ, tôi đang ở ngay đây, và tôi sẽ không bỏ đi mà không để cho hắn biết hắn không an toàn ở đây đâu. Tôi sẽ không làm như thế. Không bao giờ nữa.

Mặc cho đèn cảm biến chuyển động, tôi vẫn đứng dậy, và chạy tới phía cửa ra vào.

Đèn lại sáng bừng lên một lần nữa khi tôi chưa kịp bước ra khỏi chỗ nấp được hai bước, nhưng tôi không hề do dự. Tôi nghe thấy tiếng Sam chạy theo sau tôi; anh không hét lên gọi tên tôi, và tôi hơi ngạc nhiên khi anh đi theo. Tôi biết anh sẽ nổi giận. Chúng tôi băng qua khoảng sân và áp sát lưng vào bức vách ở hai bên cửa ra vào. Sau một hồi cứ như vĩnh cửu, đèn lại tắt và tôi phải chớp mắt mấy lần để xua đi những dư ảnh còn lưu ở mắt vì ánh sáng chói lòa kia.

“Ta đang làm cái quái gì vậy?” Sam thì thào.

“Vào nhà!”

“Gwen, không!”

“Vào!”

Chẳng có thời gian tranh cãi dài dòng, và anh biết điều đó. Anh bực bội nhìn tôi, ánh mắt đầy giận dữ, nhưng anh vẫn xoay người, trụ vững, và nện gót giày vào cánh cửa ngay chỗ ổ khóa. Cánh cửa rung mạnh, nhưng không mở. Anh thử thêm lần nữa. Và một lần nữa.

Không có gì xảy ra. Cánh cửa vốn chịu được những thứ còn mạnh hơn chúng tôi.

Nhưng mấy ô cửa sổ thì không.

Tôi vòng sang hông nhà. Cửa sổ ở đó đã khóa, nhưng giờ chúng tôi đã đi đến nước này và tôi không ngần ngại. Kính cửa sổ có thể đập vỡ được dù kính dày và cửa sổ được lắp tới hai lớp kính. Khi đập được một lỗ đủ lớn, tôi thò tay vào bên trong, tìm chốt cửa và kéo chốt ra để trèo vào.

Tôi rút khẩu súng nãy giờ vẫn nằm im trong bao ra. Sam đã lăm lăm vũ khí trong tay từ lúc theo tôi chui vào trong nhà và đứng thẳng dậy.

Không có tiếng động. Không có ánh sáng. Tôi thoáng thấy một cái chao đèn và điên cuồng dò dẫm xung quanh tìm công tắc; đèn bật sáng khi tôi tìm được công tắc, và đối đầu với chúng tôi là vài cái ghế bọc nhung, một tấm thảm móc, một cái bàn nhỏ nơi chiếc đèn kia được đặt bên trên, vài tủ sách - tủ nào cũng có mấy quyển xếp lộn xộn, một gian bếp với một cái bếp nấu nhỏ xíu và một cái tủ lạnh trông như hồi những năm 1950.

Không có người nào ở đây.

Sam vẫn tiếp tục đi. Phía bên tay phải chúng tôi có một cánh cửa. Anh mở cánh cửa đó ra và chĩa súng vào phòng, trong khi đó, tôi bật công tắc chiếc đèn treo trên cao.

Có một chiếc giường đôi. Gọn gàng. Một chiếc chăn màu xanh lá cây sậm trải phẳng phiu, phủ khắp giường thay cho ga trải. Đằng sau một vách ngăn nhỏ là một vòi tắm và bệ xí.

Và không có ai ở đây cả.

Sam ngồi thụp xuống chỗ phòng tắm nhỏ, rồi lại ra ngoài. “Vòi sen vẫn thấy có chút nước rịn ra. Còn ẩm lắm, có thể còn sót lại từ hồi sớm hôm nay.” Anh nhìn tôi với ánh mắt đó. “Em gặp may đấy, Gwen ạ. Hắn ta đã có thể ở đây.”

“Thôi nào, hắn hẹn giờ tất cả mọi thứ, điều đó có nghĩa là hắn không có ở đây…” Tôi cãi. “Cứ dè dặt và cẩn thận quá thì sẽ chẳng đi đến đâu cả, Sam ạ. Và như thế cũng không bảo vệ được mấy đứa trẻ nhà em.”

Sam lắc đầu, nhưng anh không thể trách cảm xúc của tôi được… anh cũng yêu bọn trẻ nhà tôi, tôi biết điều đó. Tình bạn giữa chúng tôi, theo bất kỳ tiêu chuẩn nào, rất đặc biệt; nó không nên tồn tại, và đôi khi, tôi cảm thấy cứ như đang trượt trên một lớp băng mỏng giữa lúc trời tối đen như mực. Nhưng anh muốn điều tôi cũng muốn. Điều đó sẽ không bao giờ thay đổi.

Đứng trong căn nhà của kẻ lạ nọ, tôi lại cảm thấy những tối tăm một lần nữa. Gã đàn ông này sống cuộc đời ẩn dật. Tôi không biết hắn đang làm những chuyện đồi bại nào, nhưng tôi biết đó sẽ là những điều vô cùng khủng khiếp.

Khó mà nhìn được vào nơi bình thường này, sự gọn gàng yên tĩnh của nó, khi hắn dành cả cuộc đời để hủy hoại người khác. Tôi căm giận. Có lẽ là căm giận tột độ. Tôi muốn đập tan mọi thứ. Và điều gì đã ngăn cản tôi? Sự thật là, chúng tôi đang vi phạm pháp luật khi chui vào trong này. Phá cửa và xâm nhập bất hợp pháp. Phá hoại tài sản có vẻ sẽ khiến tội trạng thêm nặng hơn.

“Nhìn xung quanh xem…” Tôi bảo Sam. “Ở đây phải có thứ gì đó chúng ta mang đi được. Một cái gì đó cho chúng ta biết hắn đã nhúng tay vào những chuyện gì, và có thể, nếu may mắn, có khi hắn lại có thư từ với Melvin.”

Sam gật đầu, nhưng anh chỉ đưa tay lên xem đồng hồ; nếu ở đây có gắn thứ gì đó kiểu như hệ thống báo động, hẳn chúng tôi đã gặp rắc rối từ lâu. Dẫu vậy, tôi vẫn nghi là có. Một người chọn cuộc sống cách xa nền văn minh nhân loại sẽ không dựa vào 911. An ninh của chúng tôi được Smith và Wesson [13] lo liệu. Nếu hắn ta ở đây, hoặc bất cứ nơi nào gần đây, hắn đã nổ súng vào chúng tôi rồi. Chúng tôi an toàn. Vào lúc này.

“Giấy tờ.” Tôi bảo anh. “Tài liệu điện tử. Bất cứ thứ gì trông có vẻ dùng được, được chứ? Mười phút.”

“Năm.” Anh nói, và sau đó anh bỏ đi chỗ khác, bắt tay vào tìm kiếm.

Có một cái bàn nhỏ bị nhét vào tận trong góc phòng. Cũng như mọi thứ khác, nó cực kì gọn gàng và sạch sẽ. Cái bàn được đóng từ gỗ thích theo phong cách đồng quê. Tôi mở ngăn kéo, rồi rút hẳn các ngăn kéo ra và lật chúng lại để quan sát cả đằng sau và mặt bên dưới. Chúng tôi không thể giấu được cuộc xâm nhập của mình. Vậy thì phải tận dụng mà tìm kiếm thật kĩ cho bõ công mới được.

Tôi không tìm được thứ gì mà mình có thể xác định được ngay là quan trọng. Biên lai, chủ yếu là vậy. Giấy in có vẻ không được sáng lắm. Tôi vơ hết tất cả mọi thứ và nhét vào trong ba lô của mình.

Tôi đeo găng tay để không lưu lại dấu vết nào; tôi cất tất cả các thứ còn lại vào ngăn kéo và lắp chúng vào vị trí cũ. Tôi kiểm tra tủ quần áo. Có một két súng khổng lồ, nhưng khi căng mắt nhìn chằm chằm cái két, tôi lại thấy một hộp đựng giày để trên nóc két. Tôi mở hộp ra. Lại thêm biên lai. Tôi nhét hết vào ba lô. Một tờ bị rơi ra đằng sau két súng, và khi tôi quờ tay ra đó tìm tờ giấy, mấy ngón tay tôi chạm phải cạnh sắc của thứ gì đó có vẻ không liên quan.

Tôi đẩy thử, và nó dịch chuyển.

Nam châm. Tôi gỡ nó khỏi chiếc két và lôi ra xem. Đó là một chiếc hộp nông nắp trượt, giống như cái hộp giấu chìa khóa ngày xưa bà tôi hay dùng để gắn vào bánh xe ô tô.

Cái này có cất USB.

Tôi sẽ không bao giờ tìm thấy chiếc hộp nếu không làm rơi một tờ biên lai ra đằng sau két súng. Nó nằm ở chỗ rất dễ bỏ qua khi lục lọi tìm kiếm, và két súng thì quá to và quá nặng, nếu không gắng sức thì không thể di chuyển được.

Tôi lấy lại tờ biên lai bị rơi, và tôi cất cả nó lẫn chiếc USB vào ba lô.

“Có tìm được gì không?” Sam gọi với lại.

“Biên lai, mấy bản in và một chiếc USB.” Tôi đáp. “Không có máy tính, chỉ có một dây nguồn. Chắc chắn hắn đã mang máy tính theo. Còn anh?”

Anh xuất hiện ở ngưỡng cửa. Tôi không hiểu nét mặt đó của anh, nhưng có gì đó khiến tôi phải bỏ tủ quần áo và tiến lại chỗ anh. “Tốt hơn là em nên thấy cái này.” Anh nói. Tôi biết mình sẽ không thích cái mình sắp thấy, nhưng tôi vẫn theo Sam vào phòng chính. Tất cả mọi thứ đều ở đúng vị trí. Tất cả mọi thứ đều sạch sẽ và ngăn nắp. Tôi thắc mắc không biết gã này có từng đi lính không, bởi vì bề mặt mọi thứ ở đây đều sáng loáng. Nếu có dấu vân tay nào dính trên đồ đạc thì là do tôi không phát hiện ra.

Sam mở một cái tủ. Cái tủ trông giống như mọi tủ chạn đựng thức ăn bình thường khác, chỉ đủ sâu để thò tay vào lấy đồ. Tám kệ, tính từ trên xuống dưới, chật ních đồ hộp và mấy thứ lặt vặt. Dù tay Absalom chết tiệt này có là ai đi chăng nữa thì hắn ta cũng thích cá ngừ đóng hộp và mấy món chế biến nhanh.

Sam đặt một ngón tay lên môi và đẩy mấy chiếc kệ. Chúng quay ngoắt ra sau mà không phát ra một tiếng cót két nào, và đằng sau đó là một đợt cầu thang. Đèn cảm biến bật sáng, để lộ một bức tường ép ván gỗ giả rẻ tiền, và bên dưới, ở bậc cầu thang dưới cùng, nom như một sinh vật sống, thu lu một cánh cửa thép có khóa. Tôi thấy sự đen tối của nó phả ra trong không khí lạnh lẽo, và trong một khoảnh khắc, tôi không sao nhúc nhích được. Tôi không thể. Tôi có cảm giác như nó đang theo dõi tôi, dò xét tôi, tìm những điểm yếu của tôi.

Người tôi tê cứng vì nhớ đến căn phòng tra tấn của gã chồng cũ, được giấu rất cẩn thận ngay trong nhà; đến căn hầm của Lancel Graham nằm sâu dưới căn cabin gỗ trên ngọn đồi phía trên hồ Stillhouse, nơi gã tái lập lại nỗi kinh hoàng đó một cách đầy âu yếm.

Cảm giác như có một điều gì đó tồi tệ y như vậy.

Chúng tôi bước xuống từ từ, cẩn thận từng bước một; có lẽ Sam sợ gây ra tiếng động, nhưng tôi thì không. Tôi sợ đạp trúng mấy cái bẫy và dây bẫy ẩn giấu đâu đó trong này. Chỗ này hệt như chốn âm ti. Như nơi của những mối đe dọa và hậu họa vậy.

“Dừng lại.” Tôi nói thầm khi Sam bước xuống bậc cuối cùng. Anh đứng cách cánh cửa chừng hơn một mét. Anh nghe theo và đứng lại, rồi nhìn tôi. Tôi cứ nhìn chằm chằm vào bề mặt bằng thép của cánh cửa, và tôi chầm chậm lắc đầu. “Thế này không đúng. Đừng!”

“Gwen…”

“Làm ơn đi, Sam.” Tôi thấy phát ốm, và bây giờ, tôi đang run rẩy. Sự cấp bách làm tôi đau. “Chúng ta phải đi thôi. Bây giờ. Ngay bây giờ.” Tôi không phải là nhà ngoại cảm, tôi không có bất kỳ sức mạnh hay năng lực thiên phú nào, nhưng tôi có bản năng. Bản năng mà tôi làm ngơ trong suốt bao nhiêu năm sống với Melvin Royal. Lẽ ra tôi phải biết hắn ta làm gì, biểu diễn những trò kinh dị nào dưới mái nhà của tôi. Tôi đã không biết gì cả, chí ít là biết theo cách chủ động tìm hiểu.

Không bao giờ như thế nữa. Tôi không biết điều gì sẽ xảy ra nếu Sam chạm vào cánh cửa đó, nhưng tôi có thể cảm giác được làm vậy là sai lầm. Giờ đây là việc của FBI, không phải việc của một cặp trộm nghiệp dư nổi loạn nữa. Chỗ này có cảm giác ngột ngạt quá, và tôi cảm thấy cứ như mình đang bị theo dõi.

Sam đồng ý với quyết định của tôi, và đó thực sự là một món quà không gì sánh được; hầu hết nam giới, tôi tin chắc, sẽ mặc kệ lời tôi mà cứ đi thẳng tới trước. Kết quả là, khi chúng tôi gần lên tới đầu cầu thang, cùng một tiếng thở dài thầm lặng, cánh cửa phía dưới cầu thang cọt kẹt mở ra. Có một tiếng lách cách rất khẽ, gần như không nghe thấy được.

Sam sững người. Tôi không biết thứ gì đang lao ra khỏi cánh cửa đó, và tôi cũng không muốn biết. Tôi tóm lấy Sam, nhào mạnh về phía trước - băng qua mấy cái kệ, ra khỏi cái tủ - và kéo anh theo cùng mình.

Sam chỉ vừa mới bước qua khỏi ngưỡng cửa thì có thứ gì đó bốc chúng tôi lên cao và hung bạo quẳng chúng tôi văng tít ra tận cuối phòng. Tôi giơ tay, khoanh lại che trước mặt, co hai chân lên theo phản xạ, cố hết sức để bảo vệ phần não và bụng của mình, và tôi hầu như còn chẳng cảm thấy gì khi bị đập mạnh vào tường. Tôi cũng hoàn toàn không hề có cảm giác mình bị đập xuống nền nhà, vì bất thình lình, tôi thấy mình ở ngay đó, nằm dài trên sàn gỗ và ngước mắt nhìn lên trên khi một luồng ánh sáng màu cam tràn khắp căn phòng. Tôi không hiểu nó là gì. Tôi cảm thấy có một làn sóng nóng rực ập tới và sau đó, mái nhà, kỳ lạ làm sao, bay xa khỏi chỗ tôi, cứ như có một người khổng lồ nào đã rứt nó ra vậy. Mấy ngọn đèn chúng tôi bật ban nãy cháy bùng như những ngọn nến, và tôi nhìn lên những ngôi sao trên cao và cây cối xung quanh, rồi mọi thứ, tất cả mọi thứ, đều chìm trong biển lửa.

Chú thích:

[9] Vải dùng để vẽ tranh sơn dầu, còn gọi là vải bố hay vải canvas.

[10] Vải sợi bông, kẻ ô bàn cờ, thường có hai màu đậm nhạt và không có mặt trái - phải.

[11] Một dòng nhạc rock có nhịp điệu nhanh và dữ dội, rất kích động.

[12] John Coltrane - một nghệ sĩ saxophone kiêm nhà soạn nhạc có sức ảnh hưởng rất lớn tới dòng nhạc jazz.

[13] Nhà sản xuất vũ khí, đạn dược của Mỹ. Ý nói chỉ dựa vào súng ống, không dựa vào lực lượng an ninh.