CHƯƠNG BẢY THẾ GIỚI SẼ LÀ CỦA AI?
Ngày 28 tháng 3 năm 2012, một sự kiện quan trọng không được chú ý xảy ra. Theo tính toán của Bộ Tài chính Úc, ngày hôm đó tổng quy mô của các nền kinh tế kém phát triển hơn đã vượt qua tổng quy mô của thế giới giàu có. Ngày hôm đó là một bước tiến gần tới điều mà nhà báo xã luận Peter Hartcher mô tả là “một chệch hướng đã kéo dài một thế kỷ rưỡi qua... [khi] Trung Quốc còn là nền kinh tế lớn nhất thế giới cho tới năm 1840”. Ông tiếp tục bằng cách trích dẫn Ken Courtis, một nhà quan sát các nền kinh tế châu Á nổi tiếng: “Người Trung Quốc nhìn vào điều đó và họ nói, “Chúng ta vừa có vài thế kỷ tồi tệ.. Trong nháy mắt của một thế hệ, quyền lực toàn cầu đã chuyển đổi. Theo thời gian, điều này sẽ không chỉ là sự chuyển đổi về kinh tế và tài chính, mà còn cả sự chuyển đổi về chính trị, văn hóa và ý thức hệ nữa”. [1]
Liệu có đúng thế không? Những bình luận của độc giả với bài xã luận của Hartcher mang tới sự tổng hợp đầy gợi mở về một cuộc tranh luận đã làm bận lòng các học giả và những nhà hoạch định chính sách khắp mọi nơi: Những quốc gia nào sẽ nắm quyền kiểm soát trong những năm sắp tới? Derek từ Canberra viết: “Tôi không nghĩ chúng ta phải lo lắng nhiều về vài thập kỷ tới. Trên lý thuyết Trung Quốc và Ấn Độ là những cường quốc, nhưng hầu hết công dân của họ thậm chí không được tiếp cận với nước sạch hay điện”. “Barfiller” bổ sung: “Đừng quên những mối lo khác của ‘nền kinh tế mới nổi’: xung đột biên giới; quyền về nước và tài nguyên; bảo hộ sáng chế phát minh và bản quyền trí tuệ; những khác biệt sắc tộc, tôn giáo và ý thức hệ; sự đa dạng văn hóa; những tranh luận và các cuộc chiến tranh mang tính lịch sử; vân vân và vân vân. Sẽ không chỉ có sự ngọt ngào và ánh sáng cho các quốc gia mới phát triển”. David từ Vermont lưu ý rằng cần phải tính tới sự phân chia của cải trong dân số các nước này. Sự khác biệt giữa “sự giàu có” của một người Trung Quốc trung bình và người đồng chí đặc quyền đặc lợi của họ trong đảng, theo ý tôi, là một khoảng cách không thể lấp đầy (giống như ở Ấn Độ)". “Caledonia”, viết từ Sydney, còn lo lắng hơn: “À, nếu nền kinh tế Trung Quốc đổ vỡ bạn sẽ thấy mình đứng trong hàng dài những người thất nghiệp và sẽ cảm thấy may mắn nếu có việc làm lau dọn nhà vệ sinh. Nếu Trung Quốc hắt hơi, Úc sẽ bị cảm cúm. Nếu Trung Quốc cảm cúm, Úc sẽ bị viêm phổi”. [2] Ẩn chứa trong những bình luận này là các giả định nền tảng về điều khiến một quốc gia hùng mạnh, đủ hùng mạnh để khiến nó là một siêu cường - một quốc gia với năng lực áp đặt ý chí của nó lên những nước khác. Và như chương này sẽ cho thấy, không chỉ các nhân tố định nghĩa một siêu cường đã thay đổi, mà việc đạt được và sử dụng quyền lực trong hệ thống quốc tế cũng đang trải qua những chuyển biến sâu sắc.
Trong hàng thế kỷ, việc xử lý mối thù địch giữa các quốc gia và giành giật lãnh thổ, tài nguyên và ảnh hưởng đã là sứ mệnh cao quý của các viên tướng và những ngài đại sứ. Suốt thế kỷ XIX và XX, những người đại diện của cái gọi là Các cường quốc đã sử dụng sức mạnh quân sự và ảnh hưởng kinh tế của riêng nước họ để chiến thắng các cuộc chiến tranh, kiểm soát các liên minh, đảm bảo an ninh cho các tuyến đường thương mại và lãnh thổ, thiết lập luật lệ cho phần còn lại của thế giới. Sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai, những thực thể còn ấn tượng hơn, các siêu cường, leo lên trên đỉnh nhóm này. Và bình minh của thế kỷ XXI, với việc Liên Xô bị đưa vào sách giáo khoa lịch sử, chứng kiến một tay chơi áp đảo: một siêu cường duy nhất, nước Mỹ. Lần đầu tiên trong lịch sử, nhiều người cho rằng, cuộc đấu tranh quyền lực giữa các quốc gia đã đưa tới một kẻ chiến thắng duy nhất, rõ ràng và thậm chí có thể là cuối cùng.
Xem xét bằng chứng từ WikiLeaks, vốn tiết lộ số lượng khổng lồ hơn 250.000 công hàm ngoại giao của Mỹ, như Julian Assange, nhà lãnh đạo tổ chức này đã nói một cách rất thú vị, “cho thấy quy mô của việc Mỹ tiến hành hoạt động gián điệp với các đồng minh và Liên Hiệp Quốc; nhắm mắt làm ngơ với tham nhũng và sự vi phạm nhân quyền ở ‘các quốc gia chư hầu’; những thỏa thuận ngầm với các quốc gia lẽ ra được coi là trung lập; vận động hành lang cho các tập đoàn Mỹ; và các biện pháp những nhà ngoại giao Mỹ thực hiện để thúc đẩy lợi ích của những người tiếp cận được họ” [3] .
Phản ứng của các nhà phân tích giàu kinh nghiệm như Jessica Mathews, Chủ tịch Quỹ Camegie ở Washington, là điều đó không có gì đáng ngạc nhiên: “Đây chính xác là điều mà một siêu cường luôn là. Đây là cách những quốc gia thống trị hành xử trên thực tế”, bà nhận xét ráo hoảnh [4] .
Điều mà nhiều công hàm cũng cho thấy là một siêu cường vật lộn để khiến thu xếp mọi việc, bị ngăn trở bởi những hệ thống quan liêu, các chính trị gia, các tổ chức phi chính phủ và các công dân bình thường của các quốc gia khác. Đào sâu vào những công hàm trong một tháng cụ thể bất kỳ và bạn có thể thấy:
✔ Mỹ đang siết chặt tay lo lắng khi Nghị viện Châu Âu chuẩn bị bỏ phiếu bác bỏ các biện pháp riêng nhằm theo dõi tài chính của những kẻ khủng bố và cung cấp hồ sơ tên tuổi của khách đi máy bay
✔ Duma* Nga đang siết chặt các công ty thẻ tín dụng Mỹ nhằm loại họ ra khỏi quy trình thanh toán ở nước này, trừ khi họ chịu gia nhập một hệ thông thẻ thanh toán quốc gia của Nga sẽ làm giảm mạnh doanh thu của họ
Duma: Hạ viện của Quốc hội Liên bang.
✔ Một cuộc chiến kéo dài để lôi kéo chính quyền Turkmenistan khôi phục lại quyền hạ cánh cho các máy bay quân sự Mỹ
✔ Sự thất vọng với việc chính quyền Kazakhstan từ chối miễn giảm thuế địa phương cho các thiết bị và nhân sự để bảo vệ nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng - một nỗ lực chiến lược cực kỳ quan trọng
Ngay cả các quốc gia trên lý thuyết bị Mỹ áp chế cũng rất khó tuân lời. Ai Cập, nước nhận hàng tỉ đô-la viện trợ quân sự và kinh tế, bỏ tù những nhân viên cấp cao của một tổ chức phi chính phủ Mỹ. Pakistan dành chỗ trú ẩn cho những kẻ khủng bố Taliban và AI Qaeda, bao gồm Osama bin Laden. Israel bác bỏ các yêu cầu của Mỹ về việc không xây những khu định cư ở vùng lãnh thổ tranh chấp. Afghanistan, một chính quyền dựa vào viện trợ từ Mỹ và các đồng minh ở một mức độ cực kỳ lớn cho ngân sách quốc gia, bất đồng với Mỹ trong việc hành xử ở cuộc chiến trên lãnh thổ nước này. Và Washington hoang mang trước khả năng rằng bất chấp những cảnh báo mạnh mẽ của họ, Israel vẫn có thể đơn phương ném bom các cơ sở hạt nhân của Iran. Như Zbigniew Brzezinski, cựu Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ từng nói với tôi, thế giới đã buớc vào một “thời đại hậu siêu cường” khi “không quốc gia nào có năng lực áp đặt ý chí lên các nước khác một cách đáng kể hay lâu dài”. [5]
Điều đã xảy ra với sự thống trị của Mỹ là chủ đề tranh luận không hồi kết. Trí tuệ thông thường đã lung lay dữ dội truớc hết sự kiện không ngờ tới này tới sự kiện không ngờ tới khác. Đầu tiên, sự kết thúc đột ngột của Chiến tranh Lạnh và chiến thắng ý thức hệ mà nó đánh dấu, kết hợp với sự tăng trưởng kinh tế của Mỹ cùng sự bùng nổ thông tin liên lạc và công nghệ trong những năm 1990, có vẻ như báo truớc một thế giới đơn cực mới, thế giới mà trong đó một siêu cường duy nhất có thể ngăn chặn mọi tham vọng trở thành siêu cường của tất cả đối thủ cạnh tranh đáng kể. Nhưng rồi những vụ tấn công 11 tháng 9, chủ nghĩa đơn phương của chính quyền Bush, thâm hụt ngân sách lớn trở lại và sự tăng trưởng liên tục của Trung Quốc đã làm thay đổi bức tranh. Kết quả là, quan điểm về sự suy giảm quyền lực của Mỹ được tiếp thêm động lực. Những lời nhắc nhở rằng các đế chế trong suốt lịch sử luôn đi tới kết thúc được ghi lại trong những tựa sách như Are We Rome ? (tạm dịch: Liệu Chúng Ta Có Giống Đế Chế La Mã?) của Cullen Murphy, xuất bản năm 2007 [6] .
Chiến thắng bất ngờ của Barack Obama cũng khiến cuộc tranh luận đó phải tạm dừng. Bỗng nhiên, sự khả tín về mặt đạo đức của nuớc Mỹ trên thế giới được làm mới lại, cùng với nó là sự hấp dẫn của “quyền lực mềm” chỉ vài năm truớc tưởng như đang suy giảm nhanh chóng. Nhưng lợi ích còn sót lại từ sức hấp dân toàn cầu của ông Obama, tới lượt nó, bị hủy hoại bởi cuộc khủng hoảng tài chính đang diễn ra, cán cân ngân sách thâm hụt sâu và kéo dài cùng sự sa lầy hút cạn năng lượng nuớc Mỹ ở Iraq và Afghanistan. Trong bài phát biểu Thông điệp Liên bang năm 2012, ông Obama biện minh rằng “bất kỳ ai nói với bạn rằng nuớc Mỹ đang suy sụp... không biết họ nói gì”. Cuộc tranh luận về vị thế toàn cầu của nước Mỹ tiếp tục, được thúc đây bởi những dòng tít và thống kê kinh tế cũng nhiều như bởi những học thuyết thông thái về quan hệ quốc tế hay sự so sánh lịch sử với trật tự thế giới trong các thế kỷ trước.
Nhưng đúng lúc quyền lực của Mỹ có vẻ như lung lay, thì điều tương tự cũng đúng với những kẻ cạnh tranh của nó. Bên kia Đại Tây Dương, Liên minh Châu Âu - một dự án tham vọng mà nhiều người tin rằng sẽ hình thành một đối trọng với Mỹ - bị sa lầy trong cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ, tan nát vì khả năng quản trị nhà nước nặng nề, chững lại bởi dân số già cỗi và làn sóng lớn những người nhập cư mà châu lục này không biết nên hấp thu như thế nào. Nga, đối thủ cũ và quốc gia thừa kế những nguồn lực và năng lực quân sự của Liên Xô, là một xã hội đang lão hóa khác, một nhà nước toàn trị làm giàu dựa trên dầu mỏ đang chật vật kiểm soát sự bất đồng âm ỉ trong dân chúng. Hai thập kỷ của chủ nghĩa tư bản thân hữu hậu cộng sản, sự can thiệp mạnh tay của nhà nước, tình trạng tội phạm công khai đã thay đổi quốc gia vĩ đại này thành một con quái vật quá phức tạp và bước đi khập khiễng, dù nó vẫn sở hữu kho đạn hạt nhân, nhưng chỉ còn là cái bóng mờ nhạt của siêu cường tiền nhiệm.
Như đã ghi nhận, cuộc tìm kiếm bằng chứng cho một siêu cường đang lên đưa ra một câu trả lời dễ dàng: sức sống nằm ở phương đông. Thật vậy, theo Global Language Monitor, tổ chức theo dõi các nguồn tin truyền thông hàng đầu trên thế giới, “sự nổi lên của Trung Quốc” là câu chuyện tin tức được đọc nhiều nhất trong thế kỷ XXI [7] . Nền kinh tế Trung Quốc vượt lên trên cuộc suy thoái toàn cầu. Năng lực quân sự và sức mạnh ngoại giao của họ tiếp tục mở rộng. Kể từ giữa những năm 1990, các nền kinh tế châu Á đã tăng trưởng với tốc độ gấp đôi những nền kinh tế Mỹ và châu Âu. Nhìn về phía trước, các chuyên gia chỉ nhận định khác nhau về việc khi nào thì nền kinh tế phương Tây sẽ bị vượt mặt hoàn toàn. Một tiên đoán ước tính là rất sớm, ngay từ năm 2020, nền kinh tế châu Á sẽ lớn hơn của Mỹ và châu Âu cộng lại. Một tiên đoán khác cho rằng riêng Trung Quốc sẽ vượt xa Mỹ vào năm 2050, đánh giá theo sức mua, kinh tế Trung Quốc tới giữa thế kỷ này sẽ đạt gần gấp đôi kinh tế Mỹ, Ấn Độ theo ngay sau đó và châu Âu sẽ đứng thứ ba [8] . Ở Washington, những tiên đoán như thế được nêu ra với sự lo lắng và báo động. Ở Bắc Kinh, chúng tràn ngập chủ nghĩa chiến thắng. Và như chúng ta đã thấy ở trên, những người Úc cũng tham gia vào cuộc tranh luận tích cực như bất kỳ ai - và cũng bị chia rẽ như thế.
Trong sự bừng tỉnh của Trung Quốc, còn có một đối thủ đáng kể khác. Ở Ấn Độ, tốc độ tăng trưởng nhanh, việc được chấp nhận vào câu lạc bộ vũ khí hạt nhân mà không gặp phải sự chống đối nào, sự bùng nổ công nghệ và thuê ngoài đã nuôi dưỡng những kỳ vọng về vị thế siêu cường. Brazil, một nước lớn với chính sách ngoại giao tích cực và giờ, sau khi thay thế Anh, là nền kinh tế lớn thứ sáu trên thế giới [9] , cũng đã vươn lên tầm mức toàn cầu, tạo thành nhóm BRICS (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Phi) gồm các cường quốc mới nổi. Mỗi nước có tầm ảnh hưởng khu vực riêng và vai trò như một mỏ neo, quốc gia trung gian, người động viên và đôi khi, kẻ bắt nạt các nước nhỏ hơn xung quanh. Hơn thế, mỗi nước đều phản kháng lại và lấn chiếm những đặc quyền tối hậu của siêu cường, dù là trong các thỏa thuận song phương với Mỹ hay ở Liên Hiệp Quốc và trong nhiều diễn đàn đa phương đa dạng khác.
Liệu hành vi của các nước này có cho thấy mối đe dọa với sự ổn định của trật tự thế giới mà nước Mỹ phải ngăn chặn và răn đe? Liệu họ chỉ tìm cách tối đa hóa lợi ích tới từ trật tự quốc tế do Mỹ làm chủ và không có ý định đảo lộn nó? Liệu sự nổi lên của họ có báo hiệu việc chia cắt sâu sắc hơn một hệ thống đơn cực xung quanh Mỹ, sự trỗi dậy từ sớm của một đối thủ lớn đầy thù địch như Trung Quốc, hay sự chuyển đổi sang một trật tự đa cực trong đó Mỹ chỉ là một trong một nhóm ngày càng lớn mạnh - bao gồm những đối tác, địch thủ và quốc gia ngang hàng? Và điều gì xảy ra nếu tất cả hay một số nước BRICS chỉ được tận hưởng uy tín tạm thời và sẽ sớm chìm trong những vấn đề tới từ các nước nghèo vẫn còn đầy sự bất cân xứng về chính trị, kinh tế, xã hội và sinh thái? Thật vậy, sau sự tăng trưởng nhanh chóng của họ, các nền kinh tế BRICS và những siêu sao khác của các thị trường mới nổi đang bắt đầu chậm lại, một thực tế có thể nuôi dưỡng sự bất đồng chính trị âm ỉ luôn tồn tại ở các xã hội thay đổi nhanh chóng. Từng quan điểm trong số này đều có những người ủng hộ đưa ra các diễn giải về việc quốc gia của mình phải làm gì để thúc đẩy lợi ích của chính nó và nếu có thể, giúp bảo vệ hòa bình thế giới.
Trong những trang tiếp theo, chúng ta sẽ nhìn vào lý do câu hỏi về siêu cường lại khiến các nhà tư duy quân sự và chính sách đối ngoại ưu tư nhiều như vậy, và tại sao sự chuyển đổi quyền lực trong những quốc gia lớn trên thế giới lại có tác động đến tất cả mọi người, vượt xa ngoài sự tập trung nông cạn vào việc ai có GDP, quân đội hay bộ huy chương vàng ở các kỳ Thế vận hội nhiều nhất. Nhưng chương này là về một câu chuyện ẩn - một câu chuyện bị bỏ qua quá thường xuyên bởi những người đang tranh luận và theo dõi vận mệnh của các quốc gia. Không quốc gia nào, dù đang ở trên đỉnh hay đang nỗ lực vươn lên đó, hoặc một quốc gia có vẻ đang mắc kẹt dưới đáy, miễn nhiễm với những ảnh hưởng của cuộc cách mạng Nhiều Hơn, Di Động và Tinh Thần lẫn sự suy tàn của quyền lực đi cùng với chúng. Sự tăng trưởng cực nhanh của sản lượng và dân số, sự cơ động chưa từng có tiền lệ của hàng hóa, ý tưởng và con người cùng sự nổi lên kèm theo của những kỳ vọng trong dân chúng đang làm xói mòn những rào cản với sự vươn lên của quyền lực - một thực tế chuẩn xác với tất cả các nước bất kể quy mô, mức độ thu nhập, hệ thống chính trị hay lực lượng quân sự.
Khi những rào cản đó rơi xuống, chúng xóa bỏ sự khác biệt giữa các quốc gia tinh hoa có thể chơi trò chính trị quyền lực và các nước cựu thuộc địa, các quốc gia chư hầu và những thực thể xa xôi bên lề mà các siêu cường từng cai trị hoặc phớt lờ. Trong khi những hệ thống tình báo tinh vi và đắt đỏ một thời từng giúp cho số ít quốc gia có lợi thế về thông tin, giờ dữ liệu có sẵn cùng nguồn lực trên mạng đang giúp những kẻ nhỏ bé cạnh tranh. Trong khi hàng tỉ đô-la ngân sách viện trợ một thời từng thiết lập được các chế độ thiện chí và trung thành trong phạm vi ảnh hưởng của một cường quốc, giờ các nguồn viện trợ từ nước ngoài đã tăng lên nhiều lần, từ những nước nhỏ làm tốt hơn khả năng của mình cho tới những quỹ mà số tiền tài trợ vượt qua GDP của các nước khác. Trong khi Hollywood và Quốc tế Cộng sản một thời từng cho thấy sức lôi cuốn văn hóa mạnh mẽ, giờ các xã hội Nho giáo, điện ảnh Bollywood và phim truyền hình dài tập Colombia giành được trái tim và tâm trí của mọi người.
Năng lực ngày càng tăng của các nước nhỏ sẽ chống lại sự định đoạt từ các nước lớn là một phần của sự chuyển đổi tổng thể đã trao quyền cho nhiều các nhân tố hơn trong các vấn đề quốc tế. Những tổ chức như AI Qaeda, Quỹ Gates và AI Jazeera có nghị trình riêng nhìn chung không gắn kết với bất cứ quốc gia cụ thể nào. Những kẻ khủng bố, quân nổi dậy, những tổ chức phi chính phủ, những hiệp hội người nhập cư, những người làm từ thiện, các công ty tư nhân, những nhà đầu tư và tài chính, những công ty truyền thông, các giáo hội toàn cầu mới không chỉ khiến quân đội và những ngài đại sứ trở nên lỗi thời. Chúng còn giới hạn điều quân đội và những ngài đại sứ có thể làm và gây ảnh hưởng tới nghị trình quốc tế thông qua những kênh và phương tiện mới. Hãy nhìn vào Kony 2012, một đoạn video do một nhà hoạt động Thiên Chúa giáo và đạo diễn phim tên Jason Russell tạo ra nhằm hối thúc việc bắt giữ tên tội phạm chiến tranh đã bị truy tố Joseph Kony. Trong vài tuần sau khi nó ra mắt trên YouTube (không phải thông qua một công ty truyền hình có vị thế lớn), nó đã thu hút hàng chục triệu người xem, cũng như những khoản tài trợ, sự ủng hộ từ những người nổi tiếng và những lời kêu gọi hành động - chưa kể tới các tiếng kêu giận dữ từ một số người Uganda phẫn nộ vì cách bộ phim mô tả đất nước họ. Tất nhiên việc buôn bán vũ khí, các chương trình viện trợ quốc gia, mối đe dọa xâm lược hay lệnh cấm vận thương mại vẫn tác động hơn trong việc định hình quan hệ quốc tế. Không phải mọi nước nhỏ đều xoay xở khai thác được những cách mới để vươn tới quyền lực, nhưng nhiều nước đã làm được.
Khi Mỹ, Trung Quốc, Nga và các cường quốc địch thủ khác định vị họ trong cuộc cạnh tranh quân sự và thương mại, họ cũng phải tính tới ảnh hưởng của chủ nghĩa tích cực mới này trong nền chính trị, kinh tế và văn hóa nội địa của họ. Và như được ghi nhận ở chương trước, sự suy tàn của quyền lực đã làm thay đổi đáng kể tính chất của xung đột toàn cầu. Ảnh hưởng mang tính chuyển đổi của chúng tới việc các quốc gia quan hệ với nhau trong ứng xử ngoại giao hàng ngày - mạng lưới những mối quan hệ đang định hình cuộc sống của chúng ta và kết nối trật tự thế giới với nhau - không hề kém phần sâu sắc. Để tiên liệu ảnh hưởng của nó, chúng ta nên nhìn vào lý do tại sao vị thế siêu cường và Trò Chơi Lớn có vai trò quan trọng như thế ngay từ đầu.
PHẦN THƯỞNG CỦA QUYỀN LỰC SIÊU CƯỜNGBất cứ khi nào nền chính trị toàn cầu trải qua sự thay đổi lớn, bóng ma của xung đột và sự hỗn loạn lại ngóc cái đầu đáng sợ của nó lên. Thật vậy, khi thứ bậc của các cường quốc lớn thay đổi, rủi ro không chỉ là với uy tín, mà với cả sự ổn định và thậm chí, sự sống còn của chính hệ thống quốc tế.
Khi các nhà nước tìm cách thúc đẩy lợi ích quốc gia của mình, họ sẽ không tránh khỏi sự va chạm với lợi ích của các nước khác. Sự va chạm có thể là về lãnh thổ, tài nguyên thiên nhiên, sự tiếp cận nguồn nước hay không khí sạch, đường hàng hải, luật lệ quản lý sự di chuyển của con người, việc che chở cho những nhóm thù địch hay nhiều chủ đề đáng quan tâm khác. Và sự xung đột lợi ích đó có khuynh hướng dẫn tới những cuộc chiến tranh biên giới, chiến tranh ủy nhiệm*, tranh chấp lãnh thổ, các cuộc nổi loạn, những chiến dịch mật vụ hiểm độc, sự can thiệp nhân đạo, hành động vi phạm nhân quyền của các nhà nước bạo tàn và việc giành giật quyền lực đủ kiểu. Lịch sử nêu ra những bài học mạnh mẽ về điều sẽ xảy ra khi các cường quốc khu vực không thể ngăn chặn hay khoanh vùng những cuộc xung đột như thế. Trong hàng thế kỷ, từ Chiến tranh Ba mươi năm tới những cuộc chiến tranh Napoleon, rồi tới Chiến tranh Thế giới Thứ nhất và Thứ hai, phạm vi và quy mô của chiến tranh đã ngày càng trở nên đẫm máu và rộng lớn.
Chiến tranh ủy nhiệm (Proxy war): Cuộc xung đột giữa hai quốc gia không tham chiến trực tiếp với nhau. Thay vào đó, mồi nước sử dụng bên thứ ba, có thể là quốc gia đồng minh hay lực lượng đối địch của nước kia, để tấn công lợi ích và lãnh thổ của đối phương.
Từ năm 1945, nhiều cuộc xung đột có sức tàn phá lớn đã gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng mà không cần mở rộng thành chiến tranh thế giới tổng lực. Tại sao lại có giai đoạn hòa bình chưa từng có tiền lệ trên toàn cầu này? Yếu tố chủ chốt cho câu trả lời là quyền lực áp đảo của siêu cường. Trong sáu thập kỷ, các nước không phải nghi ngờ mình ở đâu trong hệ thống thứ bậc các quốc gia và những lằn ranh nào mà mình không được phép vượt qua. Trong hệ thống hai cực của Chiến tranh Lạnh, hầu hết phần còn lại của thế giới ít nhiều rơi vào vòng ảnh hưởng của Mỹ hoặc Liên Xô, và những nước còn lại biết tốt hơn là không nên thách thức trật tự chung này. Một khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, một nước là Mỹ đã phủ bóng lên tất cả những nước khác về sức mạnh quân sự và kinh tế cũng như ảnh hưởng văn hóa.
Học thuyết ổn định nhờ siêu cường, được phát triển vào những năm 1970 bởi giáo sư MIT Charles Kindleberger, là nền tảng của, ít nhiều rõ ràng, phần lớn cuộc tranh luận ngày nay. Quan điểm trung tâm của nó là một siêu cường áp đảo - có cả năng lực và lợi ích độc nhất vô nhị để đảm bảo trật tự thế giới - là liều thuốc tốt nhất cho sự hỗn loạn đắt giá và nguy hiểm ở tầm quốc tế. Nếu không có quyền lực độc đoán đó, lý thuyết này nói, cách duy nhất để mang lại hòa bình và ổn định là qua một hệ thống luật lệ - những quy tắc, luật pháp và định chế mà mọi nước đều đồng ý chịu sự ràng buộc để đổi lấy lợi ích của hòa bình và ổn định. Không cần phải nói, đây là một sự thay thế phức tạp, dù nó có cao quý ra sao, và hệ thống siêu cường áp đảo có khuynh hướng mang lại điều tốt đẹp đó một cách hiệu quả hơn [10] .
Viết về thế giới giữa các cuộc chiến, Kindleberger lập luận rằng hỗn loạn kinh tế và chính trị của thời đại bấy giờ - sự sụp đổ của bản vị vàng, cuộc Đại Suy thoái, bất ổn ở châu Âu và mối đe dọa phát xít nổi lên - cho thấy thất bại của hệ thống siêu cường áp đảo. Sự sẵn sàng và khả năng của Vương quốc Anh trong việc triển khai các lực lượng và chi tiền để duy trì sự thống trị của họ đang suy yếu, ứng viên đáng kể duy nhất để bước vào vai trò đó, Mỹ, bị khóa chặt trong một vị thế bị cô lập. Sự thiếu vắng siêu cường giúp ổn định cục diện - một quốc gia với cả khả năng và ý chí chính trị sử dụng quyền lực của nó để duy trì trật tự - góp phần vào sự lan ra của suy thoái và rốt cuộc là dẫn tới Chiến tranh Thế giới Thứ hai.
Những sử gia sử dụng vô số các phương pháp đo đạc để ước tính quyền lực quốc gia, từ dân số và sản lượng kinh tế tới chi tiêu quân sự và năng lực công nghiệp, đã xác định được những thời điểm khi sự áp đảo thuần túy của một nước – tức về cơ bản, khoảng cách giữa nước đó và tất cả những nước khác - là rõ ràng nhất. Anh trong những năm 1860 và Mỹ ngay sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai, từ 1945 tới 1955, là hai trường hợp “phản ánh sự tập trung lớn nhất của quyền lực trong quốc gia lãnh đạo hệ thống”, theo học giả William Wohlforth, người đi sâu phân tích những dữ liệu này. Nhưng cả hai đều không là gì so với nước Mỹ sau Chiến tranh Lạnh. “Mỹ là quốc gia lãnh đạo đầu tiên trong lịch sử quốc tế hiện đại với ưu thế vượt trội trong tất cả các yếu tố nền tảng của quyền lực: kinh tế, quân sự, công nghệ và địa chính trị”, Wohlforth viết năm 1999. Ông lập luận - một quan điểm được nhiều nhà phân tích khác đồng tình - rằng sự nổi lên của nước Mỹ như một cường quốc áp đảo hoàn toàn, mà không có kẻ cạnh tranh đáng kể nào ở khắp các lĩnh vực khác nhau trong quan hệ quốc tế, đã thiết lập một thế giới đơn cực. Điều này hoàn toàn là một hình mẫu mới trong lịch sử thế giới, có những yếu tố không chỉ mang lại hòa bình và ổn định toàn cầu mà còn duy trì điều đó qua thời gian [11] .
NHỮNG YẾU TỐ MỚIChính thành công của Mỹ trong việc mang tới cho thế giới sự ổn định của một siêu cường đã giúp đem đến hai chiều kích mới của quyền lực trong hệ thống thế giói. Một là “quyền lực mềm” - ý tưởng rằng quyền lực nhà nước có thể bộc lộ và áp đặt thông qua sức hấp dẫn của văn hóa và tư tưởng của nó. Chiều kích kia là sự phát tán phi thường những tổ chức, hiệp ước, luật pháp quốc tế và công ước mà ngày càng nhiều nước ký trong nửa sau của thế kỷ XX. Khung thể chế ngày càng lớn này tạo ra một hệ thống hợp tác toàn cầu với nhiều bên tham gia hơn, bao phủ nhiều chủ đề hơn hẳn so với dự đoán.
Quyền lực mềm có những tiền lệ hợp lý thô sơ hơn ở thời đại chủ nghĩa đế quốc, dù là đế quốc La Mã, Anh hay Pháp - dưới dạng sứ mệnh khai hóa nhắm tới việc giáo huấn những quốc gia thuộc địa đến với hào quang của văn minh phương Tây, thông qua sự lôi kéo nhờ lợi lộc hay vẻ ngoài lộng lẫy, hay việc tạo ra những bộ khung giáo dục, xã hội và văn hóa. Phiên bản hiện đại tử tế hơn, mềm mỏng hơn và bình đẳng hơn được nêu ra bởi nhà khoa học chính trị Joseph Nye - sau này là quan chức cấp cao trong chính quyền Clinton - trong một cuốn sách năm 1990 tựa đề Bound to Lead: The Changing Nature of American Power (tạm dịch: Sinh Ra Để Lãnh Đạo: Bản Chất Đang Thay Đổi Của Quyền Lực Mỹ). Khái niệm này ăn sâu bén rễ và Nye mở rộng nó trong một cuốn sách năm 2004 với tên gọi Soft Power (tạm dịch: Quyền Lực Mềm). Nhưng phần phụ chú tựa sách đã nêu rõ ý đồ thực sự: The Means to Success in World Politics (tạm dịch: Phương Thức Thành Công Trong Giới Chính Trị) [12] .
Quyền lực mềm theo tầm nhìn của Nye là một kiểu quyền lực khó đo đếm nhưng dễ phát hiện: quyền lực của danh tiếng và sự tôn trọng, của thiện chí tỏa ra bởi những định chế được tôn kính, một nền kinh tế đáng thèm muốn để hợp tác và trao đổi thương mại cùng, một nền văn hóa hấp dẫn. Hình thức quyền lực này có thể khó định lượng hơn số máy bay chiến đấu, số sư đoàn bộ binh hay số tỉ thùng dự trữ dầu, nhưng giá trị của nó không vì thế mà kém rõ ràng hơn. Trong những năm 1990, chắc chắn Thung lũng Silicon và Hollywood đã tăng cường quyền lực mềm cho nước Mỹ bằng cách thúc đẩy sự sáng tạo công nghệ toàn cầu và phát tán những sản phẩm giải trí gắn với văn hóa Mỹ. Quyền lực mềm không chỉ là độc nhất vô nhị với nước Mỹ, nhưng vào giữa những năm 1990, Mỹ áp đảo trong lĩnh vực quyền lực mới cực kỳ quan trọng này cũng toàn diện như trong các lĩnh vực truyền thống.
Thế giới cũng tận hưởng mức độ hợp tác quốc tế cao nhất trong lịch sử. Bắt đầu từ việc thành lập Liên Hiệp Quốc năm 1945, các chính phủ đã đầu tư ngày càng đều đặn vào các công cụ hợp tác mới. Riêng từ 1970 tới 1997, số các hiệp ước quốc tế đã tăng hơn gấp ba lần [13] . Bộ Ngoại giao Mỹ đăng một danh sách các hiệp ước hiện có hiệu lực ở Mỹ dài gần năm trăm trang, liệt kê hàng nghìn hiệp ước bao phủ mọi thứ từ gấu Bắc Cực và giao thông đường bộ tới năng lượng hạt nhân [14] . Những tiêu chuẩn về hành vi của các quốc gia và cả một bộ máy các hiệp ước và tổ chức quốc tế được chấp thuận rộng rãi ngày nay là điều khó mà tưởng tượng được một thế kỷ trước. Chúng cai quản mọi thứ từ việc đối xử với tù nhân chiến tranh cho tới quản lý nguồn cá và bạn phải trả bao nhiêu cho một cuộc gọi điện thoại quốc tế. Thương mại, tài chính, thông tin liên lạc, di cư, không gian vũ trụ, phổ biến vũ khí hạt nhân, các loài bị đe dọa, bệnh dịch, chủ nghĩa khủng bố, tội phạm - tất cả dựa trên cơ sở những hiệp ước hay các tổ chức quốc tế để giới hạn lựa chọn của các quốc gia và tạo ra một không gian để nhượng bộ và giải quyết những khác biệt.
Các học giả gọi điều này là một chế độ - một bộ các luật lệ và diễn đàn nhắm tới một vấn đề cụ thể cùng được quan tâm. Và khi một thách thức toàn cầu mới được định hình - ví dụ gần đây là tình trạng biến đổi khí hậu hay cuộc khủng hoảng tài chính lan rộng - có một bản năng lành mạnh là cùng nhau tập hợp lại và cố gắng xây dựng một chế độ để xử lý vấn đề, thay vì để mỗi nước tự lo lấy. Điều này khác biệt hoàn toàn với nền chính trị cướp bóc và vị kỷ của các quốc gia từng được Machiavelli và Hobbes coi là nghiễm nhiên. Ngày nay, trong một thế giới của gần 200 nhà nước chủ quyền riêng rẽ mà trước kia khó tưởng tượng nổi, xuất hiện sự thống nhất đạo đức lớn hơn bao giờ hết trong lịch sử loài người về hành vi đúng đắn của một quốc gia.
Sự kết hợp của quyền lực siêu cường độc nhất và những luật lệ có lợi cho sự ổn định toàn cầu. Hai cách tiếp cận đã hoạt động hiệu quả cùng nhau thay vì cạnh tranh với nhau. Bản thân hệ thống Liên Hiệp Quốc, với những ghế thường trực và quyền phủ quyết ở Hội đồng Bảo an, được thành lập để củng cố quyền lực của những nước thắng trận trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai, đặc biệt là Mỹ. Nước Mỹ đảm đương nhiều gánh nặng kinh điển của một siêu cường độc nhất: đóng quân ở châu Âu lẫn châu Á và hành xử như một cảnh sát toàn cầu, chi tiền cho Kế hoạch Marshall*, đóng góp vào phần lớn ngân sách của Liên Hiệp Quốc và của các tổ chức quốc tế khác. Đối thủ của nó, Liên Xô, sử dụng ý thức hệ, dầu mỏ và vũ khí để dựng lên một khối các nhà nước vệ tinh ở Đông Âu và trên khắp thế giới đang phát triển. Dựa vào mối đe dọa hủy diệt lẫn nhau chắc chắn bằng vũ khí hạt nhân, thế bế tắc giữa hai siêu cường khiến các cuộc xung đột địa phương không có nhiều đất để lan ra. Một khi Liên Xô sụp đổ, Mỹ còn lại với tất cả những tính chất và gánh nặng của siêu cường duy nhất. Nó sở hữu sức mạnh quân sự áp đảo, nền kinh tế lớn nhất thế giới và các mối quan hệ đầu tư và thương mại trên toàn thế giới, hệ thống chính trị mạnh và ổn định, lãnh thổ quốc gia an toàn và được phòng thủ vững chắc, hệ thống tích cực các nhà ngoại giao, quân đội và điệp viên ở gần như mọi ngóc ngách quan trọng trên thế giới. Trong khi đó, một mạng lưới ấn tượng các thỏa thuận và diễn đàn toàn cầu đã ngăn cản những bất đồng trở thành bạo lực và chuyển hướng sự kình địch sang thương lượng và thỏa thuận. Những nhà lý thuyết về sự ổn định do một siêu cường mang lại có vẻ đã có lý: quyền lực cứng của súng và tiền bạc, quyền lực mềm của văn hóa và tư tưởng, cùng quan hệ ràng buộc của các định chế cho thấy một thời kỳ đúng đắn và kéo dài ở phía trước mà nước Mỹ là chủ chốt.
Kế hoạch Marshall (Marshall Plan): Kế hoạch trọng yếu của Mỹ nhằm tái thiết và thiết lập một nền móng vững chắc hơn cho các quốc gia Tây Âu, đẩy lui chủ nghĩa cộng sản sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai.
NẾU KHÔNG PHẢI LÀ MỘT SIÊU CƯỜNG, THÌ LÀ GÌ?Một thập kỷ sau, bức tranh trở nên phức tạp hơn. Vụ tấn công 11 tháng 9 làm lung lay ảo giác về sự miễn nhiễm của nước Mỹ với các cuộc tấn công lớn trên lãnh thổ nước này. Những cuộc xung đột lối thoát ở Iraq và Afghanistan cho thấy những giới hạn trong sức mạnh quân sự áp đảo của Mỹ. Cuộc khủng hoảng tài chính và đại suy thoái bộc lộ nhiều điểm yếu trong nền kinh tế của nó. Chính phủ của cả hai đảng lớn gặp nhiều khó khăn với nền chính trị nội bộ bị phân cực. Nhưng cùng lúc, chưa có đối thủ đáng kể nào nổi lên. Trung Quốc và Ấn Độ đã cho thấy sự tăng trưởng thần kỳ, nhưng vẫn còn kém xa phía sau và có nhiều điểm yếu nội tại nghiêm trọng. Không liên minh hay hiệp ước lớn nào được ký bởi các cường quốc để khai thác vào những điểm dễ tổn thương của Mỹ. Những yếu tố kinh điển của sự cân bằng quyền lực - trong đó các nước toan tính để phá vỡ các liên minh và hạn chế vùng ảnh hưởng của nhau - vẫn im hơi lặng tiếng. Một vài nước rõ ràng đang ganh đua cho vị trí lãnh đạo những cuộc đối thoại toàn cầu về mọi thứ, từ luật lệ cho thương mại tới biến đổi khí hậu, nhưng điều này còn cách rất xa việc tập hợp vũ khí ở biên giới. Kể từ Khối Hiệp ước Warsaw* giải tán, không liên minh quân sự nào nổi lên chống đối khối NATO do Mỹ lãnh đạo. Nhưng sự thực thi độc quyền áp đảo của Mỹ, vốn bị chia rẽ về chính trị ngay trong nước, hầu như là không chắc chắn. Vậy điều gì đang xảy ra? Trong vài năm qua, cảm giác bất an này đã tạo điều kiện cho rất nhiều tin đồn thổi và nỗi lo lắng [15] .
Khối Hiệp ước Warsaw (Warsaw Pact): Liên minh quân sự gồm 8 nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa là Liên Xô, Albania, Ba Lan, Bulgaria, Đông Đức, Hungary, Romania và Tiệp Khắc. Khối này do Liên Xô thành lập và chỉ huy nhằm chông lại khối quân sự NATO, do Mỹ đứng đầu, trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh.
Một lời đáp hướng vào những dấu hiệu sự suy thoái của Mỹ khi năng lực kinh tế và ý chí chính trị của nước này - trong việc trả giá cho quyền lực đơn cực của mình - giảm xuống. Đây là chủ đề đã được nhắc đi nhắc lại. Cuốn sách nổi tiếng năm 1987 của sử gia Đại học Yale, Paul Kennedy, The Rise and Fall of the Great Powers (tạm dịch: Sự Trỗi Dậy Và Sụp Đổ Của Những Quyền Lực Lớn), mô tả năm trăm năm chuyển đổi của hệ thống quyền lực thế giới, kết thúc với lời cảnh báo về tính mong manh trong sự thống trị của Mỹ dựa trên kinh nghiệm về những đế chế trong quá khứ, đã tan rã khi chúng không còn nắm giữ được những nguồn lực ủng hộ các chiến dịch quân sự bị trải rộng quá mức của chúng. Sự sụp đổ của Liên Xô có vẻ như đã bác bỏ tiên đoán của Kennedy, nhưng trong thế giới hậu 11 tháng 9, quan điểm đó lại một lần nữa tỏ ra phù hợp. Và ngay cả những người ủng hộ trật tự đơn cực của Mỹ cũng lo ngại rằng rủi ro lớn nhất với trật tự thế giới không phải là sự trỗi dậy của một kẻ cạnh tranh độc ác, mà là thất bại của Mỹ trong việc duy trì vai trò đơn cực. Trong cuốn sách Colossus (tạm dịch: Kẻ Khổng Lồ) năm 2004, sử gia danh tiếng người Anh Niall Ferguson lập luận rằng Mỹ cần làm nhiều hơn nữa để duy trì trách nhiệm lãnh đạo như một “đế chế tự do”. Tất cả những luật lệ và chế độ hậu chiến là không đủ để xử lý các mối đe dọa từ những nhà nước bạo tàn, chủ nghĩa khủng bố hay dịch bệnh - những thứ được trao cho sức mạnh mới nhờ công nghệ, Ferguson lập luận. “Điều cần thiết là một thực thể đủ sức can thiệp... để kiềm chế dịch bệnh, lật đổ những kẻ độc tài, kết thúc các cuộc chiến tranh địa phương và nhổ tận gốc những tổ chức khủng bố”. Nói cách khác, một siêu cường đơn cực đủ mạnh và đủ tích cực [16] .
Quan điểm về tương lai của sự kình địch quốc tế vô cùng đa dạng. Học giả bảo thủ Robert Kagan dự đoán rằng “thế kỷ XXI sẽ nhìn giống như thế kỷ XIX”, ông viết, với những cường quốc như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ và một châu Âu thống nhất cạnh tranh nhau cho độc quyền áp đảo [17] . Một quan điểm khác cho rằng ngay cả những cường quốc kình địch cũng không thách thức công khai độc quyền của Mỹ, họ sử dụng những kỹ thuật như “cân bằng mềm” - chẳng hạn các thỏa thuận không chính thức, những nhóm bỏ phiếu cùng nhau ở các diễn đàn quốc tế, hay từ chối các yêu cầu ngoại giao và quân sự của Mỹ - để giới hạn và làm xói mòn nước Mỹ [18] . Các nhà tư tưởng khác tranh luận rằng những nỗi sợ như của Ferguson là bị thổi phồng, vì độc quyền của Mỹ chưa bị tổn hại đến thế. Ngay cả trong một thế giới với những kình địch mới và đa cực về ảnh hưởng - một “thế giới hậu Mỹ”, như Fareed Zakaria gọi - nước Mỹ vẫn tận hưởng các lợi thế độc nhất vô nhị chỉ củng cố thêm, chứ không làm giảm đi, quyền lực của nước này [19] .
Vẫn có người lo sợ rằng những thay đổi của nền kinh tế toàn cầu và lối sống của chúng ta đã trở nên cực đoan tới mức ngay cả sự độc quyền đơn cực lẫn các quy định toàn cầu cũng không còn khả thi nữa. Họ sợ rằng một hình thức của sự hỗn loạn - trạng thái nguyên thủy của hệ thống thế giới - một lần nữa đang bén rễ. Ngay từ năm 1994, Robert Kaplan đã nhìn thấy sự hỗn loạn nổi lên ở các quốc gia thất bại và những cuộc xung đột sắc tộc, sự trỗi dậy không thể kiềm chế của những kẻ khủng bố và các mạng lưới tội phạm, sự dễ tổn thương của một thế giới kết nối chặt chẽ trong việc lan tràn bệnh dịch và những thảm họa khác. Một quan điểm còn u ám hơn nữa thuộc về nhà khoa học chính trị Randall Schweller, người so sánh những thay đổi đang diễn ra trong hệ thống thế giới với trạng thái entropy trong vật lý học, khi một hệ thống trở nên mất tổ chức tới mức nó thay đổi bản chất theo một hướng không thể đảo ngược. Quá tải thông tin và sự phân tán của những thực thể và lợi ích sẽ khiến chính trị thế giới trở nên hoàn toàn hỗn độn, Schweller lập luận. “Entropy sẽ làm suy giảm và phân tán quyền lực có thể sử dụng được trong hệ thống”, ông viết. “Không ai biết quyền lực nằm ở đâu vì nó sẽ không nằm ở đâu hết; và thiếu quyền lực, sẽ không thể có bất cứ sự quản trị nhà nước nào” [20] .
Rõ ràng, hệ thống thế giới đang trong một trạng thái tuôn trào. Những cuộc tranh luận trên quan trọng, nhưng chúng vẫn có vẻ không chính xác khi các quan điểm chính, về việc thế giới hướng tới đâu, khác nhau quá lớn và phụ thuộc vào những nhận định thông thường đang thay đổi. Sự suy tàn của quyền lực sẽ giúp làm sáng tỏ bức tranh.
AI CÒN SỢ CON SÓI LỚN XẤU XA? QUYỀN LỰC TRUYỀN THỐNG BỊ ĐE DỌAMột cách nền tảng, công cụ mà các cường quốc sử dụng để đạt mục đích trong hệ thống quốc tế không thay đổi nhiều. Vũ khí, tiền bạc và sự khéo léo về ngoại giao thường hiệu quả. Một quân đội mạnh mẽ được trang bị thiết bị hiện đại và tuyển mộ một lực lượng chiến đấu lớn và có năng lực tốt; một nền kinh tế lớn, công nghệ tiên tiến và cơ sở tài nguyên thiên nhiên mạnh; một đội ngũ các nhà ngoại giao, luật sư cùng điệp viên trung thành và được đào tạo bài bản; một ý thức hệ hay hệ thống các giá trị hấp dẫn luôn là những tài sản giá trị để tạo ảnh hưởng quốc tế. Trong mỗi thời đại lịch sử, những phẩm chất như vậy mang lại lợi thế cho các quốc gia đông dân nhất, phát triển về kinh tế nhất, ổn định chính trị và giàu tài nguyên nhất. Không phải nhũng tài sản thô này đang suy giảm. Điều đang suy giảm là sự hiệu quả, tính khả dụng và ảnh hưởng của những hình mẫu quyền lực truyền thống mà chúng gắn liền: dù là quân sự, kinh tế hay quyền lực mềm.
Từ Sức Mạnh Áp Đảo Tới Thời Đại Của Những Đồng Minh Tình ThếNhư chúng ta đã thấy trong chương trước, một quốc gia - nước Mỹ - chi tiêu nhiều vào kho đạn dược, quân đội và hậu cần hơn tất cả các nước khác cộng lại. Đó không phải là những chi phí vô ích. Hệ thống nước Mỹ độc tôn - trong đó ưu thế áp đảo của quân đội Mỹ trở thành sự bảo đảm tối thượng cho tính ổn định - là có thật. Thật vậy, nước Mỹ giờ chính thức đảm bảo an ninh cho hơn 50 nước [21] . Sự bất cân xứng trong chi tiêu quân sự giữa Mỹ và các nước khác kéo dài, cũng như quy mô khác thường của sự hiện diện quân sự của Mỹ tại 130 quốc gia, từ những binh đoàn lớn trong các căn cứ đóng quân thường trực cho tới những đơn vị nhỏ tham gia chiến dịch đặc biệt, huấn luyện gìn giữ hòa bình và hoạt động chống quân nổi dậy.
Mỹ cũng lãnh đạo NATO, liên minh quân sự quan trọng nhất thế giới và, cùng với sự sụp đổ của đối thủ là Khối Hiệp ước Warsaw, liên minh duy nhất có quy mô lớn như thế. Đây là một dấu hiệu không thể mạnh mẽ hơn về sự thống trị độc tôn. Các liên minh luôn là công cụ cốt lõi cho chính trị giữa các cường quốc, hỗ trợ ngoại giao bằng mối đe dọa quân sự khả tín, vạch rõ những khu vực ảnh hưởng và những vùng không được xâm phạm, răn đe các cuộc tấn công bằng sự đảm bảo phòng thủ tập thể. Nói cách khác, chúng là những khối nền xây nên trật tự thế giới. Và trong nhiều thập kỷ, hình mẫu của các liên minh trên thế giới được duy trì ổn định. NATO và Khối Hiệp ước Warsaw áp đặt một trật tự cứng nhắc lên cả hai phía của Bức màn sắt*. Ở thế giới đang phát triển, các nước mới độc lập nhanh chóng bị lôi kéo, tình nguyện hay bị ép buộc tham gia vào liên minh của phương Tây hoặc khối Cộng sản.
Bức màn sắt (Iron Curtain): Biên giới vật lý lẫn tư tưởng mang tính biểu tượng chia cắt châu Âu thành hai khu vực riêng rẽ từ cuối Chiến tranh Thê giới Thứ hai đến cuối cuộc Chiến tranh Lạnh. Các quốc gia ở cả hai phía của Bức màn sắt đều thành lập các liên minh kinh tế và quân sự quốc tế riêng của mình.
Ngày nay, hơn một thập kỷ sau khi Khối Hiệp ước Warsaw bị giải tán bởi các nước thành viên vào tháng 7 năm 1991, NATO là kẻ chiến thắng. Thật vậy, 3 nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ và 7 nước vốn là thành viên của khối Liên Xô đã gia nhập liên minh này. NATO và Nga vẫn là đối thủ: Nga cự tuyệt việc có thêm những nước láng giềng của mình gia nhập liên minh và phản đối việc triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa NATO ở châu Âu. Nhưng họ cũng tự tuyên bố mình là đối tác, không phải kẻ thù, và từ năm 2002 đã tổ chức cả một hội đồng để dàn hòa quan hệ và giải quyết bất cứ bất đồng nào. Ngoài Nga, NATO không có kẻ thù tiềm tàng rõ rệt nào khác - một tình huống khó tin với một liên minh lớn, cũng là tình huống buộc nó phải tìm ra cách mới để tỏ ra vẫn còn phù hợp. Lý do chủ chốt hiện giờ là sứ mệnh của nó ở Afghanistan, trong đó tất cả 28 quốc gia thành viên cộng thêm 21 nước khác đã cung cấp quân đội tham gia.
Nhưng sự thống trị áp đảo bề ngoài của nó che giấu những điểm yếu đang gia tăng - phản ánh cả sự vắng mặt của mối đe dọa mang tính sinh tồn lẫn sự pha loãng quyền lực giữa những nước tham gia. Sứ mệnh Afghanistan do Mỹ nắm quyền điều hành áp đảo, nhiều nước chỉ đóng góp khiêm tốn hay mang tính tượng trưng. Một số nước đã rút lui. Làn sóng phản đối trong nước về việc quân đội Hà Lan tiếp tục hiện diện trong sứ mệnh này đã góp phần vào sự sụp đổ của chính phủ Hà Lan tháng 2 năm 2010, báo trước việc rút lui hoàn toàn của quân đội nước này. Những nước tham gia như Pháp và Đức đã tỏ ra ngần ngại trước những yêu cầu tăng quân của Mỹ. Hơn nữa, mỗi đạo quân ở Afghanistan hoạt động theo những quy định khác nhau, do các cơ quan chỉ huy quân sự quốc gia của từng nước ấn định hay thậm chí là theo pháp luật của nước đó. Một đạo luật được đưa ra ở nghị viện tại thành phố Prague hay The Hague có thể giới hạn những hành động một binh sĩ NATO có thể làm trên chiến trường khi chiến đấu chống lại Taliban, huấn luyện các binh sĩ Afghanistan hay đối phó với việc buôn ma túy. Có thể những sự hạn chế tương tự đã khiến các binh sĩ Mỹ chế tên Lực lượng Hỗ trợ An ninh Quốc tế (International Security Assistance Force, ISAF) là “I Saw Americans Fight” (Tôi Đứng Nhìn Lính Mỹ Chiến Đấu) [22] .
Trong khi NATO bị kéo căng bởi những sự xung đột này, việc hợp tác giữa các thành viên gặp phải sự cạnh tranh của các cấu trúc tương ứng. Một tổ chức quốc phòng lâu đời, Liên minh Tây Âu, có nhiều thành viên trùng với NATO. Liên minh Châu Âu (EU) có bộ máy chính sách quốc phòng riêng, bao gồm Cơ quan Quốc phòng châu Âu và những cơ quan khác. Nó thực hiện các sứ mệnh riêng ở hải ngoại bao gồm gìn giữ hòa bình, hỗ trợ quân sự và đóng góp vào các lực lượng đa quốc gia. Tất nhiên, mỗi nước thành viên EU vẫn duy trì quân đội riêng. Giữa NATO, các chính phủ quốc gia, và nhiều tầng quan liêu của EU, liên minh Đại Tây Dương đang ngày càng trở thành một sự kết hợp hỗn loạn về quyền tài phán và những diễn đàn với các thành viên trùng lặp, nhưng không có hệ thống thứ bậc ra quyết định hay những lằn ranh chỉ huy rõ ràng.
Sự nổi lên của “Liên minh tự nguyện” như một hình thức hợp tác quân sự đa quốc gia mới xác nhận sự suy giảm quyền lực của các liên minh. Sự kiện tai tiếng nhất về sự suy giảm này là nhóm liên minh tình thế các quốc gia đồng ý tham gia hoặc ủng hộ theo cách khác việc Mỹ đưa quân vào Iraq năm 2003. Nhưng nó mô tả một cách khéo léo chiến dịch ở Afghanistan cũng như những nỗ lực an ninh, gìn giữ hòa bình và nỗ lực nhân đạo, từ giảm nhẹ hậu quả động đất tới tuần tra tuyến đường biển ngoài khơi Somalia - nơi các quốc gia đã đưa lực lượng quân sự tới dù không có liên minh chính thức nào được kích hoạt và không có quyền lực áp đặt nào buộc họ phải tham gia. Vì “tự nguyện” tham gia trên một cơ sở tình huống nhất thời, sự ủng hộ của các quốc gia gắn với những diễn biến chính trị trong lòng quốc gia họ, sự sẵn lòng của họ trong việc tiếp tục chi trả chi phí tài chính, và những thỏa thuận bên lề họ có thể thương lượng để đổi lấy việc tham gia - trong trường hợp của một số nước tham gia vào chiến dịch ở Iraq chẳng hạn, bao gồm việc giảm bớt thủ tục thị thực cho công dân của họ vào Mỹ.
Trong số những liên minh mới nở rộ trên thế giới trong hệ thống nước Mỹ độc tôn, một số đơn giản chỉ là những diễn đàn hợp tác quân sự giữa các thành viên của một tổ chức khu vực, giống như EU. Liên minh châu Phi chẳng hạn, có lực lượng gìn giữ hòa bình riêng để can thiệp vào các cuộc xung đột khu vực. Một Hội đồng Quốc phòng Nam Mỹ đang xây dựng các mối quan hệ quân sự ở Mỹ Latin. Nhưng những tổ chức này chưa phải các liên minh truyền thống được xây dựng trên cơ sở hợp tác chặt chẽ, chia sẻ kế hoạch và công nghệ, cam kết phòng thủ chung. Một số người có thể trông chờ sự nổi lên của những liên minh mới xung quanh một cường quốc địch thủ của Mỹ, như Trung Quốc hay Nga, trong nỗ lực tái tạo lại mối kình địch thay cho Khối Hiệp ước Warsaw. Nhưng thay vì vậy, những nỗ lực tích cực nhất - dù nói chung là bất thành - là của Tổng thống Venezuela Hugo Chavez hòng thành lập một liên minh quân sự với Cuba, Bolivia và các nước khác có thiện cảm với họ, như một đối trọng khu vực của Mỹ. Những “Liên minh” có tính đại diện cao hơn ngày nay thực ra là giữa các nhà nước và những nhân tố phi nhà nước mà họ ủng hộ - lấy ví dụ, sự ủng hộ của Iran với các tổ chức khủng bố Hezbollah và Hamas, và vai trò trung gian được cho là thuộc về Venezuela giữa FARC của Colombia và những tổ chức như nhóm vũ trang ly khai xứ Basque ETA [23] .
Lĩnh vực quân sự mà trong đó một số cấu trúc thứ bậc truyền thống vẫn không thay đổi là buôn bán vũ khí - ít ra là với loại vũ khí thông thường. Những nhà cung cấp chủ yếu - Mỹ, Nga, Trung Quốc, Pháp, Đức, Ý - vẫn chiếm đa số áp đảo các hợp đồng vũ khí, ở một tốp trên đã được duy trì ổn định trong nhiều thập kỷ. Nhưng doanh số bán chính thức được chính phủ ủng hộ tài chính chỉ là một phần của ngành kinh doanh vũ khí toàn cầu thực thụ. Như báo cáo tháng 4 năm 2011 của Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc cho biết, “Trong những thập kỷ gần đây, buôn bán vũ khí đã chứng kiến sự chuyển đổi từ việc chủ yếu liên hệ trực tiếp giữa các quan chức chính phủ hay người đại diện tới việc sử dụng rộng khắp những người trung gian cá nhân - hoạt động trong một môi trường toàn cầu hóa đặc biệt - thường là từ vô số địa điểm” [24] . Phần này của hoạt động buôn bán vũ khí, không được quản lý và thường phi nhà nước, nằm ngoài sự kiểm soát và chỉ ra sự suy giảm khả năng kiểm soát của các bộ quốc phòng trong môi trường xung đột vũ trang - lại một dấu hiệu nữa của sự suy tàn quyền lực.
Sự Suy Giảm Của Ngoại Giao Kinh Tế
Cùng vói những liên minh quân sự, các cường quốc còn lôi kéo về mặt kinh tế như một cách truyền thống để khiến các nước khác ủng hộ lợi ích của mình. Phương pháp trực tiếp nhất là viện trợ song phương - tức là chuyển trực tiếp từ chính phủ này sang chính phủ khác - dưới hình thức các khoản vay, tài trợ hay các thỏa thuận thương mại và nguồn lực ưu đãi. Ngoại giao kinh tế cũng có thể dùng để trừng phạt, dưới hình thức các rào cản thương mại chống lại quốc gia mục tiêu, những vụ tẩy chay, cấm vận hay trừng phạt nhắm vào các định chế kinh tế.
Một lần nữa, các phương pháp đó vẫn được duy trì, nhưng tính hiệu quả như một phương tiện định hướng quyền lực của chúng đã suy giảm. Trước hết, nhờ vào sự hội nhập của nền kinh tế thế giới, sự phụ thuộc của bất kỳ một quốc gia nào vào những nguồn cung cấp, khách hàng, hay nguồn tài chính từ bất kỳ quốc gia nào khác đã được nới lỏng rất nhiều. Những rào cản thương mại bị dỡ bỏ và có nhiều hơn các thị trường vốn mở rộng từ lâu đã là mục tiêu của Mỹ và các nước giàu khác trong các cuộc đàm phán thương mại quốc tế. Chiến thắng của họ - cùng với sự khuếch trương rộng khắp của “đồng thuận Washington”* như một điều kiện để được vay tiền từ Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế và các định chế khác - đã gây ra hiệu ứng nghịch, làm yếu đi khả năng kiểm soát mà Mỹ và các cựu cường quốc thuộc địa khác như Anh và Pháp từng có với các nước trong phạm vi ảnh hưởng của họ.
Đồng thuận Washington (Washington Consensus): Chương trình cải cách kinh tế bao gồm 10 chính sách khác nhau được các tổ chức đóng trụ sở tại Washington (Mỹ) như IMF, Ngân hàng Thế giới, Bộ Tài chính Mỹ đề nghị áp dụng ở những nước trải qua khủng hoảng kinh tế.
Sự áp đặt lệnh cấm vận chống lại Iran trong nỗ lực buộc chương trình hạt nhân của nước này tuân thủ các chế độ quốc tế là một ngoại lệ chứng tỏ quy luật này. Liên Hiệp Quốc, Mỹ, Liên minh Châu Âu và một số nước khác đã áp đặt hàng loạt sự giới hạn thương mại với Iran, bao gồm cấm vận dầu mỏ, cấm giao dịch với ngân hàng trung ương nước này, hạn chế việc đi lại và du lịch. Nhưng Mỹ lại chấp nhận ngoại lệ cho một số đồng minh vốn phải phụ thuộc vào nguồn cung dầu từ Iran và đối mặt với tình thế lưỡng nan khó khăn khi áp đặt hình phạt với các nước bằng hữu như Hàn Quốc và Ấn Độ, hay với các đối thủ có khả năng trả đũa tương đối mạnh như Trung Quốc, vì họ không sẵn lòng ngưng mua dầu từ Iran.
Việc sử dụng có mục tiêu quyền lực nhà nước, thông qua việc phân bổ viện trợ cho những nước được ưu ái, cũng trở nên cực kỳ phân tán. Vào cuối Chiến tranh Thế giới Thứ hai, chỉ 5 hoặc 6 cơ quan viện trợ quốc gia tồn tại. Ngày nay đang có hơn 60 cơ quan. Trong những năm 1950, một tỉ lệ áp đảo 88% viện trợ được phân phát tới từ chỉ ba nước: Mỹ (58%), Pháp (22%) và Anh (8%). Lĩnh vực viện trợ song phương chứng kiến sự mở rộng lớn đầu tiên vào những năm 1960, khi Nhật Bản, Canada và một số nước châu Âu thiết lập những cơ quan viện trợ cho nước ngoài. Hà Lan và các nước Bắc Âu nhanh chóng trở thành những tay chơi lớn, đóng góp một phần lớn hơn tương ứng với thu nhập quốc gia của họ so với Mỹ, Anh hay Pháp. Trong những năm 1970, vận may bất ngờ từ ti?