Chương 11 GWEN
Sau khi rời khỏi nhà kho, chúng tôi quay lại quán cà phê. Nạp thêm caffeine, và tôi hỏi mượn cô nhân viên đứng quầy một cuốn danh bạ điện thoại. Cô ta nhìn tôi đầy hoài nghi và cuối cùng, bới tận tít sâu trong tủ đựng đồ ra một cuốn danh bạ chắc cũng phải gần mười năm tuổi, đầy những vệt nước đã khô. Tôi không trình bày với cô ta tại sao mình lại cổ lỗ sĩ tới như vậy, và cảm ơn Chúa, cô ta cũng chẳng hỏi.
Nhờ cuốn danh bạ, tôi biết được số điện thoại và địa chi của Rivard Luxe.
Tôi phải bấm số thêm sáu lần nữa theo hướng dẫn của tổng đài tập đoàn Rivard Luxe rồi mới nghe thấy giọng nói lạnh tanh, hờ hững của người trực máy. Người đó thản nhiên thông báo: ông Rivard hiện không nghe điện thoại được. Tôi đã tính tới điều đó. Tôi nói: “Làm ơn nhắn lại với ông ta và hỏi giúp điều này: ông ta có mất liên lạc với một vị thám tử tư mà mình đã thuê vài tháng trước hay không. Nếu có, tôi đã tìm thấy người đó. Anh ta chết rồi.”
Người trực máy im lặng một lúc để phân tích câu tôi vừa nói, và khi đáp lại, nghe giọng cô chẳng còn thản nhiên nữa. “Xin lỗi, có phải chị vừa nói “chết” không?”
“Chắc chắn rồi. Đây là số của tôi.” Tôi đọc số cho cô ta. Tôi sẽ phải mua điện thoại mới sau vụ này, nhưng khoản chi đó là chính đáng, vì dù sao, tôi vốn cũng đã định mua cái mới. “Nhắn với ông ta gọi lại cho tôi trong vòng một tiếng. Sau thời gian đó, tôi sẽ không trả lời đâu.”
“Tôi hiểu. Vậy… tên của chị?”
“Smith.” Tôi đáp. “Một tiếng. Hiểu chứ?”
“Vâng, chị Smith. Tôi sẽ gặp ông ấy để chuyển lời cho chị ngay.”
Giọng cô ta nghe không được bình tĩnh nên tôi tin lời cô ta. Tôi gác máy và nhướn mày nhìn Sam. Anh gật đầu. Chúng tôi đều biết rõ: ông ta có thể làm đủ thứ chuyện, kể cả báo cảnh sát Atlanta, và cả hai chúng tôi đều đã ở tâm thế sẵn sàng ném điện thoại vào thùng rác ngay vào giây phút trông thấy xe cảnh sát. Chúng tôi quan sát khách ra vào. Không ai chú ý tới chúng tôi. Những chủ đề nóng bỏng được người ta đem ra đàm luận, như vẫn thường thấy ở các quán cà phê, đều xoay quanh chuyện bài tập ở trường, chuyện viết lách, chính trị và tôn giáo. Đôi khi tất cả những chủ đề đó được bàn luận cùng một lúc. Mười phút sau, điện thoại tôi đổ chuông. “Làm ơn kết nối giúp tôi với cô Smith.”
“Tôi là Smith đây.” Tôi đáp. “Ai đấy ạ?”
“Ballantine Rivard.” Ông ta nói giọng miền Nam, nhưng không phải giọng vùng Georgia, mà là lối ề à kéo dài giọng không lẫn vào dâu được của vùng Louisiana, đặc sệt.
“Làm sao tôi có thể chắc chắn đó chính là ngài, thưa ngài?”
“Cô không làm được đâu.” Ông ta đáp, và ông ta còn tỏ ra thích thú nữa là đằng khác. “Nhưng vì cô là người tìm cách liên lạc với tôi, tôi cho rằng cô sẽ phải liều một phen.”
Ông ta nói đúng. Tôi không thể chứng minh mình đang nói chuyện với đúng người, nhưng tôi thực sự có lựa chọn nào đâu cơ chứ? “Tôi muốn nói chuyện với ông về người ông đã thuê. Người bị mất tích.”
“Người đã chết, theo như những gì cô trao đổi với chị Yarrow bên tôi.”
“Đúng vậy.” Tôi nói với ông ta. “Anh ta đã chết, tôi có thể kể cho ông những gì tôi biết nếu ông gặp chúng tôi.”
“Nếu cô có biết gì đó về tôi, cô sẽ biết tôi không gặp ai hết.” Ông ta vẫn nói chuyện lịch sự, nhưng lời nói đã rắn hơn. Tôi có cảm giác mình sắp vuột mất ông ta. “Làm ơn hãy gọi cho cảnh sát và trình bày câu chuyện của mình, cô Smith ạ. Tôi không có tiền cho mấy âm mưu mà cô đang…”
“Tôi không muốn kiếm tiền.” Tôi ngắt lời ông ta. Tôi quyết định đánh liều. “Tôi muốn kiếm Absalom cơ. Và tôi nghĩ ông cũng vậy.”
Đầu dây bên kia lặng phắc tựa hồ như chúng tôi đã mất tín hiệu hoàn toàn, mãi rồi ông ta mới nói: “Cô làm tôi chú ý rồi đấy. Nói đi.”
“Không phải qua điện thoại.” Tôi nói. “Chúng tôi sẽ tới chỗ ông.”
Sam đang chăm chú nhìn tôi, quên hẳn cả uống cà phê. Cũng như tôi, anh ngạc nhiên hết sức khi Ballantine Rivard vĩ đại gọi lại cho tôi, và ông ta vẫn đang nghe điện thoại.
“Các người sẽ bị lục soát kĩ lưỡng.” Rivard nói. “Và tốt nhất, các người chớ nên lãng phí thời gian của tôi, không thì tôi sẽ cho người bắt các người mà không có chuyện nghĩ lại lần hai đâu, tôi hứa đấy. Cô đã hiểu chưa?”
“Hiểu.”
“Vậy thì hãy tới tòa nhà Luxe, trung tâm thành phố Atlanta. Tôi nghĩ chắc hai người cũng đang ở đây?”
“Đúng.”
“Và tên thật của các người là gì? Cái tên in trên thẻ căn cước mà các người sẽ phải trình ra cho người bên tôi ấy?”
Tôi không thích điều này chút nào, nhưng ông ta nói đúng; tôi sẽ phải trình thẻ căn cước khi bước vào tòa nhà đó. “Gwen Proctor…” Tôi nói với ông ta. “Và Sam Cade.” Tôi biết ông ta sẽ cho thuộc hạ tìm kiếm thông tin về chúng tôi ngay lập tức, nộp cho ông ta một bộ hồ sơ hoàn chỉnh, đầy đủ mọi thông tin, tất cả những bài báo, tin tức từng được đăng tải nói về Gwen Proctor, và Gina Royal chỉ trong vài giây. Và tập hồ sơ đó sẽ dày lắm. Của Sam sẽ mỏng hơn nhiều.
Nếu ông ta quả thật đã nhận ra tên chúng tôi, ông ta cũng không hề thể hiện ra bên ngoài. “Hai người sẽ phải để lại tất cả mọi thứ trong phòng bảo vệ. Điện thoại, máy tính bảng, máy tính, sổ ghi chép, các loại giấy má, quần áo. Chúng tôi sẽ phát cho hai người đồ để mặc tạm thời. Nếu các người không đồng ý với những điều kiện trên, không phải tới nữa, cô Proctor ạ. Còn nếu đồng ý, tôi sẽ gặp hai người vào đúng một giờ rưỡi.”
Giờ hẹn gấp như vậy khiến chúng tôi không có nhiều thời gian. Chúng tôi để Lustig lại, hay nói đúng hơn, anh ta bỏ đi làm những chuyện mình cần phải làm. Anh ta không hỏi chúng tôi định làm gì tới cuối ngày. Có thể đó là sai lầm ở phía anh ta.
Tôi chào Rivard và cúp máy, rồi đặt điện thoại lên chiếc bàn ở giữa chúng tôi.
“Em vừa được mời tới Tháp Ngà.” Sam nói. “Chúa ơi!”
“Tới đâu cơ?”
“Người ta gọi tòa nhà Luxe như thế đấy.” Anh kể với tôi. “Rivard sống ở tầng trên cùng của tòa nhà Luxe tính đến nay cũng hai mươi năm rồi. Chưa từng rời khỏi đó dù chỉ một phút, nhất là sau cái chết của con trai ông ta.”
“Làm sao mà con ông ta lại chết?”
“Tự tử…” Sam đáp. “Làm trái tim ngài Rivard tan vỡ, báo lá cải nói thế.”
“Ồ, anh đọc cả báo lá cải cơ à?”
“Anh không biết gì về mấy người nổi tiếng để mà buôn đâu đấy nhé!”
“Em có đánh giá gì anh đâu.” Tôi nói, và lần đầu tiên, tôi cảm thấy một nụ cười thực thụ đang thành hình. “Vậy trong hai đứa chúng ta, anh là chuyên gia về họ Rivard kia. Anh nghĩ điều gì sẽ làm con người kia ấn tượng?”
Sam nhấp một ngụm cà phê. “Thành thật.” Anh đáp. “Và anh nghĩ khoản đó thì em vốn có sẵn rồi.”
“Rất vui vì anh nghĩ thế. Bọn họ sẽ lột sạch chúng ta để kiểm tra an ninh cơ mà.” Tôi nói. Anh sặc sụa. “Chỉ cần thành thật thôi.”
Chẳng phải chúng tôi phải làm kiểm tra an ninh trước khi vào tù gì cho cam - tôi có cả rổ kinh nghiệm về vụ này rồi - nhưng mấy người bên Rivard rõ ràng rất nghiêm túc với công việc của mình. Điện thoại của chúng tôi bị tịch thu. Chính xác là ba lô, bao gồm cả máy tính xách tay của tôi và điện thoại của chúng tôi. Chúng tôi bị yêu cầu phải cởi hết quần áo, chỉ còn mặc độc đồ lót trên người, để kiểm tra an ninh, và rồi được phát cho mỗi người một bộ đồ thể thao màu xanh nước biển thẫm vừa vặn, có đính logo tập đoàn ở trước ngực, trên logo thêu chữ RIVARD LUXE bằng chỉ vàng. Chẳng phải quần áo phù hợp với chuyện họp hành, gặp mặt, nhưng tôi dám cá mấy bộ đồ này cực kì đắt tiền. Dép đi trong nhà rất tiệp với quần áo, và chúng êm tới mức có cảm giác như chúng tôi đang bước trên mây.
Chúng tôi đi lên bằng thang máy riêng. Thang máy này trông cứ như một món đồ được bốc về từ giai đoạn đỉnh điểm của Thời đại Mạ Vàng [25], bản thân nó đã là một tác phẩm nghệ thuật. Một người vệ sĩ đi lên cùng chúng tôi và đưa cho chúng tôi hai tấm huy hiệu có dây màu đen. “Hai người phải đeo thứ này suốt thời gian họp với ông chủ của chúng tôi.” Anh ta nói. “Và phải ở yên trong khu vực được chỉ định. Nếu hai người đi đâu vượt qua phạm vi giới hạn, huy hiệu sẽ phát ra âm thanh báo động.”
“Vậy làm thế nào để chúng tôi biết đâu là những khu vực được chỉ định…”
“Chắc là cô nên hỏi kĩ trước khi định đi bất cứ đâu.” Anh ta đáp. Anh ta trông như một cựu quân nhân, và là một quân nhân với cấp bậc tương đối cao, thường đảm nhận nhiều trọng trách. Tôi liếc qua chỗ Sam thì thấy anh đang nghịch khóa kéo áo. Anh vốn không mặc kiểu quần áo thế này. Thấy tôi nhìn, anh nhún vai.
“Anh thấy mình cứ như tay anh chị người Nga ấy.” Anh nói.
“Giày thế không chuẩn.” Anh vệ sĩ nói, và tôi phải phá lên cười. Rồi tôi lại nghĩ không biết anh ta đã phải hộ tống bao nhiêu tay anh chị kiểu đó lên trên này.
Chúng tôi tới một sảnh tròn rất lớn. Ở một đầu sảnh có lắp một cửa sổ kính đủ màu, pha trộn giữa phong cách hiện đại và deco [26] các ô kính màu ghép thành hình một người đàn ông đang với tay về hướng mặt trời. Đó là một tác phẩm nghệ thuật đồ sộ và đầy mê hoặc. Tôi nghĩ nó đáng giá tới hàng triệu đô. Hay gấp mười, hoặc hai mươi nghìn lần giá trị bộ đồ thể thao chúng tôi đang mặc. Tôi cũng không biết Rivard đếm tiền kiểu gì nữa.
Anh vệ sĩ đưa chúng tôi đi qua một cửa ra vào rất lớn, có hai cánh to và nặng, nom rất hoành tráng. Cửa này dẫn vào một căn phòng mà tôi nghĩ người ta xây nó lên chỉ để dành riêng cho những việc như thế này: gặp mặt những người lạ. Căn phòng cốt để gây ấn tượng với người ta. Trong phòng không có bàn họp, nhưng từ trong phòng có thể nhìn ra một khoảng thành phố rộng lớn, hôm nay đang bị những màn mây mỏng, chậm chạp che mờ. Ba chiếc sofa cỡ đại xếp thành hình tam giác, ở giữa là một chiếc bàn thấp và nhỏ. Anh vệ sĩ tựa vào một cái cột ở gần tường và khoanh tay trước mặt, trông cứ như anh ta có thể đứng đó suốt mười nghìn năm tới. Sam và tôi cứ đứng đực ra đó chờ đợi, không biết mình nên ngồi vào đâu, hay có nên ngồi hay không.
Ballantine Rivard tiến vào trong phòng đúng phóc giờ hẹn, không sai một giây. Cái xe lăn của ông ta là một kỳ công của ngành thiết kế, tính thẩm mỹ của nó rất cao, và nó chạy rất êm, gần như không gây ra một tiếng động nào trừ tiếng rít khe khẽ khi bánh xe ma sát với tấm thảm dày trải dưới sàn. Ngoài đời, trông ông ta trẻ hơn trong ảnh, và ông ta đã thay cặp kính gọng đen bằng một cặp khác màu xanh nhạt, lẫn với tròng kính. Không gọng. Cặp kính đó khiến ông ta cứ như sắp đi đua xe Công Thức Một vậy.
Mỉa mai thay - hoặc không - ông ta cũng mặc bộ đồ y chang bộ đồ chúng tôi đang mặc trên người.
“Ngồi, ngồi đi.” Ông ta vừa nói vừa vô tư cười với chúng tôi. “Gwen Proctor. Samuel Cade. Chớ làm khách như thế!” Cái giọng ngọt xớt đó của ông ta không lừa được tôi. Ông già đó không leo được lên đỉnh cái tháp này bằng sức quyến rũ.
Sam và tôi ngồi xuống sofa. Tôi có cảm giác chiếc ghế này còn rất mới. Không có nhiều người tới ngồi ở đây, tôi thầm nghĩ. Chúng tôi là những ngoại lệ hiếm hoi được dẫn lên đây.
“Tôi có thể mời cô cậu ít đồ uống chứ?” Ông ta chẳng hề ngoảnh ra sau lưng, nhưng ngay lúc đó, một người đàn ông ăn vận hoàn hảo không chê vào đâu được, với bộ vest công sở hàng may đo màu xanh dương bước vào, tay bưng một cái khay bằng bạc bày đủ loại đồ uống khác nhau. Tất cả đều là đồ uống có cồn, và toàn có giá trên trời, đến nằm mơ tôi cũng chẳng có tiền mà mua.
“Scotch là được rồi.” Sam nói, và tôi gật đầu. Rivard muốn tỏ ra mến khách, và chúng tôi sẽ nhấp môi vì lịch sự.
Chỗ scotch ông ta mời là thiên đường đựng trong ly, hẳn thế. Tôi phải cố để nhấp những ngụm thật nhỏ.
“Thế là…” Rivard nói, khi ông ta được dâng lên món đồ uống của mình. Món đó được người đàn ông mặc vest kia pha từ ba loại rượu khác nhau trên khay một cách cực kì điêu luyện. “Cô cậu nắm được tin tức về vị thám tử kia.”
“Tôi sẽ kể cho ông những gì chúng tôi biết, nhưng phải riêng tư mới được.”
Cặp mắt của Rivard dán chặt vào tôi qua lớp kính ánh xanh. “Anh Chivari. Anh Dougherty. Làm ơn để chúng tôi ngồi riêng với nhau.”
Người đàn ông mặc vest tuân theo, chẳng chút chần chừ, nhưng người vệ sĩ lại lên tiếng: “Thưa ngài, ngài có muốn tôi ở lại…”
“Ra ngoài đi, anh Dougherty. Anh có thể đợi ở ngay ngoài cửa. Tôi không sao đâu.” Lúc này, quai hàm Rivard đã bạnh ra, và lớp da xanh xao nơi cổ ông ta đã phơn phớt đỏ lên, dẫu giọng nói vẫn ôn tồn, chậm rãi. Dougherty tỏ vẻ không vui, anh ta liếc chúng tôi lần cuối, rồi đóng cánh cửa lại sau lưng. “Được rồi đấy. Bây giờ chỉ còn có ba chúng ta. Và tôi có thể trả lời cô cậu mà không cần vòng vo. Nào. Mau kể cho tôi biết làm sao cô cậu lại tìm thấy người đó.”
“Ý ông là anh Sauer?”
Ông ta hấp háy mắt một chút, nhưng thế có nghĩa là gì thì tôi không biết. “Phải. Cô cậu tìm được anh ta ở đâu?”
“Trong một cái nhà kho bị bỏ hoang.” Tôi đáp. Tôi rất sẵn lòng để Sam chủ động mở đầu, nhưng anh lại lùi về sau, quan sát, thu nhận thông tin. “Sao ông lại thuê anh ta?”
“Cô nhắc tới cái tên Absalom.” Rivard hỏi ngược lại tôi. “Xin hãy giải thích làm thế nào mà cô biết cái tên đó.”
Tôi cố rặn ra một nụ cười. “Được thôi. Nhưng trước hết, ông phải nói cho tôi biết làm sao ông lại biết tới cái tên đó.”
“Tôi có vài… vấn đề. Và tôi thích chúng ta không đi sâu vào chi tiết hơn.”
“Chuyện có liên quan tới con trai ông không?” Sam hỏi, và tôi lui lại để anh dẫn dắt cuộc trò chuyện này.
Tôi đã thoáng nghĩ, chúng tôi sắp mất ông già này tới nơi, rồi ông ta sẽ gọi người của mình vào để tống chúng tôi ra ngoài… nhưng Rivard chỉ thở dài và đưa mắt nhìn xa xăm, ra phía đường chân trời Atlanta quang tạnh. “Có. Chuyện có liên quan tới con trai tôi.” Ông ta đáp. Nỗi buồn ngân trong giọng nói của ông ta, và cả thất vọng nữa. “Liên quan rất nhiều tới nó. Tôi mất nó vài tháng trước, nó đã tự tử, chắc các cô cậu cũng biết. Là lỗi của tôi. Chẳng dễ dàng gì đâu, nuôi dạy những đứa trẻ giàu có sao cho chúng biết thế nào là đúng, là sai. Đáng lẽ tôi phải dạy con tốt hơn, nhưng đó là tội lỗi của tôi, chứ không phải của nó. Nó gặp vấn đề với mấy thứ gây nghiện suốt bao nhiêu năm qua, và tôi nghĩ cô cậu đây cũng biết; chuyện ấy đầy trên mặt báo, và cánh báo chí thì hồ hởi với chuyện ấy lắm. Nó cứ ra vào chỗ chữa trị suốt… cũng không khác gì cậu đâu, cậu Cade ạ. Ngày xưa, cậu cũng từng nhập viện rồi, phải không?”
Sam nhắm mắt. Dẫu đã từng nhìn thấy biểu cảm ấy trước đây, nhưng tôi vẫn thấy lo, cứ như anh đang dần biến thành thủy tinh, và chỉ còn có mỗi đôi mắt của anh là vật thể sống vậy. Rồi lớp vỏ ấy vỡ ra, và anh nói: “Tôi phải vào viện sau khi chiến đấu ở Afghanistan.”
“Chẳng có gì phải xấu hổ cả, con trai ạ. Rất nhiều người tốt bị hủy hoại sau chiến tranh và trở về cùng những vết thương sâu hoắm.”
Sam không bị những lời đường mật của Rivard lừa mị. Ánh mắt anh trở nên lạnh lùng, vô cảm. “Tôi phải điều trị vì trầm cảm nặng, và khi ông bàn luận chuyện đó chỉ để nhằm chứng tỏ mình đã đào bới về quá khứ của cả hai chúng tôi, vậy tại sao ông không đi thẳng vào vấn đề chính và nói tới Melvin Royal luôn đi?”
Tôi lấy làm mừng khi anh phản công Rivard. Nghe thấy anh gọi thẳng tên chồng cũ của mình ra, tôi khá sửng sốt, nhưng là cơn sửng sốt theo hướng tích cực. Chúng tôi vừa kiểm soát được nhịp độ. Và từ cặp môi mỏng dính hơi mím lại của Rivard, tôi thấy ông ta không bận tâm nhiều tới chuyện đó.
“Được thôi.” Ông ta nói. “Chúng ta hãy bàn luận về tên giết người hàng loạt đang khuất mặt trong căn phòng này. Melvin Royal đã trốn trại và đang nhởn nhơ ngoài kia, mọi người đang cuống cuồng bỏ chạy, vậy mà cô, Gina, cô không trốn. Nếu có người hỏi vì sao, người ta sẽ cho rằng đó là vì cô… trừ phi cô có lý do chính đáng để không e sợ hắn ta. Và điều này khiến tôi tin rằng cô đã biết về Absalom bằng cách đó.”
“Con mẹ ông!” Tôi nói, và độ khiếm nhã của câu đó khiến ông ta rụt người lại. “Ông nghĩ tôi bắt tay với chồng cũ của mình ư? Xin chân thành gửi câu này tới ông, bắt cái con mẹ ông!” Tôi đứng dậy, dằn mạnh cốc rượu của mình xuống mặt bàn, và dợm bước ra cửa. Rivard nhẹ nhàng rẽ xe lăn của mình sang một bên và tiến tới trước để chặn đường tôi, và tôi cũng chưa giận dữ tới mức phải đấm một ông già giàu có đang ngồi xe lăn. “Tránh ra!”
“Tôi chỉ thử phản ứng của cô thôi.” Ông ta ôn tồn nói với tôi. “Tôi thành thật xin lỗi nếu cô bị xúc phạm.”
Tôi nhìn thẳng vào mắt ông ta. “Nếu tôi bị xúc phạm ấy à? Tiên sư ông và cái trò thị uy quyền thế Tháp Ngà chết tiệt của ông. Thằng khốn bệnh hoạn đó đang săn lùng tôi. Hắn đang săn đuổi con tôi. Hoặc là giúp đỡ, hoặc là tránh đường cho tôi. Như thế đã đủ thẳng thắn với ông chưa?”
Sau lưng tôi, Sam cũng đứng dậy. Tôi nghe thấy tiếng đáy ly của anh giáng xuống mặt bàn. “Chúng tôi không cần ông…” Anh nói vơi Rivard. “Quỷ tha ma bắt ông đi!”
Không phải là một câu chửi tục như của tôi ban nãy, nhưng tôi vẫn coi trọng. Chắc anh nghĩ tới Mike Lustig, và hoàn toàn không muốn phá hỏng kênh hậu trường này, còn tôi lại không có lòng kiên nhẫn nào hết. Tôi bừng bừng lửa giận. Trợ Thủ Bé Bỏng của Melvin đã kết thúc ở tòa rồi, và bây giờ, tôi không cho phép ai nói vào mặt mình như thế nữa.
Rivard chớp mắt trước. “Được rồi…” Ông ta nói, rồi đẩy xe tránh khỏi đường tôi đi. “Nếu cô thích, cô cứ tự nhiên ra về, tôi sẽ không ngăn cản. Nhưng, tôi thực sự xin lỗi, cô Proctor ạ. Như thế thật quá thô lỗ. Nhưng tôi phải chắc chắn cô không phải là… một trong số chúng.”
“Absalom, ý ông là thế?” Tôi hỏi, và ông ta gật đầu. “Có phải ông đã lần theo Absalom? Là kẻ Sauer đang điều tra?”
“Phải.” Ông ta hít một hơi thật sâu. “Con trai tôi mắc bệnh mà thời bây giờ người ta gọi là hội chứng Affluenza [27]. Tôi thì chỉ gọi đơn giản là hư thôi. Từ hư dẫn tới nghiện rượu và nghiện ma túy, và từ nghiện ngập lại dẫn tới đủ loại hậu quả khác nữa. Tất cả những chuyện đó đều quá dễ đoán. Quá dễ thấy.” Ông ta phẩy tay. “Absalom nhắm thẳng vào cậu Rivard Junior nhà tôi, và chúng hành hạ cậu ấy trên mạng tàn độc tới mức không bút nào tả xiết. Chẳng vì lý do gì hết. Chỉ đơn giản vì cậu nhà tôi là con mồi quá dễ tấn công. Chỉ để cho vui, tôi nghĩ vậy.”
“Chúng đã tấn công anh ấy như thế nào?” Tôi hỏi, nhưng tôi nghĩ mình đã quá biết. Ông ta uống thêm một ngụm, rồi đặt cốc xuống mặt bàn cùng với hai chiếc cốc của chúng tôi. Thế có nghĩa là ông ta đã hạ thành lũy phòng ngự cuối cùng của mình xuống, tôi thầm nghĩ.
“Bắt đầu là đăng bài. Trên mạng, người ta gọi những thứ đó là gì nhỉ? Ảnh chế à? Một ngày nọ, con trai tôi tỉnh dậy và phát hiện ra mình là đầu đề của hàng ngàn trò đùa lẫn truyện tiếu lâm, và tôi chỉ có thể tưởng tượng được rằng điều đó đã hủy hoại con tôi; nó chưa bao giờ kể với tôi chuyện đó. Nó cố tự giải quyết và rốt cục, chỉ tổ châm thêm dầu vào lửa. Chúng săn đuổi nó như một đàn chó hoang. Tung thông tin cá nhân của nó lên mạng. Tung hồ sơ bệnh án mà chúng ăn cắp được lên. Mỗi ngày chúng lại đi một xa hơn. Con trai tôi có một cô con gái ba tuổi. Đầu tiên, chúng vu nó quá đà với con bé, rồi sau đó, làm giả giấy tờ hòng chứng minh những gì chúng vu khống là đúng. Ảnh. Chúng đăng những thứ đó - những đoạn phim ảnh kinh khủng ghi lại. Giọng của Rivard yếu dần, và lần đầu tiên, tôi thấy cảm thương cho ông ta. Tôi biết chuyện đó. Tôi cũng đã sống như câu chuyện đó.
Ông ta hắng giọng. “Tồi tệ nhất là: người ta tin những gì chúng đăng. Hàng tá trang web được lập ra để truy lùng con trai tôi. Cảnh sát tiến hành điều tra cáo buộc quấy rối kia. Mọi chuyện đều là bịa đặt, không đúng sự thật, cáo buộc bị bác bỏ, nhưng vẫn không thể ngăn chặn được cơn cuồng nộ kia. Những lá thư đê hèn ào ào xô tới như thác lũ. Cả fax. Điện thoại nữa. Con trai tôi không thể - không thể vượt qua được. Sau một thời gian, tôi nghĩ nó thậm chí còn chẳng thấy cố gắng có nghĩa lý gì nữa.” Cặp mắt ươn ướt của Rivard đột ngột nhìn xoáy vào tôi. “Cô hiểu mà. Tôi biết cô rất hiểu, vì những gì chúng đã làm với cô.”
Tôi chầm chậm gật đầu. Từ ngày căn phòng kinh dị của Melvin bị húc vỡ, các con tôi và tôi bắt đầu bị tấn công. Bạn không bao giờ hiểu được mình mong manh đến mức nào trong thời đại truyền thông xã hội này cho tới khi có chuyện bất ngờ ập tới với bạn và rồi… và rồi tất cả đã quá trễ. Bạn có thể đóng Facebook, Twitter, Instagram; bạn có thể đổi số điện thoại và địa chỉ email. Chuyển đến ở nơi khác. Nhưng những tay đồ tể tận tụy với việc giày vò, hành hạ người khác kia, đó vẫn chưa phải là rào cản. Đó chỉ là một thử thách. Chúng rất thích tấn công. Chúng chẳng quá quan tâm xem những cú đánh của mình có trúng mục tiêu hay không, và trận đánh của chúng trở thành một cuộc thi tài xem ai có thể đăng được những bài gây shock nhất, có sức hủy hoại mạnh nhất. Dòng nước xiết ấy bỗng nhiên từ đâu ào đến, và tràn khắp mọi nơi, những thù ghét… cũng giống như thuốc độc vậy, rỉ qua màn hình, ngấm vào trong đầu bạn.
Đám Absalom chuyên ngược đãi kia chẳng cần phải tốn quá nhiều công sức để bào mòn cảm giác cân bằng của bạn, sự tự tin của bạn và lòng tin của bạn vào những người xung quanh. Khi kẻ thù của bạn giấu mặt, chúng ở khắp mọi nơi. Hoang tưởng trở thành thực tế. Bất cứ lúc nào, thậm chí là cả bây giờ, tôi có thể lập tức bị vòi rồng của những oán thù xối xả phun vào mình, vào những đứa trẻ nhà mình ngay khi tôi vừa vào mạng. Tôi có thể nhìn thấy điều đó diễn ra ngay trước mắt, ngay lúc này. Đó là cái động cơ vĩnh viễn của việc lăng nhục người khác.
Vậy nên, tôi hoàn toàn có thể đồng cảm với cảm giác vô vọng mà con trai Ballantine Rivard từng nếm trải. Tôi đã trải qua những ngày mà dường như con đường duy nhất để thoát ra khỏi cái bẫy là kết thúc tất cả mọi thứ. Tôi đã sống sót, nhưng chỉ vừa suýt soát. Anh ấy thì không. Chúng ta giày vò lẫn nhau chẳng phải là để thay trời hành đạo, cũng chẳng hề công bằng, hay đúng đắn, đó chỉ là một hành động rất con người mà thôi.
“Tôi rất lấy làm tiếc về những gì anh ấy đã phải trải qua.” Tôi nói với Rivard. Tôi ngừng lại một chút, rồi mới quay lại chủ đề chính. “Anh ấy đã kết thúc như thế nào?”
Rivard nhìn xa xăm, mắt mờ đi. “Nó nhảy từ tòa tháp này xuống. Con trai tôi có một căn hộ trên này. Kính ở đây dày lắm, nó phải bỏ ra rất nhiều công sức mới đập vỡ được kính. Tôi nghĩ nó đã đập bằng một pho tượng bán thân bằng cẩm thạch. Rồi con trai tôi nhảy xuống. Tầng hai mươi tám.”
Tôi im lặng rồi tiếp tục. “Và, sau khi anh ấy mất… ông thuê vị thám tử tư kia để lần ra dấu vết của những kẻ đã đeo bám anh ấy?”
“Không. Tôi thuê anh Sauer để điều tra xem ai đã đẩy con trai tôi đến bờ vực điên rồ từ rất lâu trước khi chuyện đau lòng kia xảy ra. Nhưng anh Sauer mất tích ngay trước khi con trai tôi mất.” Tay ông ta vỗ liên tục lên hai chỗ gác tay trên xe lăn - cả hai tay. Siết chúng chặt tới nỗi tôi có thể nghe thấy tiếng khớp tay của ông ta kêu lục cục.
Giờ chúng tôi đã có thể đi sâu vào câu chuyện. “Sauer có báo cáo thường xuyên với ông không? Có thông tin gì không?”
“Cũng có một ít.” Ông ta đáp. “Không được nhiều như tôi hy vọng. Anh ta gửi lại cho tôi nhiều thông tin chi tiết hơn vào cái ngày anh ta mất tích. Còn giờ là lúc cô đây giải thích cho tôi biết chính xác làm thế nào mà cô tìm được vị thám tử mất tích của tôi.”
Chúng tôi kể hết cho ông ta. Chúng tôi không nhắc tới Lustig nhưng có kể về đoạn phim mình đã lưu lại được - dĩ nhiên, không nói ra chỗ chúng tôi tìm được nó. Mike Lustig đang giữ chiếc USB, nhưng Sam đã cẩn thận tải đoạn phim đó lên tài khoản lưu trữ của anh trên mạng, và anh ngỏ lời mở lên cho Rivard xem. Rivard đem máy tính xách tay ra, và Sam đưa ông ta đường dẫn. Tôi không xem. Tôi cố không nghe, nhưng tôi nghe thấy lúc Sauer khai ra cái tên Rivard.
Rivard ngừng đoạn phim. Cả ba người chúng tôi cùng im lặng, và rồi một lúc sau, Sam nói: “Ông có nhận ra được ai không? Bất kỳ giọng nói nào?”
“Không.” Rivard đáp. Giọng ông ta có vẻ kìm nén và trầm tư. “Và cô cậu tìm thấy thi thể của anh ta ở đó?”
“Đúng thế.”
“Cô cậu có tìm được gì khác nữa không? Có bất kỳ manh mối gì không?”
“Chỉ có ví của anh ta thôi. Giờ chắc phía cảnh sát đã thu thập được hết.” Tôi đã cân nhắc đến chuyện nói ra có cả FBI nữa, nhưng rồi tôi quyết định bỏ qua.
“Ông sẵn lòng cho chúng tôi những thông tin về Absalom mà ông có chứ?” Sam hỏi. Tôi cũng muốn hỏi ngay ông ta việc ấy, nhưng Sam nói đúng. Sự mẫn cảm danh vị của Rivard ăn nhập hài hòa hơn với những gì được ông ta coi là lịch thiệp… Thế nào cũng được. Và cái tôi của tôi lại không thích hợp với chuyện này. “Thưa ông Rivard, tôi biết ông có thể thuê hàng trăm thám tử để theo vụ này, nhưng giờ chúng tôi đang ở đây. Chúng tôi đã bỏ nhiều công sức vào vụ này và cũng đã thu thập được vài thứ. Và chúng tôi vẫn sẽ tiếp tục dù có hay không có ông, vậy chắc có khi ông sẽ muốn tham gia cùng chúng tôi, ông có nghĩ thế không?”
“Cậu đang ngỏ ý mời tôi làm đồng minh đó à?” Ông ta liếc sang tôi, rồi lại nhìn Sam. “Cô cậu biết tôi là người rất có tiếng mà. Tôi muốn nhờ cô cậu giữ kín về tôi, không nhắc đến mối liên quan của tôi với việc này. Tuy nhiên, tôi có thể giới thiệu cho cô cậu các nguồn trợ giúp. Cô cậu sẽ phải báo lại cho tôi biết những gì cô cậu điều tra được.”
“Được…” Sam nói. “Mọi đường đi nước bước.” Nghe giọng anh tuyệt đối đáng tin cậy. Nhưng mà, anh đã từng lừa đẹp tôi suốt một thời gian trước đây. Anh rất giỏi đánh lừa người khác khi anh cần phải thế.
Nhìn ngoài mặt, Rivard trông có vẻ đã chấp nhận. “Tốt lắm. Sauer có nhắc tới vài cái tên. Đa số những người hình như do Absalom tuyển về chỉ là những đứa trẻ, tầm mươi lăm, mười sáu tuổi. Rối loạn nhân cách chống đối xã hội, đúng thế, nhưng vẫn còn quá nhỏ, chưa đủ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự, và những kẻ theo gót chúng, chắc chắn không phải là bọn cầm đầu. Có hai kẻ trong số những tên người lớn mà anh Sauer lần theo được, khi anh ta xác định được danh tính của chúng thì chúng đã chết mất rồi.” Rivard hít một hơi thật sâu. “Sauer gọi báo tin cho tôi vào buổi sáng ngày anh ta mất tích, thế mà tôi cứ hy vọng sẽ thu thập được nhiều thông tin hơn. Anh ta nói sẽ liên lạc lại sau. Nhưng không.”
Tôi cố nói khẽ hơn, nhẹ nhàng hơn, nữ tính hơn, điều có vẻ như Rivard rất thích. “Ông sẽ cho chúng tôi biết nhũng cái tên cuối cùng mà anh Sauer đã báo cáo lại cho ông chứ?” Tôi hỏi câu đó rất cẩn thận. Khẽ khàng. Tôi không nhìn thẳng vào ông ta, vì sợ ông ta lại xù lông lên lần nữa.
Rivard cân nhắc. Ông ta suy nghĩ rất lâu. Có tiếng gõ cửa - rất dè dặt, và cửa hé ra một khoảng hẹp, chỉ đủ để người đàn ông mặc vest xanh lách vào. “Thưa ngài…” Ông ta nói. “Đã sắp đến giờ trị liệu rồi ạ.”
“Thật vậy à?” Rivard nói. “Đợi tôi một chút nhé, anh Chivari.”
Chivari đứng cạnh cửa, chờ đợi. Rivard yên lặng làm gì đó trên máy tính. Vừa gõ phím, ông ta vừa nói, tiếng rất khẽ: “Cái tên cuối cùng tôi được anh Sauer gửi cho là Carl David Suffolk. Hắn ta sống ở Wichita, Kansas. Quê cũ của cô, tôi nghĩ vậy, thưa cô Proctor. Tôi để việc xác định chỗ ở của hắn ta cho cô cậu. À. Đây. Tôi tin rằng có một thứ cuối cùng cô cậu nên xem.”
Ông ta xoay máy tính ra phía chúng tôi. Tôi liếc lên nhìn gương mặt ông ta, rồi liếc xuống màn hình, còn Sam nhoài người tới xem. Tôi những mong sẽ được xem thứ gì đó về Carl David Suffolk, nhưng ông ta đâm tôi một cú bất ngờ, và tôi thậm chí không hề tính tới trường hợp đó.
Tôi nhận ra ngôi nhà trong đoạn phim. Đó là… là nhà của tôi. Chỉ một giây sau, cảm giác quen thuộc dần dần len lỏi vào tôi, và tôi thấy như hồn mình đang từ từ lìa khỏi xác. Tôi đã thoáng nghĩ, Hẳn ai đó đã sửa cái garage nhà mình, nhưng ý đó thật ngu ngốc; cái garage chưa bao giờ được sửa lại kể từ sau lần bức tường bị xe húc đổ và bí mật của chồng cũ của tôi bung bét ra. Ngôi nhà thậm chí còn bị dỡ hết. Bây giờ, chỗ đó là một công viên. Tôi đã ghé qua đó rồi.
Nhưng đoạn phim này quay cảnh ngôi nhà cũ của chúng tôi từ trước đó. Từ trước khi cả thế giới biết chúng tôi là ai, Melvin là cái gì.
Tôi không biết mình đang nhìn cái gì nữa, và tôi vội ngẩng lên nhìn mặt Rivard.
“Cứ chờ đi.” Ông ta nói.
Đoạn phim quay hơi thô, nhưng rất rõ. Lúc bấy giờ đang là ban đêm, và đèn báo động gắn quanh mái nhà chúng tôi - Melvin khăng khăng muốn lắp - khi ấy vẫn còn tắt. Tôi nhớ chúng là đèn cảm biến chuyển động. Có một cột đèn ở ngay bên vệ đường hắt thứ ánh sáng vàng chói lên một bên hông nhà, và tôi vẫn nhớ mình đã khổ sở tới mức nào khi đi tìm loại rèm chắn sáng mà Melvin thích vì hắn ghét phải ngủ trong một căn phòng không tối, và…
Tôi thấy một chiếc SUV chạy vào khung hình. Đèn pha trên xe tắt, và nó âm thầm bò vào lối xe chạy của nhà chúng tôi.
Đó là chiếc xe nhỏ của chúng tôi ngày xưa. Ký ức về ngày ngồi trong chiếc xe đó và lái nó vào cái ngày mọi thứ sụp đổ đã trở thành một phần cơ thể tôi. Cảm giác cả thế giới bị đảo lộn lại càn quét tôi một lần nữa. Tôi không biết tại sao Rivard lại cho tôi xem đoạn phim này, nhưng tôi thấy sợ.
Chiếc xe tải nhỏ làm đèn cảm biến phía sau nhà bừng sáng. Kẻ quay đoạn phim này vội vàng di chuyển khiến hình ảnh bị giật, rồi hắn đặt máy ở một góc trên lối dành cho xe chạy khi chiếc xe chui vào chỗ để xe có mái che ở cuối đường. Dưới mái che rất tối. Đèn phanh sáng đỏ lên, rồi lại tắt, và khi cửa xe mở, máy quay zoom tới gần và lia ra xung quanh, trước khi được chỉnh cho hướng cố định vào người đang bước ra từ phía ghế lái.
Là Melvin. Trẻ hơn lần cuối tôi gặp hắn. Sự xuất hiện của hắn lúc này thật kỳ quái. Hắn nhìn xung quanh, và khi hắn làm thế, tôi thấy hắn trông rất bình thường. Chỉ là một người bình thường trong chiếc áo sơ mi kẻ và chiếc quần bò dáng thụng các ông bố thường mặc. Chỉ là một con quái vật bình thường.
Rồi tôi lại thấy có một người khác bước ra từ phía bên kia chiếc xe, và người khác đó chính là tôi.
Không. Là Gina Royal.
Cô ta trông khác với tôi. Tóc cô ta dài, uốn xoăn, được tạo kiểu. Cô ta mặc một cái váy liền (hắn ta luôn luôn thích tôi mặc váy liền) trông có màu như màu xanh da trời nhạt trong ánh sáng lờ mờ. Giày cao gót. Tôi không nhớ chiếc váy kia, nhưng tôi thấy lòng dạ nôn nao khi nhìn Gina, nhìn con người mà mình đã từng làm. Đầu cô ta cúi gằm xuống. Vai cô ta xuôi. Tôi chưa từng, chưa bao giờ nghĩ mình đã là một người vợ bị ngược đãi; tôi chưa bao giờ nhìn thấy cách hắn ta kiểm soát tôi, áp bức tôi, chèn ép tôi, lừa mị cuộc đời tôi. Nhưng lúc này đây, khi nhìn vào người đàn bà mà mình đã từng là, tất cả đều hiện rõ mồn một ngay trước mắt tôi. Cứ như nhìn thấy một bóng ma vậy.
Melvin mở cửa thùng xe và nói gì đó. Gina vòng ra sau xe, và tôi đột ngột có cảm giác rất kỳ lạ - và là cảm giác lạ lùng nhất - rằng những gì đang diễn ra trong đoạn phim kia không có thật.
Tôi đang xem cái gì thế kia? Tôi không hề nhớ chuyện này đã từng xảy ra. Bất cứ chi tiết nào trong này.
Melvin nhoài người vào trong thùng xe và kéo một thứ gì ra ngoài.
Là một người phụ nữ. Một người phụ nữ đã bất tỉnh, người mềm oặt. Mái tóc dài của cô ấy xõa ra khi hắn xốc nách cô, còn Gina nhấc chân cô. Người phụ nữ trẻ mặc một chiếc áo màu xám và quần short màu xanh, đi giày chạy bộ, và tay Gina nắm chặt cổ chân cô ấy. Cô ta suýt làm rơi chân của người phụ nữ ấy xuống đất khi đang lóng ngóng tìm cách làm cửa thùng xe đóng lại.
Tôi chết sững. Câm lặng. Choáng váng, cứng người vì sự sai quấy tột cùng này.
Vì tôi không làm điều đó.
Chuyện đó chưa bao giờ xảy ra.
Nhưng tôi nhận ra ngôi nhà. Chiếc xe. Melvin. Bản thân tôi. Những chiếc đèn cảm ứng chuyển động bừng sáng khi tôi giúp Melvin khiêng một nạn nhân vào nhà.
Cơn chết sững tiêu tan khi ánh đèn chiếu sáng toàn bộ gương mặt của người phụ nữ không-phải-tôi đang được khiêng vào, và tôi nghe thấy tiếng Sam rên lên, tiếng trầm, thấp như ai đó thọc tay vào trong người anh và lôi bằng được âm thanh đó ra ngoài. Dó là em gái của anh. Callie.
Điều này không đúng, tôi thầm nghĩ. Tôi thấy đầu mình trống rỗng, nhẹ tênh và thật kỳ cục, cả thế gian đều sai lệch; tất cả mọi thứ đều sai. Tôi không phải như thế. Tôi chưa bao giờ như thế.
Đoạn phim tối đen đi.
Rivard đóng máy tính lại và đưa cho người trợ lý cùng cái gật đầu cảm ơn đầy điềm tĩnh.
Tôi muốn hét lên. Bóp cổ lão già khốn kiếp. Nôn mửa. Nhưng tôi chỉ ngồi thừ ra đó, chết lặng và hóa đá, chờ thế giới trở lại bình thường. Không lẽ tôi đã làm thế? Không. Không, nếu có, tôi đã nhớ. Tôi đã biết. Tôi không hề nhớ chuyện này.
Tôi không phải là Trợ Thủ Bé Bỏng của Melvin.
Cuối cùng, tôi cũng liếm được đôi môi khô khốc của mình và nói: “Đó không phải là tôi.” Giọng tôi lạc đi và yếu ớt và như không phải là giọng của tôi nữa. “Không phải tôi.” Tôi thấy lạnh lẽo và cô độc. Tôi thấy như mình vừa rơi thẳng xuống tâm trái đất.
“Đó là em gái tôi.” Sam nói. “Đó là Callie…” Không giống tôi, giọng Sam chẳng có vẻ gì là lạnh lẽo. Giọng anh nóng giãy, sôi ùng ục và suýt mất kiểm soát. Tôi cảm nhận được chiếc ghế thay đổi khi anh đứng dậy và bỏ đi. Tôi không quay ra nhìn, vì tôi không thể. Tôi không thể nhìn sự kinh hoàng và thay đổi đột ngột nơi anh ngay lúc này. Cặp mắt đục ngầu của Rivard theo sát từng chuyển động của Sam. “Cái này là thật sao?”
“Không.” Tôi nói. “Không thể nào. Em không hề làm chuyện đó. Sam, em…”
“Cái này là thật sao?” Đó là một tiếng quát, thô và kinh khiếp, và dù không nhằm vào tôi, nhưng tôi vẫn rúm người lại. Anh đang nói chuyện với Rivard. Nếu tôi chỉ quay mặt qua một chút thôi, tôi sẽ nhìn được khuôn mặt Sam. Nhưng tôi không thể nhìn. Tôi không nhìn.
“Không, tôi không tin cái này là thật đâu.” Rivard bình thản đáp. “Tôi tin rằng đây là bước leo thang trong khả năng làm giả chứng cứ của chúng. Dẫu vậy, cô cậu vẫn nên biết rằng món đồ giả tinh vi này đang hiện hữu đâu đó ngoài kia trên mấy trang web đen. Cho tới giờ, chưa có nhiều người xem cái này, và vẫn còn ít người hơn nữa hiểu nó muốn ám chỉ điều gì.” Ông ta bật điều khiển trên cái xe lăn đắt tiền, đẹp đẽ của mình, và sau lưng ông ta, hai cánh cửa lớn từ từ mở ra. Chivari giữ một cánh. Người vệ sĩ, Dougherty, giữ cánh còn lại. Khi Rivard quay xe đi đúng một nửa vòng, tôi vẫn ngồi thừ ra và giương mắt nhìn, không biết giờ mình nên làm gì nữa. “Anh Sauer khám phá ra rằng: một trong những nguồn thu nhập chính của nhóm Absalom là làm và bán đủ loại bằng chứng giả… ví dụ như đoạn phim giả về chuyện quấy rối mà chúng dùng để hãm hại con trai tôi. Lúc cô cậu gọi cho tôi hôm nay, tôi đã mua món đồ nghệ thuật hiệu ứng đặc biệt kia từ chúng.”
“Ông… ông mua nó ư?” Tôi không biết chuyện gì đang diễn ra nữa. Tôi thấy mệt và lạnh. “Sao ông lại làm thế?”
“Có lẽ tôi nên nói là mua một bản thì đúng hơn. Vì tôi tin vào những người mình không biết, và tôi không biết cô, cô Proctor ạ. Hay cậu, cậu Cade. Rõ ràng Absalom tạo ra đoạn phim kia theo kế hoạch, tôi tin chắc như vậy, kế hoạch làm cô mất uy tín nếu cô có ý định chống lại bọn chúng. Tôi có thể ngăn chặn chúng bằng cách mua đứt đoạn phim đó, ngay lập tức; rút chúng khỏi thị trường; cái giá phải trả khủng khiếp lắm, nhưng nếu cô cậu hợp tác với tôi, tôi sẽ trả và đảm bảo an toàn cho cô cậu. Đổi lại, đây là cái giá tôi đưa ra: tới gặp Carl David Suffolk và nhắn với hắn tôi muốn nói chuyện với hắn. Nhắn rằng tôi sẵn sàng đề nghị một khoản tiền hậu hĩnh để đạt được mục đích. Tôi sẽ đưa cho cô cậu một lá thư dược niêm phong để gửi tới hắn khoản tiền tôi trả. Tôi tin việc đó sẽ khiến hắn cộng tác với cô cậu.”
“Sao? Ông định làm gì với hắn?”
“Nếu việc đó dẫn cô tới đám Absalom còn lại, và chồng cũ của cô nữa, cô còn quan tâm tới điều gì nữa?” Ông ta hỏi. “Tôi hiểu, có thể cô cần một chút thời gian. Anh Dougherty sẽ gặp cô ở dưới cầu thang khi cô đã sẵn sàng. Một ngày tốt lành, cô Proctor, cậu Cade.”
Tôi không muốn ông ta đi. Tôi không muốn đôi cánh cửa kia đóng lại. Tôi không muốn bị bỏ lại ở đây một mình, trong câm lặng, với Sam.
Bãi mìn chúng tôi đã thử với qua trước đây, bãi mìn chúng tôi không vượt qua được, giờ lại lan rộng thêm vài cây số, đầy những cái bẫy chết người, và thậm chí, giờ tôi còn sợ phải nhìn vào anh. Tôi ngồi lại trên chiếc trường kỷ và chờ anh lên tiếng. Anh không cất một lời. Bầu không khí im lặng này không sao phá vỡ nổi.
Cuối cùng, tôi nói: “Sam, em…”
“Ta nên đi thôi.” Những lời đó là một thanh sắt, loi thẳng vào bụng tôi, và tôi không thở nổi. “Chúng ta nên đi tìm Suffolk. Nếu có ai xem đoạn phim đó, em kể như xong.”
Tôi muốn nói với anh rằng mình không hề làm chuyện đó, rằng tôi chưa bao giờ nhìn thấy nạn nhân nào của Melvin, rằng tôi sẽ không đời nào tiếp tay cho hắn, không bao giờ. Nhưng những lời đó nghe quá yếu ớt, và tệ hơn nữa, nghe như những lời nói dối. Thậm chí đến cả lòng tin vào chính mình của tôi còn lung lay trước những gì mình nhìn thấy trên màn hình máy tính kia mà. Sự thật bị bẻ cong, bị bóp méo, bị xuyên tạc xung quanh tôi. Và tôi không biết đâu là thật, đâu là dối trá nữa.
Sam đi ngang qua tôi, tiến thẳng ra cửa. Anh không thèm nhìn tôi.
Tôi bước theo.
Chú thích:
[25] Nguyên tác: Gilded Age. Còn gọi là thời kỳ vàng son hay thời đại kim tiền, tên gọi này được phổ biến nhờ nhà văn Mark Twain, chỉ giai đoạn cuối thế kỷ 19, từ những năm 1870 đến khoảng năm 1900 ở Mỹ, khi người Mỹ giàu lên nhanh chóng nhưng cũng chỉ như lớp mạ vàng chứ không phải vàng thật, khi những vấn đề xã hội nghiêm trọng được che đậy bằng sự phồn vinh giả tạo và khoảng cách giàu - nghèo quá lớn.
[26] Hay Art Deco, một trường phái nghệ thuật trang trí thịnh hành vào những năm 1930.
[27] Còn gọi là “hội chứng con nhà giàu”, là một dạng bất ổn tâm lý tác động tới những người sinh ra trong gia đình giàu có. Những người này thường rơi vào tình trạng không bao giờ thấy thỏa mãn, gặp khó khăn trong các hoạt động của xã hội bình thường và khó phân biệt được đúng - sai…