← Quay lại trang sách

Chương 9 GWEN

Vào bên trong hàng rào, tôi có cảm giác như chúng tôi là những sinh vật duy nhất đang bước đi trên bề mặt trái đất, và theo phản xạ, tôi đưa mắt quan sát xung quanh, tìm đường rút lui khi có biến. Không ổn. Chỉ có một lối ra, sau lưng chúng tôi. Tôi thích có nhiều đường thoát hơn. Nếu buộc phải rút, tôi có thể trèo lên hàng rào kia, hy sinh chiếc áo khoác này để người khỏi bị dây thép gai cào rách. Nếu hắn ở trong kia thì sao…

Hắn không có, tôi kiên quyết nhủ với lòng. Dù rằng, thành thật mà nói, còn nơi nào tốt hơn cho Melvin Royal ẩn náu nữa? Một nhà kho bỏ hoang cùng đám con nhang đệ tử mang đồ ăn thức uống, các thứ tiện nghi và nạn nhân đến cho hắn. Chuyện đó khả dĩ tới mức bí hiểm, làm tôi phải bước chậm lại, gần tới mức dừng hẳn, và bị Sam nhìn. Anh không thấy thế. Anh chỉ nhằm thẳng vào mục đích tìm kiếm manh mối.

Tôi phát hoảng khi nghĩ tới trường hợp mình sắp sửa tìm thấy thứ gì đó cực kì, cực kì nguy hiểm, nguy hiểm hơn rất nhiều.

Tôi có cảm giác như binh đoàn cương thi đã tụ tập cả lại bên trong cái sân này. Mây mù kéo tới khắp Atlanta, che kín bầu trời trên đầu chúng tôi, và màn mây trĩu thấp tới mức tôi không sao nhìn thấy những chiếc máy bay xẹt ngang qua trên cao để nhắc tôi rằng thế giới vẫn đang chuyển động. Tôi không nghe thấy âm thanh gì ngoài tiếng gió rít qua hàng rào và tiếng mấy mớ rác nhựa xám xịt bị gió cuốn bay cào sồn sột lên những nơi chúng lướt qua. Chỗ chúng tôi đứng từng là một bãi đỗ xe, nhưng nó đã phải đầu hàng trước cuộc xâm lăng của những loài cỏ cây mọc dại và thời tiết. Bãi đỗ xe trước đây giờ đã biến thành một bãi mìn toàn những mảnh nhựa đường vỡ lởm chởm lẫn với những thân cây đã chết khô hoặc đang dần chết. Rất dễ bị vấp ngã. Không thể bỏ chạy an toàn. Thậm chí đứng ở đây, tôi vẫn nhìn thấy ổ khóa sáng bóng ở cửa sau. Chốt cài nơi ổ khóa móc vào trông như vừa mới lắp.

“Gwen?” Sam, lúc này đã chạy về đứng cạnh tôi, lên tiếng hỏi. “Em ổn chứ?”

Em không muốn làm chuyện này, tôi muốn nói với anh như thế. Tôi muốn nhắc anh rằng mình đã đúng về chuyện tầng hầm. Nhưng tôi biết lời cảnh báo do bản năng mách bảo thực thụ khác với thứ sản phẩm hỗn loạn sinh ra từ sợ hãi như thế nào. Vậy nhỡ Melvin ẩn náu ở đây thật thì sao? Ở đây có hai chúng tôi, cả hai đều là những tay súng giỏi, cả hai đều có lý do muốn nhìn thấy hắn chết. Điều đó có nghĩa: cơn ác mộng của tôi có thể sẽ được chấm dứt ngay, sau vài phút thay vì vài ngày, hoặc vài tuần, hoặc không bao giờ.

“Ổn mà.” Tôi nói và ép mình gật đầu với anh một cái. Tôi vẫn đang rất bực bội trong lòng khi anh đã xem màn tra tấn kinh dị trong đoạn phim kia một mình, vì điều đó giống như một sự bảo vệ, giống như một người đàn ông quyết định thay tôi vậy. Chúng tôi sẽ nói chuyện sau. Còn bây giờ, chúng tôi phải làm cho xong việc này. “Ta mau tiến hành thôi. Cẩn thận kẻo vấp.”

Chúng tôi đi vòng qua hông nhà kho, chú ý quan sát. Bất cứ chỗ nào trông như tôn từng bị bong ra cũng đều đã được đóng đinh lại tử tế; mũ đinh vẫn còn bóng sáng, không có dấu hiệu gỉ sét. Cửa sổ nhà kho được trổ rất cao, kính và song đã gãy vỡ, nhưng cũng không thể với tới được; chẳng có thùng, sọt hay cái thang bị vứt nào ở gần để chúng tôi có thể dùng làm bệ đỡ mà trèo lên chỗ cửa sổ, và thậm chí ngay cả khi tôi trèo hẳn lên vai Sam, tôi vẫn còn cách bậu cửa những mấy tấc. Tôi bắt đầu thấy chuyến thăm dò này chỉ tổ lãng phí thời gian thì lại phát hiện ra một cái cửa ngách; không giống như cửa hậu, những kẻ ở đây chẳng buồn tháo chốt cài khóa cũ ra. Mấy cái đinh đóng ở đó trông cũ lắm. Gỉ sét hết cả.

Tôi chỉ cho Sam, và anh gật đầu. Anh thò tay vào ba lô và rút ra một loại dao gấp đa năng mà giờ người ta không còn cho phép mang lên máy bay nữa; anh chọn lưỡi dao dày nhất và dùng nó để nạy đinh, và chẳng tốn bao nhiêu thời gian để khiến toàn bộ chốt cài được đóng đinh chắc chắn đó bung hết ra. Gần như không một tiếng động.

Sam ngăn tôi lại và đưa cho tôi một đôi găng tay cao su màu xanh; anh tự đeo lấy một đôi. Khôn ngoan. Điều cuối cùng chúng tôi muốn làm là để lại dấu vân tay ở chỗ này. Càng ít dấu vết càng tốt.

Tôi mở cửa và bước vào trong, cẩn thận và yên lặng hết mức có thể, và mặc cho bao nhiêu tập trung và kiềm chế, tôi vẫn thấy mồ hôi rịn ra trên trán, dưới cánh tay, trên lưng mình. Tôi run rẩy vì adrenaline dồn dập trào lên trong người, và tôi kinh hãi tột cùng khi sắp sửa nhìn thấy bộ mặt xanh xao của Melvin lù lù hiện ra trong bóng tối, cặp mắt trống rỗng vô hồn như cặp mắt của một người nộm khi hắn tiến gần tới tôi. Nỗi sợ hãi đó thật đến nỗi tôi phải bỏ ra một giây để tưởng tượng mình đang nhốt nỗi sợ và khóa chặt nó lại đằng sau cánh cửa, nơi nó tha hồ đập phá và giận dữ mà không gây ra thiệt hại gì.

Hắn không có ở đây.

Nhưng nếu hắn ở đấy, mình sẽ giết hắn.

Đó là câu thần chú tôi niệm thầm trong đầu, và nó thực sự có tác dụng.

Sàn nhà láng bê tông đã nứt vỡ, đầy sạn, nhưng ít nhất, tôi không phải cần tới đèn pin mới nhìn thấy đường; ánh sáng màu trắng sữa lọt vào trong bị lớp bụi lơ lửng trong không khí làm đục hẳn đi, nhưng vẫn đủ sáng để thấy phần nhà kho này rất rộng và trống trải, chỉ có tường bao, không có tường ngăn chia. Những bộ phận máy móc gỉ sét, vài động cơ bị bỏ đi và mấy đống vôi gạch vỡ nằm ngổn ngang trên sàn.

“Cẩn thận bước chân nhé.” Sam thì thầm với tôi, khẽ đến mức tôi suýt không nghe thấy. “Chỗ này là nhà máy sản xuất vi khuẩn uốn ván đấy.”

Anh nói đúng. Cả hai chúng tôi đều đi giày có đế dày, nhưng tôi vẫn chú ý tránh xa đinh nhọn, mảnh kính vỡ, bất cứ thứ gì tương tự. Kính vỡ thường được những cư dân “xóm liều” dùng làm hệ thống báo động tự chế, còn đinh được đóng xuyên qua các tấm ván gỗ và đặt ngửa lên trời làm hệ thống phòng thủ cây nhà lá vườn. Điều cuối cùng tôi muốn làm là giẫm lên trên một trong những cái bẫy chông đó.

Chúng tôi dừng chân lại và lắng tai nghe. Ngoài tiếng hú và tiếng kẽo kẹt phát ra khi gió chui qua mái nhà và cửa sổ, chẳng còn tiếng động gì khác. Cũng không có thứ gì chuyển động. Nhưng có mùi. Gỉ sét. Máu me. Băng hoại. Nó quá quen và ghê tởm đến độ tôi thấy hoa mắt.

Mùi nước hoa đặc trưng của Melvin.

Có một ô cửa trống ở phía trước, và tôi thận trọng tiến về phía đó. Tôi bước ra chỗ khuất tầm nhìn của kẻ ở phía bên kia, và tôi đứng sững lại khi trông thấy thứ gì nom giống như một đống quần áo nằm dọc ở một bên tường đằng xa. Tôi rút súng ra và Sam cũng làm y như vậy. Anh dịch sang phía còn lại của ô cửa để hỗ trợ tôi và giơ ba ngón tay lên. Anh đếm ngược, rồi cả hai cùng xoay người vào trong căn phòng kia - rất trơn tru và không hề gây tiếng động.

Suýt chút nữa, tôi vướng phải những sợi xích lòng thòng bên trong. Tôi rụt người về sau vào đúng giây cuối cùng, và tôi không nén nổi tiếng làn hơi ộc ra khỏi cơ thể mình, nhưng ít nhất, vẫn không phải là tiếng thét. Tôi nhìn xuống chân. Nhiều sợi xích hơn nữa, được móc chặt vào những vòng thép mới cứng, sáng loáng vít chắc chắn vào sàn bê tông. Những sợi xích ở phía trên được mắc vào một bộ ròng rọc, và lần theo sợi dây thừng mắc trên đó, tôi thấy mối nối nằm cố định trên bức tường đằng xa, phía trước mặt tôi.

Sàn nhà dày đặc những vệt máu đã lâu ngày, bị vón cục từ rất lâu và khô lại thành một lớp vỏ đen sần sùi, bong ra từng mảng. Vẫn còn mấy con ruồi lượn lờ xung quanh, nhưng không nhiều, còn lâu mới gọi là ồ ạt và nhung nhúc như khi vũng máu còn tươi. Tôi cố gắng không cảm thấy điều gì hết, nhưng cánh cửa nơi tôi đã nhốt nỗi sợ hãi của mình đằng sau đang chuẩn bị vỡ tung vì áp lực. Mồ hôi tôi chảy đầm đìa. Tôi run rẩy và không sao thở nổi. Chỉ còn một chút nữa thôi, tôi sẽ thở hồng hộc rất gấp và tôi biết mình cần phải bình tĩnh lại.

Tập trung, tôi tự nhủ. Khóa lại. Đừng nghĩ tới nữa. Tôi biết tại sao mình hoảng sợ. Chỗ này quá giống với những gì tôi từng nhìn thấy trong nhà để xe của chồng tôi, thậm chí tới mùi cũng giống nốt. Những hình ảnh cũ vụt qua trong đầu tôi và tôi chỉ muốn rời khỏi đây.

Nhưng tôi không thể.

“Gwen.” Sam nói. Lần này, anh không thèm giữ im lặng nữa. Khi tôi quay lại, anh đang lom khom bên cạnh đống quần áo, và tôi bước tới chỗ anh.

Mùi phân hủy xộc thẳng vào mũi khi tôi chỉ mới bước tới một bước, và cái mùi ấy lại càng kinh khủng hơn nhiều khi tôi tiến tới gần hơn, và giờ, tôi đã biết những gì mình sắp phải thấy trước cả khi nhìn tận mắt thứ đó trong ánh sáng mờ đục ở nơi này.

Thi thể đã nằm đây một thời gian khá dài, đủ lâu để tiêu xuống thành những mảnh thịt không còn nguyên vẹn. Phần nửa thi thể đã trơ xương. Chỗ da còn lại trên người anh ta - tôi đồ rằng đây chính là người đàn ông chúng tôi thấy trong đoạn băng ghi hình đó - mỏng và khô như giấy sáp, và những con giòi cũng đã đi mất từ lâu. Những vỏ nhộng chúng bỏ lại giờ đã vụn ra như những hạt gạo vương vãi.

“Đã bao lâu…” Giọng tôi không được rành mạch. Tôi ngừng nói. Sam ngước nhìn tôi.

“Thời tiết bây giờ đang rất lạnh, nhưng có lẽ trời vẫn ấm khi anh ta bị giết. Vậy nên, chắc có lẽ đã vài tháng.” Sam im lặng một lúc, cúi đầu, và rồi anh đứng dậy. “Nhìn xung quanh xem. Xem thử ở đây còn có thứ gì khác nữa không…”

Tôi cố gắng lờ cái xác kia đi, nhưng khó quá. Tôi vẫn liên tục cảm thấy nó lù lù ở đó, cứ như thể hốc mắt trống trơn của người chết kia đang dõi theo tôi từng bước một. Phần này của nhà kho có một đống bàn làm việc cũ, trên đó chẳng có gì ngoài phân chuột và một tập hóa đơn cũ kĩ, quăn queo bị lãng quên đã hai mươi năm có lẻ, và chắc cũng chẳng có gì đáng để quan tâm.

Nhưng phía cuối gian có một phòng làm việc nhỏ, và trong khi Sam kiểm tra xung quanh, tôi tiến thẳng tới đó. Căn phòng lắp một cánh cửa bằng kim loại có ốp kính. Ô kính này khá to, được gia cố bằng lưới thép; dù đã bị rỗ và nứt mấy chỗ, nhưng vẫn bám vào cửa khá chắc chắn. Tôi thử xoay tay nắm cửa.

Bị khóa. Nhưng cái khóa trông cũ mèm và có lẽ chính là khóa gốc của cánh cửa từ khi mới lắp. Chỉ cần một vài cú đá mạnh, cánh cửa đã mở toang. Một chiếc bản lề bên dưới bị bật ra, và cánh cửa loạng choạng đổ về một bên, cào soàn soạt lên sàn nhà hòng tìm lại thăng bằng.

Đã có kẻ sử dụng nơi này. Gian phòng nhỏ vẫn đổ nát và bụi bặm, và mấy con nhện đã chiếm hết các tủ hồ sơ kê dọc bức tường phía sau làm nơi săn mồi của mình, nhưng ở đầu bên kia gian phòng, chiếc bàn làm việc thô kệch cũ kĩ như còn sót lại từ hồi Thế chiến II lại tương đối sạch sẽ. Có vệt kéo dài in trên lớp bụi bẩn đóng trên sàn nhà, nhưng không có dấu chân.

Một chồng giấy tờ gì đó được xếp ở trong góc - toàn giấy in đơn thuần, không đóng dấu mờ, không chữ viết tay. Tôi thử một mẹo mình học được trong truyện Nữ thám tử Nancy Drew [24] hồi xưa; tôi quét lấy một nắm bụi mịn vốn nằm đầy xung quanh và rắc lên tờ giấy trên cùng, sau đó nhẹ nhàng láng ra xung quanh để xem có vết lõm nào bị lộ ra hay không.

Chẳng có gì hết.

Tôi bắt đầu mở ngăn kéo tủ. Tôi làm mấy con nhện giật mình và chúng cũng làm tôi giật mình lại, nhưng những kẻ săn mồi tám chân đó là thứ cuối cùng khiến tôi hoảng sợ ở giờ phút này. Trong ngăn kéo gần cuối, tôi tìm thấy một chiếc ví nam. Chiếc ví đã bị mòn, thân cong lên vì người dùng thường đút nó trong túi quần sau suốt thời gian dài. Tôi đặt nó lên mặt bàn và cẩn thận mở ví ra. Không có con nhện nào trong đó xồ ra, nhưng tôi thấy tiền mặt cộm lên ở ngăn phía sau. Rất nhiều tiền mặt, ít nhất cũng phải hai hoặc ba trăm đô. Tôi không đếm. Tôi nhìn thẻ giấy phép lái xe nhét trong ngăn nhựa trong phía ở mặt trước, bên trái cái ví. Đó là giấy phép lái xe bang Louisiana cấp cho một người đàn ông tên là Rodney Sauer. Tôi chụp lại địa chỉ trên giấy phép bằng điện thoại di động; nó ở thành phố New Orleans. Đằng sau giấy phép lái xe là những tấm thẻ nhựa thường thấy của cuộc sống hiện đại: thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng, vài tấm thẻ khách hàng thân thiết của siêu thị và đại siêu thị.

Ở ngăn nhựa bên phải, tôi thấy ảnh một người phụ nữ tóc vàng đầy đặn, viên mãn đang ôm hai đứa trẻ đáng yêu. Ở mặt sau, có một dòng chữ nguệch ngoạc, tròn trĩnh rất trẻ con, Tình yêu gửi đến bố từ mẹ, Kat và Benny.

Tôi phải nín thở, cố ghìm lại cơn đau tức ở ngực. Người phụ nữ xinh đẹp, hạnh phúc này có biết anh ấy đã chết rồi không? Phải chăng anh ấy chỉ tan biến vào thinh không trong một ngày hè rực rỡ? Bọn trẻ có còn hỏi khi nào anh ấy về nhà không?

Tôi nhét tấm ảnh vào lại trong ví và tiếp tục tìm kiếm. Tôi tìm thấy một xấp nhỏ danh thiếp có in tên Rodney Sauer, và hình gì trông na ná hình ngôi sao của lực lượng thực thi pháp luật nhà nước được in nổi bằng mực đen sẫm.

Anh ấy không phải là cảnh sát. Anh ấy là một thám tử tư. Tôi rút ra một tấm danh thiếp và cất vào túi của mình.

Không còn thứ gì khác có ích với chúng tôi trong ví. Nếu Rodney có giấy ghi chú, máy ghi âm - bất cứ thứ gì tương tự - thì chúng không có ở đây.

Chúng chỉ bỏ lại đây những thứ không có ích lợi gì cho mình, kể cả Rodney.

“Gwen?” Sam đứng ở cửa, khẽ hỏi. Tôi gật đầu và thả chiếc ví lại trong ngăn kéo, đóng lại và rời đi.

Chúng tôi đi ngang qua chỗ thi thể, băng qua gian phòng còn lại, chui ra cửa ngách, bước ra ngoài với buổi chiều dày đặc mây, nhưng lại là buổi chiều tươi sáng nhất, thân thiện nhất tôi từng nhìn thấy. Tôi thấy chóng mặt đến phát ốm, và tôi hớp lấy không khí ngoài này để lấy lại bình tĩnh. Adrenaline của tôi đã dâng tới mức độc hại, và giờ đây, khi ra được khỏi nhà kho kia, cả người tôi run lẩy bẩy.

Lustig đợi chúng tôi ở chỗ hàng rào. Tôi vẫn còn cầm vũ khí, khi nhận ra, tôi cất lại vào bao da. Lustig giữ tấm lưới mắt cáo cho chúng tôi khi chúng tôi trèo ra, rồi cẩn thận cố định chúng lại như cũ bằng mấy chiếc kẹp giấy.

Chúng tôi kể lại hết cho anh ta. Thứ duy nhất chúng tôi để lại là dấu giày, và dấu vết con đường chúng tôi đi rất mới, hoàn toàn không tiệp với show diễn kinh dị trong đó. Chúng tôi tìm đường quay lại chỗ chiếc xe, may thay, nó vẫn còn nguyên vẹn, mặc dù khóa đã bị nạy và chiếc radio ô tô bị rớt ra ngoài. Tới một trạm điện thoại công cộng giữa thành phố, tôi dừng lại, gọi điện cho cơ quan chức năng, báo rằng mình phát hiện ra một thi thể.

“Cảm ơn.” Lustig nói khi tôi cúp máy. “Còn giờ, hãy gọi cho tôi.” Anh ta đọc số điện thoại của mình cho tôi, và tôi lại nhét một nắm đồng xu vào máy để gọi điện. Tôi nhắn lại với anh ta thông tin tương tự, và nói rằng có một số liên kết với vụ án FBI đang theo đuổi. Tôi cúp máy và nhìn Lustig dò hỏi, anh ta giơ ngón tay cái lên. Do điện thoại của anh ta vẫn đang tắt, không thể nói anh ta xuất hiện ở cùng vị trí và cùng lúc với người gọi điện được. Bây giờ, coi như anh ta nhận được một tin báo nặc danh.

Quay trở lại vào xe, trên đường đến quán cà phê, tôi bắt đầu cảm thấy khá hơn một chút. Da tôi thấy ấm hơn, dây thần kinh tôi bớt căng thẳng. Tôi biết mình sẽ mơ thấy sự u tịch đáng sợ ở nơi đó, thấy cách nơi đó giả như thanh bình. Tối nay, cảnh sát sẽ niêm phong nhà kho đó, điều tra viên sẽ tới hiện trường vụ án, và Mike Lustig sẽ có lý do rất thuyết phục để FBI nhúng tay vào. Có thể họ sẽ lần được ra người sở hữu nhà kho, nhưng tôi ngờ rằng điều đó khó mà dẫn chúng tôi đến bất cứ nơi nào cụ thể. Absalom không sở hữu chỗ đó. Có lẽ chúng chẳng có bất kỳ mối liên quan nào với nó, ngoài việc dùng nó khi chủ của nó không để mắt tới. Các doanh nghiệp chẳng giỏi kiểm tra các công trình đổ nát cho lắm. Nếu có người đi kiểm tra, khi thấy các biển báo mới, hàng rào mới, ổ khóa mới, họ sẽ lại cho rằng ai đó trong công ty đã thay mới những thứ đó. Thói quan liêu trong công việc.

Absalom sống trong những kẽ nứt. Giống lũ gián, và cả Melvin nữa.

“Vậy giờ thì sao?” Tôi quay sang nhìn Sam và hỏi. Anh liếc Mike.

“Ta thả anh ấy xuống.” Sam đáp. “Rồi ta tới thăm ông già Ballantine Rivard.”

“Điều gì khiến cậu nghĩ ông ta chịu gặp hai người vậy?” Lustig hỏi.

“Bọn tôi sẽ kể với ông ta chuyện xảy ra với người của ông ta.”

Chú thích:

[24] Truyện trinh thám thiếu niên của tác giả Carolyn Keene, xuất bản từ năm 1930.