Chương 5 GWEN
Tôi tỉnh lại, ho sặc sụa, vì ai đó đổ nước lên mặt tôi. Nước lạnh cóng, và tôi run lẩy bẩy. Tôi bất lực lăn lộn và ho sặc sụa mất một lúc. Ý thức bắt đầu ùa về lại từ chỗ nào đó trong tôi, báo cáo cho tôi về những cơn đau ở lưng, ở chân, ở cánh tay. Não của tôi rất giỏi phân tích những việc này, và nó cho tôi biết không có gì quá nghiêm trọng cả. Tôi hy vọng nó không nói dối.
Đầu tôi cũng đau, và điều đó dường như đáng chú ý hơn cả. Miệng tôi có vị như một cái gạt tàn, và tôi quờ vội lấy chai nước ban nãy đã hắt vào mặt tôi và súc miệng. Tôi nhổ toẹt xuống đất, rồi ừng ực tu như chết khát. Có lẽ làm thế là một sai lầm. Lượng nước nặng nề vừa nạp đó thụi mạnh vào bụng tôi.
Tôi quỳ mọp xuống đất, lảo đảo một chút, cố lấy lại thăng bằng rồi đứng lên. Tôi đang đứng ở khoảng đất trống, gần hàng cây. Sam đang quỳ bên cạnh tôi, và trông anh còn tệ hơn tôi tưởng - máu chảy ròng ròng từ vết thương trên đầu, anh run rẩy, người ngả hẳn về một bên khi cố đứng dậy. Tôi đỡ anh. Anh nhăn mặt và ấn tay vào xương sườn.
“Làm thế nào mà chúng ta…” Tôi ngoảnh về phía căn nhà gỗ.
Nơi đó là hỏa ngục. Tôi không nói nên lời khi nhìn thấy căn nhà, và việc chúng tôi từng ở trong đó xồng xộc kéo về trong tâm trí tôi. Tôi nhìn trân trân như bị thôi miên. Làm thế nào mà chúng tôi ra ngoài được?
“Tôi đã kéo hai người ra. Chuyện quái gì thế, Sam?” Một giọng lạ vang lên. Là giọng một người đàn ông đang đứng ở đằng xa, cũng đang nhìn ngọn lửa. Anh ta cao hơn một mét tám, mặc một cái áo khoác nhồi lông màu đen - thứ khiến tôi phát ghen lên được, và khi anh ta quay lại, cái huy hiệu vàng lồng trong sợi dây chuyền đeo quanh cổ anh ta lóe sáng. Cảnh sát, tôi nghĩ, rồi tôi sững người. Nhưng cái huy hiệu lại khác hẳn. Tôi không nhận ra được ngay. Mắt tôi không đủ tập trung. Anh ta là người Mỹ gốc Phi, và giọng nói của anh ta có âm sắc miền Nam, chậm rãi khiến anh ta có vẻ đáng mến, mặc dù tôi biết thừa anh ta đang nhìn tôi với kiểu soi mói, xét nét, đánh giá con người tôi. Anh ta còn mặc một chiếc áo chống đạn bên dưới lớp áo khoác, tôi phát hiện khi gió đưa một luồng khí nóng từ căn nhà gỗ đang cháy ra và tốc áo khoác của anh ta lên.
FBI. Dòng chữ in rõ mồn một trên áo chống đạn.
“Mike Lustig.” Anh ta nói. “Và cả hai người đúng là một cặp phải gió, ngốc chưa từng thấy. Đã có chuyện gì vậy?” Câu cuối, anh ta không hỏi tôi nữa mà hướng sang Sam. Sam nhăn mặt, rúm người lại khi anh cố quay người.
“Câu hỏi chung chung hay cậu muốn biết chuyện gì cụ thể?”
“Cậu nói cậu sẽ xem xét xung quanh. Cậu đã làm cái trò quái quỷ gì vậy?”
Não tôi đã thông được một chút. Mike Lustig. Người bạn làm bên FBI của Sam. Cấp độ chửi thề của anh ta mỗi lúc một tăng. Tôi chỉ mong anh ta giảm âm lượng giùm, vì tai tôi cứ ù ù liên tục, còn đầu tôi thì nhức như có ai nện trống bass liên hồi bên trong vậy.
“Có bẫy mìn ở trong đó.” Tôi trả lời anh ta. “Ở bên dưới tầng hầm. Chúng tôi không mở cửa, nhưng có người khác mở. Chúng tôi may mắn chạy được ra khỏi hành lang đó trước khi nó nổ tung.”
“Không phải may mắn đâu.” Sam nói. “Em đã ngửi thấy mùi cái bẫy, còn anh thì không.”
Mike nhìn chúng tôi, hết người nọ lại sang người kia. “Và hai người không biết có thứ gì trong căn phòng bí mật đó?”
“Đúng thế.”
“Chết tiệt.” Anh ta nói. “Hắn ta có thể giấu bất cứ thứ gì ở dưới đó. Thậm chí là một tù nhân.”
Tôi lạnh người. “Anh đang nói… có người ở dưới đó đấy à? Là người mà chúng tôi đáng lẽ đã có thể giải cứu họ?”
Mike chỉ im lặng nhìn chúng tôi. Sam cuối cùng cũng quay được cả người về phía Mike và nói: “Lạy Chúa tôi, Mike. Cậu biết những gì về gã đó?”
Lustig tảng lờ câu hỏi. “Tôi phải đưa cậu xuống dưới thị trấn để kiểm tra. Vết thương kia cần phải khâu lại đấy. Cả bên sườn của cậu nữa kìa. Gãy xương à? Còn cô thì sao, cô Proctor?”
“Đừng có đánh trống lảng nữa!” Sam gắt lên.
Mike nhìn ra phía sau chúng tôi, chỗ căn nhà gỗ đang cháy. Những hư hỏng đó, theo như tôi thấy, không thể sửa chữa được; cả căn nhà đổ sập. Anh ta thở dài. “Chuyện này sẽ gây chú ý. Giờ chắc bên cứu hỏa đã lên đường rồi; họ coi hỏa hoạn ở trên mấy ngọn đồi này là chuyện hết sức nghiêm trọng. Đi nào. Lên xe, tôi sẽ nói vắn tắt cho hai người.” Anh ta quay người và bước đi, lẫn vào trong mấy hàng cây, và tôi ngây người đứng đó suốt một lúc, cố gắng hiểu chuyện gì đã xảy ra, chuyện quái quỷ gì đang diễn ra. Khó hiểu… tất cả đều khó hiểu. Có lẽ là do cú sốc ban nãy; có lẽ là do bộ não của tôi vẫn còn đang rung lắc ầm ầm trong hộp sọ.
Sam phải đặt tay lên vai tôi, lặng lẽ giục tôi đi theo thì tôi mới sực tỉnh, và tôi cứ ngoái nhìn lại hỏa ngục cuồng nộ đằng sau, với những tia lửa phun tít lên tận trời cao.
Có cái gì bên trong căn phòng đó? Bọn chúng là lũ quái quỷ nào? Chúng không chỉ là tin tặc. Những trò chúng làm cũng không chỉ đơn thuần là tống tiền.
Tôi không chắc mình có đủ can đảm để biết câu trả lời hay không.
Chúng tôi ngồi cả ở băng ghế sau trên chiếc SUV của viên đặc vụ FBI, vừa thấy dễ chịu mà cũng vừa thấy lo lắng; tôi khá chắc chắn những cánh cửa xe không dễ dàng bật mở chỉ bằng một cái kéo chốt. Mike đưa cho chúng tôi cà phê, đậm và mạnh, rót ở trong bình giữ nhiệt ra, trước khi anh ta bước ra ngoài xe để gọi điện. Tôi uống ừng ực như chết khát, cốt cho ấm người hơn là để thưởng thức. Sam không nói gì nhiều. Cả tôi cũng vậy. Chúng tôi chỉ chăm chú nhìn ngọn lửa vẫn rõ mồn một sau những rặng cây, và quầng sáng nhấp nháy màu đỏ và xanh đang leo dần lên đỉnh núi, về hướng chúng tôi.
Cuối cùng, tôi lên tiếng: “Vậy đó là bạn anh. Đặc vụ Lustig.”
“Phải, bọn anh từng đi lính cùng nhau.” Sam đáp. “Rồi anh ấy vào FBI; anh thì đăng ký phục vụ tại ngũ tiếp.” Khi ấy, anh vẫn đang chăm chăm nhìn vào ngọn lửa, nhưng rồi anh đột ngột nhìn sang Lustig, lúc này đang nghe điện thoại bên ngoài xe. Lustig cứ đi đi lại lại, có thể chỉ để giữ ấm, nhưng tôi không thể không nghĩ anh ta đang để lộ những lo lắng trong lòng. “Anh ấy biết chuyện gì đó mà không nói cho chúng ta.”
“Em cũng thấy thế.” Tôi nói, và tôi rúm ró khi đổi tư thế ngồi cho bớt đau. Hình như tôi bị nặng hơn mình nghĩ, vẫn chưa gãy khúc xương nào, tôi nghĩ, nhưng chắc chắn cả người tôi đều đã bị va đập rất mạnh. “Anh có bao giờ nghĩ, có khi anh ta lợi dụng anh cũng nhiều như anh nghĩ mình đang lợi dụng anh ta không?”
Tôi cứ nghĩ anh sẽ không trả lời, nhưng anh đáp, mắt vẫn không rời Lustig. “Anh ấy là người tốt.”
“Anh ấy sẽ đẩy chúng ta vào chỗ chết.” Tôi nói.
“Không đâu.” Sam nói, và anh ấy nhìn thẳng vào tôi. “Em gần như đã đẩy chúng ta vào chỗ chết đấy. Chúng ta đúng ra phải ở bên ngoài, không vào bên trong nhà. Chính em muốn làm điều đó mà.”
Anh nói đúng. Tôi nổi cáu vì anh nói đúng, và tôi biết phản ứng như vậy thì thật là kinh khủng, vậy nên tôi cắn môi và cố gắng tự ngăn mình không đẩy cuộc tranh cãi lên cao nữa. Tôi mệt mỏi, tôi đau nhức, và tôi có một cảm giác rất kinh khủng rằng: chúng tôi đã khơi mào một cái gì đó ở đây và điều đó hoàn toàn vượt khỏi tầm kiểm soát của chúng tôi. Và chúng tôi nhận lại được gì? Không nhiều. Một chiếc ba lô nhét đầy hóa đơn chẳng dẫn chúng tôi đi được tới đâu.
Giọng tôi run run khi nói. “Anh nghĩ có cái gì ở trong căn phòng…”
“Đừng nói tới chuyện đó nữa…” Sam nói và choàng tay qua vai tôi. Bất ngờ, và dễ chịu. Cả hai chúng tôi đều khét lẹt mùi khói, nhưng tôi không ngại. “Ta không thể biết hắn giấu thứ gì bên dưới đó, và chắc chắn hắn không định cho ta tìm hiểu.”
“Ngộ nhỡ có ai…”
“Không đâu.” Anh nói. “Em sẽ nát lòng nếu cứ nghĩ tới nó. Đừng!”
Tôi cảm nhận được anh không muốn tưởng tượng tới chuyện đó. Tôi thì không, bởi vì tôi phải làm thế: một phụ nữ trẻ, có lẽ cũng ở độ tuổi với những nạn nhân bị Melvin chọn. Bị nhốt, có lẽ là bị trói. Bị bỏ cho chết thiêu nếu có ai tới gần để tìm ra cô.
“Có lẽ chính là hắn.” Tôi nói. “Có lẽ hắn ta ở dưới đó, và hắn ta đã mở cửa.”
“Một suy nghĩ tích cực hơn hẳn đấy.” Sam tán thành, nhưng anh lắc đầu. “Anh đã nhìn vào cánh cửa khi nó mở ra. Tay nắm cửa không hề xoay. Không có ai ở phía bên kia hết. Nó giống như là… được điều khiển từ xa ấy.”
“Ý anh là chúng ta đã đạp phải dây bẫy hay cảm biến gì đó?”
“Có lẽ thế. Nhưng… có lẽ đã có kẻ theo dõi chúng ta. Chờ chúng ta cắn câu. Và khi chúng ta không thì…”
Thật vậy; tôi thấy quặn lên trong lòng. Tôi đã có cảm giác mình bị theo dõi, rất mãnh liệt, khi bước trên những bậc thang đó. Và tôi đã đúng. Kẻ nào đó đã nấp đằng sau camera. Chắc hắn đã theo dõi chúng tôi lục lọi khắp toàn bộ ngôi nhà. Nhưng, chỉ sau khi chúng tôi tìm thấy căn phòng bí mật dưới tầng hầm, hắn mới ra tay. “Hắn đã theo dõi…” Tôi đồng ý. “Và hắn không hề có mặt ở đây. Hắn có một cái điều khiển từ xa để mở cánh cửa đó và kích nổ. Chắc chắn hắn cũng ở đâu đó gần đây.”
“Không cần thiết phải thế. Hắn có thể làm được hết chỉ qua một ứng dụng.” Tôi thấy anh thoáng mỉm cười. “Giống cách em thiết lập camera theo dõi trong nhà mình ấy.”
Anh nói đúng. Tôi đã dùng camera có khả năng kết nối Internet để giám sát ngôi nhà bên hồ Stillhouse của mình từ xa, và tôi có thể mở camera lên và quan sát toàn bộ ngôi nhà dù ở bất cứ đâu. Những công cụ đó đều phổ biến, và có sẵn trên thị trường. “Còn cánh cửa?”
“Mấy ứng dụng bảo mật không dây cho phép em khóa và mở khóa từ xa,” anh đáp. “Có lẽ hắn đã theo dõi chúng ta từ lúc ta đột nhập căn nhà. Khi chúng ta tìm ra cầu thang bí mật, hắn chờ ta đi xuống và mở cửa. Đó chắc là bẫy mìn rồi; có lẽ hắn có thứ gì đó dạng như lệnh vô hiệu hóa kíp nổ và gửi lệnh đi trước khi tự mình bước vào trong. Khi chúng ta không cắn câu…”
“Hắn kích hoạt nó cho chúng ta.” Tôi hoàn thành câu thay anh. “Vậy nên hắn có thể ở bất cứ đâu. Chúng ta không thu thập được gì hết.”
“Không nhất thiết phải là như thế.” Anh nói, và hất cằm về mấy chiếc ba lô chúng tôi vứt dưới chân. Chúng căng phồng vì giấy má. Cũng được đấy chứ. Tôi hy vọng thế. “Gwen, có nhớ…”
Lời anh ấy sắp nói với tôi bị Lustig cắt ngang. Anh ta mở cửa xe và nói: “Được rồi, chuyện sắp xảy ra sẽ như thế này đây. Cửa địa ngục sẽ mở và phọt ra đủ thứ xú uế lên người chúng ta. Cảnh sát địa phương, cứu hỏa, cứu thương. Tôi sẽ đòi quyền tài phán liên bang. Hai người sẽ được đưa đến bệnh viện, nhưng hai người không được đi đâu hết khi tôi chưa tới đó. Và cũng không được trả lời câu hỏi khi tôi chưa tới. Hiểu chứ?”
“Mike…” Sam nói. “Chúng tôi vừa dính vào cái quái gì thế?”
Ánh mắt Mike Lustig nhìn anh có hai dụng ý: dụng ý thứ nhất nói, Không phải ở đây, và sau đó liếc sang tôi tỏ ý tôi không phải là người anh ta muốn cho biết chuyện. Và vì sao anh ta lại làm thế? Mike biết tôi là ai. Biết chồng cũ của tôi là ai. Có lẽ mức độ tin tưởng của anh ta dành cho tôi không lớn hơn khoảng cách đo được từ mặt đất nếu anh ta nâng một chiếc xe tăng Sherman lên. Công bằng thôi. Tôi cũng không tin tưởng anh ta chút nào, và việc anh ta đeo huy hiệu FBI, có súng và mấy cánh cửa kia không mở được từ bên trong khiến tôi ngứa ngáy khắp người. Anh ta là bạn của Sam, hẳn rồi. Nhưng anh ta không phải là bạn của tôi. Sự tin tưởng không lây được, với tôi là như thế.
Lustig đóng cửa lại, cắt đứt luồng gió lạnh căm căm như một lưỡi dao bằng băng đang xộc vào trong, và tựa vào thành xe khi lực lượng phản ứng khẩn (14)- một chiếc xe màu đen và trắng của cảnh sát địa phương - vòng qua khúc quanh và dừng lại bên cạnh xe chúng tôi. Không có còi báo động, nhưng ánh đèn lóa mắt gắn trên xe khiến mọi thứ đột ngột trở nên sống sượng và lạnh lẽo, biến tất cả trở nên xa lạ, thậm chí là cả gương mặt của Sam. Tôi thử đẩy cửa. Cửa không mở. Tim tôi đập nhanh hơn, và tôi nhìn quanh tìm thứ gì đó, bất cứ thứ gì, mình có thể dùng được. Phản xạ. Mình có thể trườn ra ghế trước và ra ngoài theo lối đó, tôi tự trấn an mình. Thậm chí, có thể còn có một khẩu súng nữa cất trong hộc đựng đồ trước mặt ghế khách. Không thì, khi ra được bên ngoài, tôi cứ chạy biến đi trong tích tắc, và giữa khu rừng này, trong bóng đêm mù mịt, họ muốn đuổi kịp tôi cũng tốn kha khá thời gian.
Kế hoạch chạy trốn này là một bài tập luyện trên lý thuyết. Tôi luôn làm thế trong mọi tình huống khi cảm thấy mình hơi bị mất kiểm soát một chút. Nó có tác dụng. Tôi đã tập lẩn trốn, tấn công, thoát hiểm suốt nhiều năm qua, và tôi vẫn luôn luyện tập. Cuộc sống của tôi - và cuộc sống của bọn trẻ nhà tôi - phụ thuộc cả vào đó.
“Vậy câu chuyện của chúng ta bây giờ sẽ như thế nào?” Tôi hỏi Sam. “Vì ta không thể khai sự thật được. Không thể - với chuyện này.”
“Ta cứ bám sát vào sự thật hết mức có thể.” Anh đáp. “Chúng ta đi tìm câu trả lời. Thấy cửa mở. Vào trong xem ai bị thương không, phát hiện ra căn phòng bí mật, thoát khỏi chỗ chết tiệt đó vừa kịp lúc.”
Câu chuyện này không giúp chúng tôi vô tội, nhưng nó cũng không có ý cho biết chúng tôi mang theo vật liệu nổ và thổi bay nơi này thành nghìn mảnh, mà vật liệu nổ thì đúng là tôi có mang theo trong người thật. Tôi gật đầu. Cửa mở toang. Tôi hình dung nó trong tâm trí, tưởng tượng cách chúng tôi thận trọng tiếp cận ngôi nhà, gọi to, tìm người bị thương. Tôi cứ tưởng tượng về việc đó mãi, cho đến khi nó có vẻ thật đến mức có thể là sự thật, và sau đó, tôi lại tiếp tục tưởng tượng nữa, cho đến khi nó đúng là sự thật, và những khả năng khác là chuyện hết sức bất khả. Đó là cách duy nhất để nói dối sao cho thật nhất quán, thuyết phục: bạn phải tin điều đó.
Vì thế, tôi làm cho mình tin điều đó. Tất nhiên, nếu cánh cửa không bị cháy rụi, và họ có thể xác định nó đã bị khóa, thì chúng tôi kể như tiêu tùng. Nhưng với hỏa ngục kia, tôi thấy chúng tôi sẽ an toàn trong vụ này.
Lại thêm nhiều xe khác vây xung quanh chúng tôi, quây chúng tôi lại: hai xe cứu hỏa, một xe cứu thương, một chiếc SUV trông rất “nhà nước” khác, chắc của bên kiểm lâm. Các anh lính cứu hỏa đang hò nhau lôi vòi rồng ra, chạy vào rừng, chỗ ngọn lửa đang hừng hực cháy, và tôi nghe thấy tiếng máy bay hạng nhẹ vo vo trên đầu; họ đang xác định xem đám cháy có lan ra chỗ nào khác không.
Phải mất hơn một giờ ngọn lửa mới hoàn toàn được dập tắt, và sau đó, màn đêm chỉ được thắp sáng nhờ đèn hiệu nhấp nháy trên các phương tiện của lực lượng phản ứng khẩn và đèn pha sáng rực. Tất cả những nguồn sáng khác nhau đó tô lên vạn vật một màu tím ngắt, chen thêm những vệt màu xanh và đỏ lúc chớp lúc tắt lẫn lộn, không theo thứ tự. Tôi nhắm nghiền mắt lại một lúc, và chính vì thế, tôi mới bất ngờ khi cánh cửa bên cạnh mình mở tung ra. Tôi lập tức ngồi thẳng dậy và thấy mình đang nhìn thẳng vào một người đàn ông người Mỹ gốc Phi còn trẻ và mảnh dẻ, mặc bộ đồng phục y tế không vừa với vóc người. “Thưa cô…” Anh ta nói, giọng Georgia đặc sệt. “Tôi cần kiểm tra sức khỏe của cô. Cô có thể đi bộ giúp tôi tới xe cứu thương được không?”
“Tất nhiên rồi.” Tôi đáp lại anh ta, và chui ra khỏi chiếc SUV cùng chút nhẹ nhõm trong lòng. Cuối cùng, cũng không cần phải bỏ trốn. Ít nhất là chưa. Một nhân viên y tế khác đang chỉ dẫn cho Sam và cuối cùng, cả hai chúng tôi cùng ngồi ở thềm cửa xe cứu thương để khám sức khỏe. Sam được chẩn đoán bị chấn động não nhẹ và nứt xương sườn; anh được người ta gắn thẻ để đưa đến bệnh viện. Cơn đau đầu của tôi cũng mang cho tôi đặc quyền tương tự, nhưng không đời nào tôi muốn bỏ lại ba lô của cả hai trong xe Mike Lustig, hay để mặc họ cướp lấy phương tiện đào tẩu của chúng tôi. Tôi từ chối. Trong lúc họ đưa Sam lên xe cứu thương, tôi chuyển đồ đạc của chúng tôi vào lại chiếc xe chúng tôi thuê, rất may, chiếc xe đã được kéo sang một bên, cũng đủ xa để tôi có thể lùi xe vòng qua khu vực bị niêm phong.
Tôi đi được nửa đường thì Mike Lustig chạy vào chặn đường tôi, và tôi phải phanh rất gấp để không húc vào đuôi xe anh ta; khi tôi dừng xe lại, anh ta bước tới chỗ cửa xe bên phía ghế lái và gõ nhẹ vào ô kính. Tôi hạ cửa kính xe. “Tôi định tới bệnh viện…” Tôi bảo anh ta. “Và tôi sẽ đợi ở đó.”
“Tốt.” Anh ta nói. “Hai người phải làm sao để mình đúng trong chuyện này. Cô đã sẵn sàng chưa?” Ánh mắt của anh ta nói rằng: tốt hơn hết là tôi nên sẵn sàng đi. Tôi gật đầu. “Chớ rời bệnh viện. Tôi sẽ đến đó sớm nhất có thể.”
Tôi gật đầu, rồi lùi xe, vòng lại và chạy theo chiếc xe cứu thương đang lăn bánh trên con đường quanh co xuống núi, ngày một xa đống tro tàn của những gì chúng tôi từng mong khám phá.
Điều đầu tiên tôi làm, khi các bác sĩ khám cho mình, là ngồi xuống và gọi cho Javier, mặc dù bây giờ mới gần năm giờ sáng. Tôi không nói với cậu ấy về vụ cháy, hay chuyện suýt chết kia. Tôi chỉ báo với cậu là chúng tôi ổn. Cậu ấy không thể biết chúng tôi đang ở bệnh viện được, dù rất may, cậu không hỏi nhiều, và tôi không phải nói dối.
“Bọn trẻ thế nào rồi?” Tôi hỏi cậu ấy. Tôi vừa dựng Javier dậy, và tôi thấy rất áy náy, nhưng nghe thấy giọng cậu lại khiến tôi yên tâm vô cùng, như trút được một gánh nặng to lớn. “Chúng đã quen chưa?”
“Tôi vẫn chưa biết.” Cậu thành thật nói. Cậu vẫn nói thầm, và tôi nghe thấy tiếng quần áo cọ vào nhau sột soạt cùng tiếng bước chân. Tôi tưởng tượng trong đầu cảnh cậu khoác thêm áo và bước ra hiên nhà, vì tôi nghe thấy tiếng gió rít khẽ qua loa ngoài điện thoại, và tiếng gỗ kẽo kẹt khi cậu ngồi xuống chiếc ghế vẫn thường kê ở ngoài hiên. “Chúa ơi, tối nay trời lạnh cóng. Bọn trẻ vẫn ổn, nhưng tôi không nói rằng chúng vui được đâu. Hai đứa luôn nghĩ chị đang gặp nguy hiểm. Lanny muốn ra khỏi nhà đến chết đi được. Connor thì chỉ… đọc sách. Chuyện đó có bình thường không?”
“Ít nhiều gì thì cũng có.” Tôi đáp. “Chuyển lời với chúng giúp tôi rằng tôi yêu chúng, được không?”
“Chắc chắn rồi.” Cậu ngần ngừ mấy giây, rồi ngáp. Ngáp cũng lây, nên sau đó tôi cũng ngáp theo, và lại nhận ra rằng mình đã kiệt sức đến mức nào. “Chị đang không ổn đâu, Gwen ạ. Tôi biết đấy.”
“Tôi đủ ổn mà.”
“Chị sẽ về sớm chứ?”
“Tôi không biết nữa.” Tôi khẽ nói với cậu. “Tôi đang cố.”
Lúc cúp máy, tôi thấy ngực mình căng cứng, cổ họng bỏng rát vì những dòng nước mắt chảy ngược.
Sau tám tiếng đằng đẵng trong phòng cấp cứu, chấn thương của Sam được xác nhận là nứt xương sườn và chấn động nhẹ. Tôi được cảnh báo rằng đầu của mình sẽ đau như búa bổ suốt một ngày liền (và quả đúng như vậy, dù đã táng hàng vốc thuốc giảm đau loại không cần đơn thuốc). Lúc sườn của Sam được băng bó xong và được miễn các khoản viện phí mà chúng tôi không trả nổi, chúng tôi thấy có ba người đàn ông da trắng mặc đồng phục cảnh sát đang chờ mình ở hành lang. Họ gần như giống hệt nhau, cả ba đều lực lưỡng, đúng kiểu những người từng chơi bóng bầu dục ở vị trí hàng hậu vệ thời trung học; cả ba đều đầu húi cua, đều rám nắng ở phần da từ cổ áo trở lên và từ ngang bắp tay trở xuống. Mike Lustig, vẫn nguyên áo chống đạn, đeo huy hiệu, mặc bộ đồng phục đen thùi lùi của FBI, đứng tách biệt, dựa vào tường, hai cánh tay khoanh lại. Ở đây sáng sủa hơn, tôi mới thấy anh ta có gương mặt dài, thân thiện, một gương mặt có vẻ sẽ hay nhếch mép cười mỉa mai hơn là cau mày giận dữ.
Nhưng không nhận xét mấy tay cảnh sát Georgia như vậy được. Cả ba người họ trông đều trầm tĩnh lúc tâm trạng đang tốt, và trở nên hoàn toàn đối lập lúc khó ở.
“Ông Cade? Bà Royal?”
“Là cô Proctor.” Tôi tự động chữa lại, rồi sau đó mới nhận ra anh ta vừa gọi tôi bằng tên cũ. “Không phải Royal. Tên tôi là Gwen Proctor.”
“Theo hồ sơ của tôi thì là Gina Royal.” Người vừa nói đáp, với một đôi môi nhăn nhó mà tôi không hề nhầm lẫn với một nụ cười. “Cô đi cùng với tôi, thưa quý cô.”
Tôi liếc Mike Lustig. Anh ta nhún vai. “Tôi không có hứng cãi nhau đâu.” Anh ta nói. “Cứ đi đi.”
Sam và tôi liếc vội nhau, và tôi gật đầu để anh biết mình không sao. Tôi không biết liệu mình có không sao thật hay không, nhưng chẳng có lý nào, và cũng chẳng có lợi gì, để gây chiến với nhau ngay giữa lối đi này cả. Tôi đi cùng viên cảnh sát rẽ vào một góc hành lang, tới một phòng chờ vắng lặng, và anh ta ra hiệu cho tôi ngồi xuống chiếc ghế ở góc phòng. Đó là chỗ cách xa lối ra nhất, nhưng tôi vẫn tự động tính đường trốn thoát, chỉ để luyện tập. Đặc vụ Lustig không đi theo chúng tôi.
Thú vị làm sao, nhân viên cảnh sát xin phép ra ngoài luôn và đóng cửa lại. Tôi xem đồng hồ và bắt đầu đếm. Tôi nghĩ anh ta sẽ cho tôi đợi dài cổ ít nhất cũng phải một tiếng. Đó là nghiệp vụ tiêu chuẩn. Đối tượng càng mất cân bằng và mệt mỏi, khả năng lỡ lời càng cao.
Sách nghiệp vụ cảnh sát ở Georgia hẳn đã nói rõ: hai tiếng đồng hồ là tốt nhất, bởi khi viên cảnh sát quay trở lại, đồng hồ đã chỉ gần ba giờ chiều. Anh ta ép mình vào chiếc ghế bên cạnh tôi, quá gần, khó mà thoải mái được. Tôi đồ rằng anh ta có ý dọa dẫm. Làm như thế chỉ khiến tôi bực mình mà thôi. Nếu anh ta thực sự biết tôi là ai, chắc chắn anh ta sẽ hiểu để dọa được tôi, những trò đe dọa kia phải ở một ngưỡng hoàn toàn khác. Người anh ta bốc lên mùi gì như mùi mồ hôi và khói, thế có nghĩa là anh ta đã lên chỗ căn nhà gỗ, hay những gì còn lại của căn nhà gỗ. Trên ống tay áo bên trái của anh ta có dây một vết bẩn trông giống như máu đã khô, và bây giờ, khi đã trông thấy nó, tôi không thể nhìn đi chỗ khác được. Có phải anh ta đã giúp ai đó nên mới bị dây máu? Hay đã đấm ai đó? Dẫu đôi khi, bạn phải đấm một người để giúp một người khác.
“Vậy…” Tôi nói với anh ta. “Anh cảnh sát…”
“Turner, thưa cô.”
“Anh Turner, gọi tôi bằng tên cũ là để thể hiện quyền lực, hay chỉ là nhầm lẫn thôi, thưa anh?”
Anh ta ngả người ra sau, làm cái ghế nhựa cọt kẹt kêu lên, và nhìn tôi bằng ánh mắt vô cảm của một người đã làm trong lực lượng thực thi pháp luật lâu năm. Anh ta tính xem nên dùng phương án nào: đe nẹt, hay phỉnh phờ. Cả hai đều không có tác dụng, nhưng xem anh ta đấu tranh nội tâm cũng có chút thú vị.
Anh ta quyết định sẽ diễn vai chàng trai miền quê ấm áp để phỉnh (15) tôi, và khi anh ta mở miệng nói lại, giọng miền Nam của anh ta ấm hơn hẳn, ngọt hơn hẳn, lại hơi kéo dài giọng ra một chút, và thậm chí còn rặn được ra một nụ cười bẽn lẽn. “Tôi thừa nhận, thưa cô, tôi cứ nghĩ làm thế sẽ khiến cô bối rối. Tôi xin lỗi nếu đã lỡ làm cô khó chịu. Không phiền nếu ta bắt đầu lại chứ?”
“Hẳn rồi.” Tôi nói với anh ta, cùng một nụ cười có phần giả tạo. “Tôi có thể làm gì giúp anh, thưa anh Turner?”
“Tôi chỉ cần cô bắt đầu kể lại từ đầu và nói cho tôi biết cô đã lên chỗ căn nhà gỗ đó như thế nào, thưa cô. Làm thế nào mà cô lại nảy ra ý tưởng đi lên trên đó, chuyện gì đã xảy ra, đại loại như vậy.”
Tôi thở dài. “Tôi nghĩ chắc mình không thể dụ được anh pha cho một tách cà phê để kể những chuyện đó đâu phải không?”
Anh ta mắc bẫy, mặc dù chỉ đến mức đi ra hành lang, ra hiệu cho ai đó, và chắc là nhờ người pha cho tôi một tách cà phê. Anh ta vẫn tươi cười khi quay lại. Tôi dồn hết tất cả những gì cần nói vào một câu trả lời, mặc dù tôi không có tâm trạng để trả lời. “Bây giờ…” Anh ta nói, và ngồi lại ngay ngắn vào ghế. “Cô định kể gì nào?”
Tôi bỡn cợt bằng cách chỉ đáp rằng tôi không định thế, và yêu cầu gọi luật sư; tôi vẫn không chắc là mình không thực sự cần tới luật sư. Bằng chứng có thể ghi lại bằng nhiều cách, và cả Sam lẫn tôi đều không hề tính trước trường hợp phải trả lời những câu hỏi này. Bởi vậy, tôi nói: “Không phiền nếu tôi hỏi chuyện này trước chứ?”
Anh ta suy nghĩ kĩ, rồi gật đầu. “Cô cứ hỏi.”
“Anh có tìm được thi thể nào trong đó không?”
Anh ta suy nghĩ kĩ hơn nữa, và sau đó chầm chậm lắc đầu. “Không nói chính xác được. Vậy chính xác thì điều gì đã khiến cô lên căn nhà gỗ đó, thưa cô Proctor?” Anh ta được phép nói dối tôi, dĩ nhiên. Đó là truyền thống lâu đời ở các cuộc thẩm vấn, dẫu tôi vẫn chưa được báo cho biết về các quyền của mình. Mà việc ấy lại là chuyện đương nhiên.
Tôi vẫn giữ nguyên câu chuyện đã soạn của mình, phần đầu tiên là sự thật: chúng tôi hy vọng khám phá được một số thông tin về kẻ đang giúp chồng cũ của tôi lẩn trốn. Phần này nâng được một bên lông mày của anh ta lên, nhưng không có bất kỳ bình luận nào. Đó cũng chính xác là những gì Sam sẽ khai. Chúng tôi đã thống nhất với nhau: sự thật là thành lũy tốt nhất của mình, ở một mức độ nào đó… bất kỳ giải thích nào khác cũng sẽ khơi dậy những nghi ngờ, với gã chồng cũ rõ ràng vô cùng độc ác của tôi đứng sau. Tôi khai với anh ta về cánh cửa mở và chúng tôi đã thận trọng thế nào khi đánh liều bước vào bên trong. Giống như tôi đã tập dượt trước đó.
“Vậy cô đã tìm thấy những gì?”
“Không có gì.” Tôi nói dối, dễ như ăn cháo. Tôi sẽ không từ bỏ những gì chúng tôi đem được ra khỏi đó. “Chúng tôi không có thời gian.”
“Cô chỉ… đi vào trong nhà thôi?”
“Cửa mở sẵn mà.” Tôi ôn tồn đáp. “Chúng tôi nghĩ anh ta có thể đã bị thương hoặc gặp rắc rối gì đó.”
“Cô chưa bao giờ nghĩ đến trường hợp một kẻ như thế có thể bắn chết cô vì bước chân vào chỗ ở của anh ta hay sao?”
Tôi nhún vai. Không đáp. Ngu ngốc không phải là cái tội. Chẳng có gì để anh ta moi được từ chúng tôi, ngoại trừ việc cả Sam và tôi đều mang theo vũ khí, tất nhiên. Nhưng hợp pháp. Xâm phạm chỗ ở công dân bất hợp pháp mà không cố ý lấy mất hoặc hủy hoại tài sản, hay khám xét trái luật thì chỉ bị xử phạt hành chính, và mức phí cũng không lớn, ấy là trong trường hợp tốt nhất. Anh ta sẽ chẳng thấy phiền gì đâu, trừ khi anh ta cho rằng mình có thể gán thêm được tội gì đó to hơn.
Anh cảnh sát Turner thay đổi ngôn ngữ cơ thể, chuyển sang chế độ thẳng-thắn-đi-nào. Ở anh ta, nó bao gồm những hành động: nhoài người về phía trước, đặt khuỷu tay lên đùi và xếp hai bàn tay to bè của mình chồng lên nhau. “Cô Proctor ạ…” Anh ta nói. “Ngay lúc này đây, phía cảnh sát Tennessee đang lục soát ngôi nhà trên hồ Stillhouse của cô, tìm kiếm bất cứ thứ gì thể hiện mối liên kết giữa cô với người chồng cũ. Người ta đang phân tích lịch sử các cuộc gọi của cô. Chúng tôi biết cô đã tới gặp anh ta trước khi anh ta trốn trại. Giờ cô có điều gì muốn trình bày luôn không, trước khi những thứ cô giấu kín bị lôi ra ánh sáng? Như vậy sẽ có lợi cho cô hơn đấy.”
Nghiệp dư quá. Tôi đã kinh qua những cuộc thẩm vấn kiểu này suốt mấy năm rồi, từ những điều tra viên cứng cựa hơn anh ta rất nhiều - và cả non tay nghề hơn nữa. Tôi quan sát anh ta thật kĩ một lúc rồi mới nói: “Tôi căm thù Melvin Royal. Anh ta săn lùng tôi, anh Turner ạ. Anh có hiểu cảm giác đó là như thế nào không? Anh thực sự nghĩ rằng tôi muốn giúp anh ta ư? Bởi vì nếu anh đẩy tôi ra đứng trước mặt anh ta và đưa cho tôi một khẩu súng, tôi sẽ không ngần ngại ghim thẳng một viên đạn chết tiệt vào đầu gã đàn ông đó đâu.”
Những lời tôi nói là thật lòng, thật đến từng từ một, cùng loại cảm xúc dữ dội tới mức làm tôi muốn nghẹt thở.
Turner từ từ ngả người ra sau, hai bàn tay duỗi thẳng trên đùi. Anh ta có cặp mắt tinh nhạy và tàn nhẫn mà dường như tất cả các cảnh sát đều có, cặp mắt liên tục thu hết tất cả mọi thứ và không trả lại thứ gì. Mặc cho tác phong bình dân, có phần vụng về, anh ta vẫn là một “con cá mập”.
Có tiếng gõ cửa, và Turner đứng dậy để lấy hai chiếc cốc giấy mỏng tang. Anh ta đưa một chiếc cho tôi, và tôi lập tức quấn cả hai bàn tay lạnh lẽo xung quanh chiếc cốc đầy khoan khoái. Cà phê - bản thân nó đã là một tội ác, nhưng ít nhất nó ấm, và nó khử bớt được cái mùi bệnh viện khó chịu. Nơi này sặc những mùi của sợ hãi, tuyệt vọng và buồn tẻ, của những người không được tắm rửa mà mùi cơ thể họ ngấm sâu vào những băng ghế và giường bệnh. Có một khu trò chơi nhỏ xíu, buồn tênh dành cho trẻ em nằm trong góc. Hiện góc đó đang chẳng có ai đụng đến, nhưng tôi chợt nghĩ tới Lanny và Connor, mới chỉ mười và bảy tuổi khi có một chiếc ô tô đâm thẳng vào garage của Melvin và phơi bày sự thật kinh hoàng về hắn với cả thế giới. Sâu thẳm trong lòng tôi, chúng sẽ vẫn luôn ở độ tuổi đó. Độ tuổi mong manh, dễ bị tổn thương, dễ vỡ ấy.
“Anh muốn kể cho tôi nghe có những gì ở bên trong tầng hầm đó chứ?” Tôi đột ngột chuyển ánh mắt sang Turner và hỏi. Anh ta hơi giật mình một chút. “Bởi anh chàng của chúng ta không muốn ai nhìn thấy nó. Dù nó có là gì đi chăng nữa.”
“Nó bị phá hủy gần như hoàn toàn.” Anh ta nói với tôi. “Chưa có ai xuống dưới đó để mà quan sát kĩ được cả. Cũng phải mất vài giờ, để đến khi hiện trường chắc chắn đã an toàn cái đã. Có thể chúng tôi vẫn sẽ tìm được xác.”
Tôi hy vọng sẽ không có cái xác nào. Hy vọng cháy bỏng. Tôi gật đầu, rồi ừng ực uống nốt phần cà phê còn lại trong cốc. “Phải. Chà, giờ tôi phải đi rồi. Cảm ơn vì cốc cà phê.” Anh ta đứng lên cùng lúc với tôi, bước ra chặn đường tôi. Tôi nhìn chằm chằm anh ta và cho phép khóe môi mình từ từ cong lên, chỉ hơi thôi. “Trừ phi anh muốn bắt tôi…?”
Anh ta không có lý do gì cụ thể hay bằng cớ gì vững chắc, và anh ta biết điều đó. Tôi biết thừa anh ta chỉ dọa khi nói: “Ngồi xuống, cô Proctor. Chúng ta còn có nhiều điều để nói đó!”
Tôi không trả lời. Tôi chỉ bước về phía anh ta. Vào giây cuối cùng, anh ta tránh sang một bên. Giam người trái pháp luật chẳng mang lại lợi lộc gì cho anh ta hết, và anh ta đủ thông minh để biết tôi không phải dạng vừa, chẳng dễ gì dọa cho tôi tin rằng anh ta có lý do để giữ mình lại cả. Phải, có một căn nhà bị cháy. Phải, tôi đã ở trong căn nhà đó. Nhưng có đầy đủ bằng chứng cho thấy nơi đó đã bị cài bẫy mìn, và tôi may mắn thoát chết, và họ cũng có rất nhiều bằng chứng hết sức trêu ngươi để tha hồ mà phân tích, và những bằng chứng đó lại chẳng dính líu gì đến tôi và việc tôi có thể, nhưng không-chứng-minh-được, là đã xâm nhập gia cư bất hợp pháp cả.
Tôi điềm nhiên sải bước, đi ngang qua anh ta. Từ đằng sau, anh ta nói với lên: “Chúng ta vẫn còn phải nói chuyện đấy, thưa bà Royal.” Chỉ là trò trêu tức trẻ con, và tôi chằng thèm để trò ấy vào mắt. Tôi chẳng buồn quay lại nhìn anh ta. Tôi vẫn tiếp tục đi, và ngay khi bước ra khỏi ngưỡng cửa, tôi thấy như trút được một gánh nặng. Tôi hít mạnh một hơi thật sâu, làn hơi được mùi hương tươi mới tỏa ra từ chỗ cà phê tôi vừa mới uống xong lọc sạch. Tôi vứt chiếc cốc và đi tìm chỗ họ giữ Sam.
Anh vẫn đang bị giam trong phòng kín cùng một viên cảnh sát, và khi nhìn quanh tìm Mike Lustig thì tôi không thấy anh ta đâu nữa. Tôi không hài lòng tí nào. Tôi không thích chuyện anh ta bỏ chúng tôi “sống chết mặc bay” ở đây. Tôi tìm chỗ ngồi và chờ đợi, nhìn chằm chằm cánh cửa và xem kim đồng hồ lừ đừ nhích từng chút một. Cuộc thẩm vấn của Sam xem ra ít nhất cũng phải dài gấp đôi thời gian so với của tôi, và khi cuối cùng anh cũng xuất hiện thì đã gần sáu giờ. Trông anh chẳng có vẻ gì là khó chịu và anh tu nốt cốc cà phê. Anh nuốt đánh ực ngụm cuối cùng và vứt chiếc cốc rỗng đi, sau đó đứng lại bên cạnh tôi. “Anh ổn chứ?” Tôi hỏi.
“Chẳng có gì mà anh không xử lý được cả.” Anh đáp. Dông tố đang vần vũ sâu trong đáy mắt anh. Tôi tự hỏi về những gì phía cảnh sát nói với anh. Chắc hẳn không hề dễ chịu.
“Ông bạn Mike của anh đâu rồi? Anh ta chẳng làm được gì cho chúng ta cả.”
“Phải.” Sam đáp. “Anh ấy phải quay lại hiện trường.”
“Vậy, anh ta đã nói gì với anh? Nếu anh ta có nói gì đó.”
“Về nhà.” Sam nói. “Quên chuyện đã từng xảy ra đi.” Về lại hồ Stillhouse, tôi đảm bảo ý anh ta là thế. Ngồi thấp xuống, súng ống sẵn sàng, chờ chồng tôi đến tìm chúng tôi. Nhưng khi cố gắng tưởng tượng tới điều đó, tôi không tài nào thấy được rằng chúng tôi đang cố gắng tự vệ cả. Tôi thấy Melvin xuất hiện, hệt như một tà linh độc ác, ngay đằng sau chúng tôi. Tôi thấy hắn giết Javier và Kezia. Tôi thấy Sam nằm chết trên sàn nhà.
Tôi thấy tôi và các con tôi, một mình chống lại bóng đen hắc ám là bố của chúng. Và tôi không tự tin mình có thể bảo vệ được chúng.
“Ta không thể bỏ cuộc như thế được.” Tôi nói. “Xem thử ta đã tìm được những gì trước đã. Lustig sẽ cho ta biết họ tìm thấy những gì dưới tầng hầm trong căn nhà đó chứ?”
“Chắc vậy.” Sam nói, và câu nói đó không làm tôi háo hức chút nào. “Có thể anh đã hủy mất cơ hội đó rồi. Chúng ta sẽ chờ xem sao. Không, đừng xin lỗi.” Tôi đã mở miệng toan nói câu xin lỗi, và tôi ngậm miệng lại, thật nhanh. “Anh đã hủy hoại tất cả các mối liên kết mình xây dựng được dẫn tới chỗ Melvin rồi. Anh hiểu mà.”
Tôi tự hỏi liệu anh có tính cả mối liên kết mà chúng tôi đã cẩn thận vun đắp giữa hai đứa hay không. Tôi nghĩ mình hiểu Sam, đa phần là thế. Nhưng khi nói đến điều này… có lẽ tôi đã tự lừa dối mình. Có lẽ, mặc cho tất cả những gì anh đã làm cho tôi và các con tôi, mặc cho việc tôi đã cho phép mình cởi mở và không phòng bị khi ở bên anh, và anh đã biểu lộ mọi dấu hiệu cho thấy anh ghi nhận điều đó… Có lẽ, cuối cùng, nếu phải chọn giữa tôi và bắt được Melvin, anh sẽ bước ngang qua tôi để tóm chặt lấy cổ họng chồng tôi.
Tốt thôi. Có lẽ tôi cũng nên làm điều tương tự. Có lẽ tốt nhất là chúng tôi không nên nhắc gì đến chuyện ấy nữa.
Có cả một đội quân cảnh sát xung quanh, nhưng chúng tôi không bị chặn đường lúc đi ra. Xe của chúng tôi vẫn còn ở ngoài đó, và vẫn được khóa lại. Sam thở phào một hơi thật dài khi chúng tôi rẽ vào đường chính, và anh ấy tăng tốc - trong phạm vi cho phép - chạy thẳng về hướng nam. “Đúng vậy…” Anh nói. “Ta hãy biến khỏi chỗ chết tiệt này đi. Giờ ta đi đâu?”
“Thị trấn kế tiếp.” Tôi nói với anh ấy. “Ta cứ ở lại vùng này, miễn không lượn lờ ngay trước mũi bọn họ là được. Tìm một cái nhà nghỉ.” Tôi sắp nói chỗ nào giá cả bình dân, nhưng rồi dừng lại ngay. Đó là lựa chọn rất tự nhiên của tôi, nhưng nếu Melvin biết chuyện vừa xảy ra, hắn và Absalom sẽ tức tốc săn tìm chúng tôi. Chỉ có tí tẹo lựa chọn cho chúng tôi ở khu vực này. Chúng sẽ tới tìm ở những chỗ rẻ và không có tên tuổi trước. “Tìm chỗ nào phục vụ cả ăn sáng nữa ấy. Chỗ nào đó biệt lập, ít người biết đến.”
Anh gật đầu và ném cho tôi một cuốn sổ nhỏ. “Cẩm nang du lịch. Lấy ở cửa hàng bán đồ lưu niệm trong bệnh viện đấy.” Anh nói. “Kiểu gì cũng đăng quảng cáo bên trong.”
Chú thích:
[14] Nguyên tác: first responder - chỉ những người có mặt đầu tiên tại hiện trường để xử lý thảm họa, thường gồm lực lượng có nghiệp vụ đặc biệt như cảnh sát phòng cháy chữa cháy, nhân viên y tế, cứu thương, lực lượng cứu hộ, cứu nạn… Tạm dịch: ‘Tực lượng phản ứng khẩn.”
[15] Nói khéo, nói nịnh để làm cho người ta tưởng thật, thích và nghe theo, làm theo.