Chương 13 LANNY
Lúc xin phép được mở mạng lên, tôi thật sự chỉ muốn lướt qua mấy trang mạng xã hội, xem thử mọi người thế nào. Tôi không định đăng bài hay làm gì cả, chỉ âm thầm theo dõi mà thôi. Vì tôi thấy chán.
Và rồi, tôi trông thấy ảnh của Dahlia, và đột nhiên, tôi thấy cái gì đó đang nghiền nát lòng mình. Tôi nhớ bạn ấy rất nhiều, nhiều tới nỗi tôi thấy đau nhói. Tôi muốn gọi cho bạn ấy. Tôi muốn nghe thấy giọng nói của bạn ấy và kể với bạn ấy chuyện đã xảy ra, và tôi muốn… muốn đủ mọi thứ, những thứ điên dại đang chạy ào ào trong đầu khi tôi chăm chú ngắm ảnh của bạn ấy, điều làm lòng tôi ấm lên tới mức khó chịu. Tôi đã luôn cảm thấy như thế từ trước khi tất cả mọi thứ nổ tung, ập xuống ngôi nhà cũ của tôi, và suốt bao lâu nay, tôi vẫn luôn cố tìm hiểu cảm giác đó nghĩa là sao. Giờ tôi nghĩ mình đã biết rồi. Nhưng tôi không thể làm được gì.
Tôi ngột ngạt lắm. Tôi chẳng được ở gần bạn ấy chút nào.
Connor cười nhạo tôi là giọt nước tràn ly, và khi nổi điên với nó, tôi thực sự đã muốn nổi cơn tam bành. Tôi bỏ chạy vào phòng, vùi mặt vào gối, khóc nức nở suốt mười lăm phút. Tới lúc đó, tôi vẫn thấy khốn khổ và cô đơn, nhưng tôi cũng đã quá kiệt sức, không bận tâm đến những chuyện đó nổi nữa. Tôi co người lại, ôm lấy chiếc gối ướt đẫm nước mắt của mình và trân trân nhìn vào khoảng không vô định. Ngoài của sổ, trời đã về chiều, giá buốt, và bên trong phòng cũng lạnh lẽo, muốn rùng mình. Tôi bật máy sưởi, đi thêm đôi tất len xù và trèo lên giường trùm chăn kín đầu. Bụng dưới tôi đau tức. Tôi xem lịch, nhưng vẫn còn một tuần nữa tôi mới tới tháng. Tôi vẫn còn đủ tampon để dùng trong kỳ này, nhưng rồi tôi sẽ phải nhờ cô Kezia mua thêm cho mình. Tôi không nhờ chú Javier được. Chúa ơi, không! Bảy triệu tám trăm nghìn thứ em trai tôi không phải chịu đựng như tôi.
Một giờ sau, tôi tỉnh dậy, bước vật vờ trong phòng và nhặt mảnh giấy được đẩy vào từ bên ngoài lên. Tôi biết nó là của Connor, và tờ giấy in rõ nét ấy khiến tôi cười lên được một chút.
Bức ảnh của Dahlia làm tôi muốn khóc lên một trận nữa, nhưng tôi chỉ đặt nó lên tủ đầu giường, dựng đứng dậy để tôi có thể ngắm được người trong ảnh. Có khi tôi nên tìm một cái khung để lồng vào.
Sức hấp dẫn của món bánh bỏng sô cô la bơ đậu phộng cuối cùng cũng nhử được tôi mở khóa cửa và sà xuống bếp. Chú Javier liếc nhìn tôi từ chỗ chú đang làm việc với máy tính. Tôi biết chú đang nghĩ trong đầu xem nên nói gì với tôi, nhưng tôi không muốn nói chuyện với ai hết. Tôi vội vàng lấy đồ ăn và nhanh chóng quay trở vào phòng. Nhưng không kịp.
“Này.” Chú nói. “Em trai cháu vừa nhờ chú nghĩ thêm việc để làm. Cháu thấy chuyện lên trường bắn học bắn súng thế nào?”
Tôi gần như quên mất mình đang thấy buồn bực. “Nghiêm túc đấy ạ?”
“Ừ.”
“Mẹ bọn cháu không cho đâu.”
“Chú sẽ nói rõ với mẹ cháu trước. Nhưng nếu mẹ đồng ý thì cháu có thích không đã?”
“Ôi, có chứ ạ, cháu thích lắm luôn!” Ý tưởng đó khiến tôi thấy mình đã tự chủ hơn cũng phải mười nghìn lần. “Khi nào ạ?”
“Khi chú thuyết phục được mẹ cháu đồng ý. Tem tém lại đã, tay súng kia, cháu sẽ không được bắn cái gì đâu, trong một thời gian khá dài đấy, dù mẹ cháu có đồng ý cho cháu học đi chăng nữa. Nói cho cháu biết nhé: chú cháu mình sẽ lên trường bắn sau khi trường đóng cửa, và cháu sẽ chọn ra một khẩu súng. Chú sẽ cho cháu chọn một trong ba khẩu. Rồi cháu sẽ học cách tháo súng này, lau súng này và cách lắp súng lại.”
“Từ từ đã, chỉ thế thôi á? Cháu đã biết làm mấy chuyện đó rồi!” Tôi đã xem mẹ lau súng hàng trăm lần. Chú ấy không trả lời. Tôi gặm miếng bánh. “Thôi nào, thật đấy ạ?”
“Đó là tất cả những gì chúng ta phải làm đầu tiên. Chọn, tháo, lau, lắp. Hiểu chưa?”
“Nhưng cháu muốn tập bắn bia cơ!”
“Chú biết.”
“Vậy tại sao cháu không được tập?”
“Bởi vì đấy là cách chú dạy mọi người học bắn. Nếu cháu không thích, chúng ta không phải đi nữa.”
Chú ấy cũng tệ y hệt như mẹ tôi. Tôi thật sự đã nghĩ đến chuyện nói ra câu đó, nghiêm túc, nhưng lại thôi, bởi lẽ tôi thấy nói ra như vậy cũng chẳng đưa tôi đi đến đâu cả, ngoại trừ lại phải ngồi đây chơi tiếp một ván cờ tỷ phú.
“Được ạ.” Tôi nói, nhưng nói theo kiểu muốn tỏ rõ ý tôi chẳng thấy được chút nào. “Chắc chắn rồi. Sao cũng được.”
“Tuyệt lắm.” Chú Javier đóng laptop lại. “Đây không phải là trò chơi đâu, Lanny ạ. Súng là trách nhiệm. Ngay vào giây phút cháu sờ vào một khẩu súng, cháu đã có được quyền sinh quyền sát, và cháu không thể coi nhẹ điều đó được.”
“Cháu biết rồi!” Ánh mắt của chú ấy nói rằng chú không nghĩ tôi thật sự hiểu. Tôi cố tỏ ra điềm tĩnh và thật người lớn, vì tôi biết đó là điều chú ấy muốn. “Vâng ạ. Cháu sẽ chọn một khẩu súng. Cháu sẽ học cách làm những điều chú muốn. Sau đó, cháu có thể bắn được chứ?”
“Khi nào mẹ cháu bảo được…” Chú ấy nói với tôi. “Nhưng không phải ngay đêm nay đâu. Từng bước một.”
Ngay lúc này đây, chú đang giắt súng bên hông. Trông nó giống khẩu mẹ tôi hay mang, vậy chắc đó là một khẩu bán tự động đạn 9 ly. Mẹ cực kì cẩn thận với súng ống, nhưng thỉnh thoảng, tôi có thể nhặt một khẩu lên, cảm nhận sức nặng của nó. Chú ấy đúng. Có cái gì đó thay đổi khi bạn cầm một khẩu súng trong tay. Cảm giác rất vững dạ và phấn khích, chắc chắn rồi. Nhưng cũng vẫn còn điều gì khác nữa. Tôi chưa bao giờ có thể nói được đó là gì. Có lẽ, khi cuối cùng chú ấy cũng cho phép tôi bắn thử, tôi sẽ biết điều tôi luôn cố nói với mình là gì.
Đây là bước khởi đầu, tôi tự nhủ. Đừng cuống lên thế.
Tôi không thích kiên nhẫn. Tôi nghĩ tôi thừa hưởng cái tính đó từ mẹ.
Tôi hạ giọng và nói: “Mấy ngày nay, chú có nói chuyện với mẹ cháu không?”
“Có, một tí thôi. Mẹ cháu phải đi trước khi chú kịp chuyển điện thoại cho cháu. Mẹ cháu vẫn ổn.”
“Mẹ cháu có nói gì về… ông ta không ạ?” Suýt nữa thì tôi đã nói là “bố”, nhưng tôi biết tôi không nên gọi ông ta như vậy. Không gọi to như thế. Hai chú cháu đều biết tôi đang nói tới ai.
Chú Javier lắc đầu. “Chưa nói gì.” Chú đáp. “Chẳng có lý do gì để phải lo ông ta đang ở đâu đó quanh đây cả, nhưng ta cứ tiếp tục sinh hoạt như cũ thôi. Cố hết sức ở yên trong nhà. Không lên mạng. Chúng ta càng giữ được bí mật nơi ở của các cháu lâu bao nhiêu, tất cả chúng ta sẽ càng an toàn và càng tốt hơn bấy nhiêu.”
“Chí ít, chú cũng có thể để cháu nói chuyện với bạn bè mình mà.” Tôi nói với chú ấy. Tôi thật sự có ý nói đến Dahlia. “Bọn nó không bán đứng chúng ta đâu.” Bạn ấy không bán đứng tôi đâu.
“Rồi bạn của cháu kể cho những người bạn khác, và chẳng mấy chốc, tất cả mọi người ở Norton đều biết bọn cháu đã quay về. Cháu tưởng mẹ cháu không phải là đối tượng hot để bàn ra tán vào ở chỗ này đấy chắc? Không một ai từ chối cơ hội được buôn về chuyện ấy đâu.”
Chú ấy nói đúng, tất nhiên. Chuyện bạn bè này - thật cũng chẳng có gì hay cả. Chú Javier rất nghiêm túc với việc mình làm. Cô Kez cũng thế - bây giờ cô ấy đang đi làm công việc chính - cảnh sát địa phương, cô ấy đang điều tra mấy vụ đột nhập quanh bờ bên kia hồ. Tôi mong ngôi nhà bị đột nhập không phải là nhà mình. Tôi lo lắm… lo bọn nhóc ở trường chui vào nhà tôi, đập phá nhà tôi, biến nhà tôi thành bài rác, vào phòng tôi, lấy gối của tôi để “tự sướng” và selfie khoe chiến tích. Chúng sẽ tha hồ lục lọi đồ đạc của tôi nữa chứ, nói như vậy không có nghĩa là tôi có nhiều đồ sau mấy năm liên tục rong ruổi khắp nơi như thế. Nghĩ tới chút riêng tư nhỏ bé mình từng có bị xâm phạm, tôi vẫn thấy đau đớn lắm.
Nhưng có thể đó không phải là nhà tôi. Có thể cái TV màn hình phẳng to tổ bố của nhà Johansen cuối cùng cũng bị trộm thó mất, hoặc chiếc SUV Mercedes nhà họ.
Cũng có khi có người vào lục lọi nhà của Lancel Graham; nói chung thì, chúng tôi có thể bị coi là tòng phạm giết người, nhưng Graham lại thật sự đã giết người. Nếu nhà của Graham bị phá hoại, tôi không chỉ không thấy tội nghiệp, mà còn ủng hộ nữa. Ông ta là một kẻ độc ác, bệnh hoạn, và nếu mẹ, cô Kez với chú Sam không tới cứu chúng tôi kịp… Chỉ có Chúa mới biết chuyện gì sẽ xảy ra. Không. Tôi biết. Chuyện đã xảy ra với hai nạn nhân khác của ông ta, và với tất cả những cô gái bố tôi đã giết.
Tôi cố không nghĩ tới điều đó.
Connor từ bên ngoài bước vào nhà. Thằng bé hẳn đã ở ngoài sân được một lúc, vì nó mặc áo khoác và đi găng. Nó thả áo ngoài xuống và ngồi phịch xuống đi-văng, rồi lập tức nhặt một quyển sách lên. Nó liếc nhìn tôi nhưng chẳng nói gì. Có lẽ nó nghĩ bọn tôi vẫn đang “chiến tranh lạnh”.
Có lẽ chúng tôi vẫn đang như thế.
“Mấy giờ chúng ta đi ạ?” Tôi hỏi chú Javier, vì ít nhất, đó cũng là một cách đánh trống lảng.
“Chú đã bảo ta phải hỏi ý kiến mẹ cháu trước rồi mà.”
“Chú cũng nói cháu sẽ không được bắn súng. Vậy vẫn chưa có gì để phải hỏi cơ mà?”
Chú ấy nhìn tôi. “Chú đang gọi đây. Nếu không gọi được, chú sẽ nhắn lại.”
“Đi đâu cơ?” Connor hỏi. Tôi lờ nó đi.
“Tới trường bắn. Tám giờ, trường đóng cửa.” Chú Javier đáp. “Chú sẽ lên đó để đóng cửa, hoàn thiện các công việc trong ngày, nhắc mọi người ra về hết. Rồi chú sẽ quay lại với cháu, Lanny ạ. Cô Kez sẽ ở đây cùng cháu, Connor.”
“Chờ đã, chú chuẩn bị lên trường bắn ạ? Vậy tại sao cháu đi cùng thôi cũng không được?” Em trai tôi hỏi, y như tôi dự đoán.
“Vì mày là trẻ con chứ còn sao nữa?” Tôi nói với nó. “Thế nên, không. Mày không được đi.”
Nhưng chú Javier lại nhìn nó, và chú nói: “Cháu muốn đi à?”
Connor nhún vai. Nó vẫn tiếp tục đọc.
“Thế tức là ‘có’, phải không?”
“Hẳn rồi ạ.” Thằng bé đáp. Nhưng tôi thấy vùng da ở góc hàm, xung quanh tai thằng bé trở nên sẫm hơn. Không hẳn là đỏ, nhưng cũng gần thế. Tính thằng bé không hay thể hiện ra mặt, nhưng thằng bé cũng rất háo hức khi được ra khỏi đây. Thậm chí, có lẽ là vì chuyện súng ống, dù thằng bé luôn luôn nói với tôi rằng nó không ưa gì chúng.
Tôi xem đồng hồ và rên lên. Còn những mấy tiếng đồng hồ đằng đẵng nữa. Tôi chọn qua một lượt mấy đĩa trò chơi điện tử và cuối cùng cho đĩa Assassin’s Creed vào khay máy, và huých vào người Connor hòng đuổi nó đi chỗ khác. Thằng bé đứng dậy luôn, bỏ vào phòng và đóng cửa lại. Được. Tốt thôi. Dẫu tôi những mong thằng bé sẽ mở lời xin chơi cùng. Nó thích trò này lắm. Đó là lý do tại sao tôi lại chọn đĩa ấy.
“Dở hơi.” Tôi vừa lầm bầm trong miệng, vừa chọn chế độ cho một người chơi. Rồi tôi bấm tạm dừng, đứng dậy và mở cửa phòng thằng bé mà không thèm gõ, vì tôi biết mình sẽ làm thằng bé khó chịu.
Thằng bé bấy giờ đang nằm quay lưng về phía tôi, và trong một thoáng, tôi đã nghĩ mình bước vào đúng lúc nó đang làm một chuyện hết sức riêng tư, nhưng rồi tôi nhận ra nó đang bấm điện thoại. “Em đang gọi cho mẹ đấy à?” Tôi hỏi nó.
“Không.” Ánh mắt nó khi đó làm tôi ngỡ ngàng.
“Mày đang gọi cho ai đấy?”
“Làm gì có ai.” Nó đáp.
“Vì nếu mày đang gọi cho mẹ…”
“Em không gọi cho ai hết!”
“Vậy…”
Nó nổi xung. Tôi sững sờ, vì tôi biết Connor nóng tính, nhưng thường phải là việc nghiêm trọng mới khiến thằng bé nổi điên, mà chuyện này lại chẳng đâu vào đâu cả, hết sức bất thình lình, và nó đang quát tháo. “Đi ra ngoài đi được không? Đừng có tỏ vẻ mẹ hiền nữa, chị không giỏi chuyện ấy đâu!”
Tôi lùi lại, thằng bé lao tới trước và đóng sầm cửa lại ngay trước mặt tôi. Tôi phải nhảy lùi ra sau thêm mấy phân, không thì ăn ngay cả cánh cửa vào giữa mũi. “Trời đất ơi!” Tôi ré lại và nắm tay, đấm vào cửa. “Thích ba máu sáu cơn thì cứ trút ra đi, sao mày không dám hả, thằng ôn con?”
Thằng bé không trả lời. Tôi cũng chẳng nghĩ nó sẽ trả lời lại tôi. Tôi đứng lườm cánh cửa mấy giây, rồi quay đi. Chú Javier nhìn tôi. “Sao đấy ạ?” Tôi gắt gỏng.
“Cháu nghĩ xem, nếu thằng bé xông vào phòng cháu khi cháu đóng cửa thì có được không?” Chú ấy hỏi.
“Đời nào mà được ạ?”
“Thế thì đừng làm vậy với thằng bé. Chú biết mẹ cháu chỉ bảo cháu kĩ càng hơn thế.”
Nếu chú ấy bớt tế nhị hơn dù chỉ một tí thôi, tôi hẳn sẽ bảo chú ấy câm miệng lại, nhưng không. Tôi ngồi phịch trở lại xuống đi văng, cầm điều khiển lên và bắt đầu chơi. Tôi không giỏi trò này bằng em trai mình, nhưng cũng không tới nỗi dở. Tôi bị cuốn vào thế giới trong trò chơi, dù chỉ một lúc, và tôi thấy mừng vì điều đó, mừng khi tạm bỏ lại mọi thứ đằng sau và có cảm giác như những bức tường xung quanh mình dần biến mất.
Nhưng tất cả những cảm xúc khó chịu đều quay trở lại khi chú Javier đột nhiên xuất hiện bên cạnh tôi, tắt bụp TV đi. “Này!” Tôi phản ứng vì tôi đang chuẩn bị nhảy, và giờ thì tôi sắp mất một mạng, nhưng chú đặt tay lên môi, và đôi mắt sẫm màu của chú quắc lên rất dữ. Tôi im lặng, ngay tắp lự.
Tôi nghe thấy tiếng gì đó. Tiếng bánh xe lăn trên sỏi. Chú Javier chạy tới bên cửa sổ và vén rèm lên. Khi đó, tôi không biết tình hình có ổn hay không, và rồi, chú rút súng ra khỏi bao và nói: “Vào với em trai cháu và hai đứa mau lánh mặt đi. Không tiếng động. Đi ngay.”
“Gì thế ạ?” Tôi thì thào hỏi. Mạch tôi đập thình thịch và tôi thấy khắp người nóng ran, rồi lại lạnh toát. “Ông ta ạ?”
“Chú không nghĩ thế.” Chú ấy đáp. “Nhưng chú vẫn cần cháu phải lánh mặt. Đi đi.”
Tôi nhìn xung quanh. Chúng tôi không bỏ lại thứ gì có thể tố cáo sự hiện diện của mình ở ngoài này hết. Tôi vội vàng chạy ra phòng Connor, gõ nhẹ vào cánh cửa trước khi mở. “Connor, thôi nào, chúng ta phải…”
Tôi không nói hết câu, vì mặc dù quyển sách của thằng bé đang nằm lật úp xuống giường ngủ nhằm đánh dấu trang đang đọc dở, thằng bé lại không có ở trên giường. Tôi cúi xuống và ngó vào dưới gầm giường. Không có gì hết. Tôi kiểm tra tủ quần áo.
Rồi tôi thấy có làn gió phả vào gáy, và tôi ngoảnh lại thì thấy cửa sổ ở cạnh giường mở toang. Rèm cửa chầm chậm lay động vì gió.
Thôi chết rồi! Không, không phải chứ!
Không còn kịp báo với chú Javier nữa, bởi vì tôi nghe thấy tiếng chó Boot sủa ông ổng như muốn vỡ toang lồng ngực ngoài sân. Tôi kéo rèm lại và nhòm ra ngoài, nhưng không thấy em trai mình đâu cả. Có một cái sọt gỗ nhỏ kê bên dưới cửa sổ, quá hoàn hảo để trèo xuống mà không gây ra tiếng động. Em đang ở chỗ quái nào thế? Chuồng gia súc cũ là thứ duy nhất trong tầm mắt tôi, và tôi chỉ chần chừ một giây trước khi thò chân ra ngoài bậu cửa, tụt người xuống, và giẫm chân lên cái sọt gỗ. Cái sọt kêu kẽo kẹt một chút, nhưng vẫn trụ vững. Tôi đóng cửa sổ lại. Tiếng sủa và tiếng gầm gừ của Boot át hết mọi tiếng động tôi gây ra, và giờ, tôi nghe thấy tiếng chú Javier huýt sáo, gọi con chó quay trở vào hiên nhà. Tôi bước khỏi cái sọt và cố hết sức chạy thật êm ra khoảng sân trống phía chuồng gia súc.
Connor cũng không có ở đây.
Chuồng gia súc chứa đầy những món nông cụ và dụng cụ cơ khí cùng mấy thứ linh tinh thường thấy ở vùng nông thôn - bộ phận máy móc cũ, chiếm đa số - và nếu ở đây từng có một căn gác, thì nó đã bị dỡ đi từ lâu. Chẳng có chỗ nào để trốn cả.
Trở vào nhà lúc này là đã quá trễ, tôi bước lại vào trong bóng tối và cố không nghĩ tới những con nhện đang sống ở đó. Hay những con rắn đang tìm chỗ ấm áp để cuộn mình. Tôi cúi thấp người xuống và dỏng tai nghe ngóng. Tôi không có súng, nhưng tôi chụp lấy một cái chĩa làm vườn và nắm chặt cán bằng cả hai tay. Nếu phải đánh nhau, tôi sẽ đánh. Tôi im lặng lắng nghe, chờ tiếng tiếng súng nổ, hoặc tiếng ẩu đả. Tôi không nghe thấy gì ngoài mấy giọng đàn ông. Họ đang rất bình tĩnh, tôi thấy vậy. Họ nói chuyện với nhau một lúc, và cuối cùng, tôi nghe thấy tiếng máy nổ và tiếng bánh xe nghiến trên sỏi lạo xạo khi xe quay đầu và lăn bánh bỏ đi. Tôi chờ cho đến khi không nghe thấy tiếng xe nữa rồi mới đứng dậy. Tôi phải vịn chĩa đứng dậy, vì hai đầu gối tôi đang run lên lẩy bẩy.
Tôi bước ra ngoài và quan sát xung quanh, nhưng tôi không thấy bóng dáng em trai mình đâu cả. Tôi trèo lại vào trong nhà qua cửa sổ phòng nó và hé cửa ra nhìn trộm. Chú Javier vừa đóng cửa chính và khóa lại. Chó Boot ở trong nhà, không bị xích, nó tha thẩn chạy và ngẩng lên nhìn tôi.
“Ai thế ạ?” Tôi hỏi chú Javier. Miệng tôi khô khốc, nuốt nước bọt cũng thấy đau.
“Bác Prester.” Chú ấy đáp. “Bác ấy nói bác ấy tới hỏi thăm sức khỏe của chú, vì thấy chú dạo này không ở trường bắn lâu. Bác ấy thấy nghi…”
Tôi vội vàng ngắt lời chú. “Connor biến mất rồi!”
“Cháu nói gì thế, biến mất á?”
“Thằng bé không có ở trong phòng. Nó cũng không có ở ngoài sân. Cháu tìm rồi.”
“Trong tủ quần áo thì sao? Trong chuồng gia súc?”
“Cũng không luôn…”
“Lanny, cứ kiểm tra trong tủ quần áo đi!”
Tôi mở cửa phòng và tìm ở mọi ngóc ngách, những chỗ em trai mình có thể trốn vào được, nhưng chẳng thấy gì. Tôi ra ngoài phòng chính và vừa đúng lúc chú Javier giật mạnh cái thảm mát trải ở trên một phần sàn bếp lên - chúng tôi đứng trên tấm thảm đó hằng ngày, mỗi khi rửa bát - và ngay bên dưới tấm thảm có một cái đai đóng vào ván gỗ. Tôi chớp mắt, vì tôi không hề biết thứ đó nằm bên dưới tấm thảm. Chú ấy cũng chẳng hề nhắc tới lần nào. Chắc chú ấy để phòng khi khẩn cấp.
Khi chú nhấc tấm ván lên, tôi thấy dưới đó có mấy bậc thang bằng gỗ dẫn vào căn hầm tối om và một cái đèn treo lơ lửng có công tắc dây. Chú Javier vừa giật sợi dây, vừa nhảy xuống sâu bên dưới. Boot bò ở mép hầm và sủa nhặng lên, nhưng nó không theo xuống. Chú Javier chỉ xuống đó một lúc rồi chạy lên ngay, tắt đèn và đóng nắp hầm lại khi đã leo hẳn lên trên. Đá tấm thảm mát tới che lại nắp hầm. “Thằng bé cũng không có dưới đó. Nó có nói gì với cháu không? Bất cứ điều gì về nơi nó tới ấy?”
“Không ạ.” Tôi nói. “Ý cháu là, thỉnh thoảng nó vẫn thích ra ngoài sân chơi, nhưng…”
Tôi chưa kịp nói thêm lời nào thì chú ấy đã đi mất. Chó Boot cào móng xuống sàn gỗ mấy cái rồi chạy theo sau chú. Tôi thấy ốm yếu kinh khủng. Run rẩy. Tôi vào phòng em tìm lại lần nữa. Cả trong phòng tôi. Tôi tìm ở khắp mọi nơi.
Thằng bé không có ở đây.
Và khi chú Javier quay trở vào nhà, mặt mũi ảm đạm, tôi biết chuyện tồi tệ nhất đã xảy ra.
Em trai tôi thật sự đã mất tích.
Bình tĩnh nào, tôi cứng rắn dặn lòng. Thằng bé chỉ đang dỗi thôi. Nó đang cáu với mình. Nó bỏ đi để trừng phạt mình.
Nhưng nó có làm thế thật không? Thằng bé biết quy tắc, và thằng bé biết bố đang tự do ngoài kia. Nó biết mẹ đang ở rất xa, không thể đi tìm mẹ được, vậy thì nó còn cố bỏ chạy đi tìm mẹ làm gì chứ? Hẳn là nó tức giận và ngốc nghếch quá thôi. Có khi nó chạy vào Norton rồi cũng nên. Tôi không biết nữa.
Tôi chắc chắn không thể kể với mẹ tôi vừa làm mất em. Khi tìm được nó, tôi sẽ ôm chầm lấy nó, rồi sau đó tôi sẽ đạp nó một trận no đòn để nó không bao giờ quên. Rồi tôi sẽ lại ôm em lần nữa. Tôi muốn nói với chú Javier, Xin chú đừng nói cho mẹ cháu biết, nhưng không thể. Chú ấy cũng thấy mình có trách nhiệm mà.
Tôi chạy ra ngoài hiên. Dây xích của Boot nằm thành một đống ngoài đó. Tôi đứng cạnh đống dây xích và dáo dác nhìn xung quanh. Giờ chú Javier đang đi một vòng quanh nhà, cùng chó Boot theo sát từng bước chân. Chú ấy ngước nhìn ra bên ngoài hàng rào, vào khu rừng bao quanh chúng tôi, và tôi biết chú đang nghĩ gì: Lối nào chứ? Tôi không biết nữa.
“Boot có tìm được nó không ạ?” Tôi hỏi.
“Cũng có thể. Trước đây nó từng chơi trò tìm đồ rồi. Có khi nó tìm được dấu vết của Connor đấy.”
Tôi chạy vào nhà, mở tủ đồ của Connor và quay ra ngoài cùng một cái áo phông khá nặng mùi, lấy trong đống quần áo chuẩn bị mang đi giặt. Tôi đưa áo cho chú Javier, chú đưa cho Boot ngửi. Con chó hăng hái hít lấy hít để, rồi ngẩng lên nhìn chúng tôi tuồng như muốn hỏi chúng tôi muốn gì. Tôi sà xuống và nói: “Tìm thằng bé đi.”
Tôi không hiểu được lũ chó, và Boot chỉ oặt người liếm mạng sườn và vênh mặt lên nhìn tôi. Tôi cầm chiếc áo và ném vào mặt nó lần nữa. Nó nhảy lùi ra sau và gầm gừ với tôi đầy dọa dẫm. “Làm ơn đi mà.” Tôi nói với nó. “Xin mày đấy.”
Nó ngồi xuống và hắt hơi. Chú Javier chửi thầm trong miệng bằng tiếng Tây Ban Nha - chắc chú ấy nghĩ tôi không biết chú ấy đang nói cái gì - nhưng rồi chú với tay xuống và xoa con chó, rồi nói: “Xin lỗi, chú bé, không phải lỗi của mày mà.”
Boot vẫn tỏ vẻ khó hiểu lắm, nhưng đột nhiên, tai nó vểnh lên. Cứ như nó đột ngột quyết định dứt khoát vậy. Nó lùi ra sau, sủa một tiếng, và phóng một phát thật lực, bay vút qua hàng rào, thậm chí còn cao hơn mép rào ít nhất mười lăm phân. Chú Javier há hốc mồm.
“Chú có biết nó có thể nhảy qua rào được như thế không?” Tôi hỏi.
“Không hề. Chết thật!”
Chú Javier mở cổng và chạy ra ngoài lối đi rải sỏi dùng để lái xe lên nhà, chỗ Boot đang ngửi đám sỏi, mũi ủi đống đá sỏi và thở cho bụi đất tung lên. Nó đi lòng vòng quanh lối đi, rồi chạy thục mạng ra đường lớn. Chú Javier chạy theo sau, và tôi cũng sấp ngửa chạy theo. Tôi trượt chân, loạng choạng, rồi lấy lại được thăng bằng. Tôi thầm cảm ơn mẹ vì đã lôi tôi đi chạy bộ quanh hồ Stillhouse. Chạy trên đường rải sỏi không hề dễ, nhưng chúng tôi không hề chạy chậm lại, mãi cho tới khi Boot giảm tốc độ, lúc đi được nửa đường, tính từ nhà ra tới đường lớn. Ở đoạn này, sỏi không còn nữa, đường chỉ toàn bùn, nhưng khá khô ráo. Boot chạy lòng vòng theo hình số 8, hít ngửi liên tục, rồi quay lại ở một chỗ và ngồi xuống. Nhìn chúng tôi, ánh mắt nó thoáng chút thương hại. Bọn người ngốc nghếch.
Tôi là người phát hiện ra dấu chân cạnh con đường bùn, ngay chỗ mấy cái cây. Tôi nhận ra dấu giày in dưới đất. Đó là đế giày của hãng Keds, là đôi Connor đang đi.
Tôi chạy hết tốc lực vào rừng và hầu như chẳng nghe thấy tiếng chú Javier hô với theo, Từ từ đã, Lanny, vì tôi quá sợ hãi. Tôi sợ thằng bé đi mất, hay tệ hơn, có chuyện chẳng lành xảy đến với em trai mình, thằng bé lang thang trong này và ngất, hay…
Tôi nhìn thấy gương mặt Connor đầu tiên. Nó đang nhìn về phía căn nhà, và ánh nắng chiều xuyên qua những tán cây, rơi xuống ngay người nó. Mặt nó trông buồn rười rượi và trầm ngâm, có lẽ còn có chút tội lỗi nữa. Thằng bé chỉ đứng yên đó.
Rồi nó quay lại và nhìn tôi, nói: “Chị Lanny…”
Tôi không nghe. Tôi đứng khựng lại ngay trước mặt thằng bé, và lắc nó dữ dội như muốn rũ sự ngu ngốc ra khỏi người nó. Chỉ tới lúc đó tôi mới nhận ra Connor đang khóc. Đang khóc.
Tôi ngừng tay lại và kéo thằng bé vào lòng. Dẫu luôn luôn lớn hơn nó, tôi vẫn chưa bao giờ cảm thấy thằng bé nhỏ bé và mong manh như thế trước đây.
Nó sụp người xuống, và tôi cũng khuỵu theo thằng bé. Hai chị em chúng tôi cùng quỳ gối, ôm lấy nhau. Ngả người tới trước, rồi lại ngả ra sau, cứ thế đu đưa mà chẳng nói một lời. Tôi không biết có đứa nào trong hai chị em thực sự có thể mở miệng nói không nữa. Có chuyện gì đó rất sai trái ở đây, và tôi không biết đó là điều gì. Tôi sợ phải biết.
Connor đưa điện thoại của nó cho tôi. Tay nó run lẩy bẩy. Mẹ luôn luôn kiểm tra kĩ lưỡng xem đã tắt hết chức năng truy cập mạng của điện thoại đi và bật chế độ kiểm soát của phụ huynh lên chưa trước khi đưa điện thoại cho chúng tôi, nhưng tôi chẳng quá ngạc nhiên khi thấy thằng bé đã hack được cả hai chức năng ấy - hẳn là thế, bởi vì trên màn hình đang phát một đoạn video. Ngay lúc tôi cầm lấy chiếc điện thoại từ tay thằng bé thì đoạn phim ấy kết thúc. “Cái gì đây?” Tôi nghe thấy tiếng chú Javier tới từ đằng sau mình, và cả chó Boot nữa, nó kêu ư ử và rúc vào dưới cánh tay Connor để liếm mặt em trai tôi. Tôi nuốt khan và ngồi phịch xuống. Connor vòng tay ôm lấy chú chó, như thể nó cần có cái gì đó để bám víu vào. “Connor? Em có muốn chị xem cái này không?”
Thằng bé lẳng lặng gật đầu. Tôi bấm nút “Bật.”
Và khi tôi nhìn thấy những gì chiếu trên đó, cả thế giới thay đổi. Mãi mãi.