CHƯƠNG TÁM LÀM ĂN KHÁC THƯỜNG
Trong nhiều thập kỷ, nhóm “Bảy Chị em” - những công ty khổng lồ, tích hợp theo chiều dọc như Exxon và Shell - đã thống trị ngành dầu mỏ, “Bộ Ngũ” cai trị ngành kế toán, “Bộ Ba” kiểm soát ngành sản xuất xe, cũng giống như ba mạng truyền hình và sau này, hai công ty máy tính trong công nghệ thông tin. Hình mẫu tương tự nổi lên ở nhiều ngành khác: một số ít công ty thống trị các thị trường tương ứng, họ lớn, giàu có, mang tính toàn cầu, hùng mạnh và được bảo vệ tới mức hạ bệ họ là điều không tưởng.
Không còn như thế nữa. Khắp các lĩnh vực của nền kinh tế toàn cầu, cấu trúc tĩnh tại này đã biến mất và sự cạnh tranh lên tốp đầu khốc liệt hơn bao giờ hết. Shell hay IBM hay Sony có thể vẫn ở gần đỉnh, nhưng họ cảm thấy quyền lực thị trường của mình giảm bớt và sự thống trị của họ suy yếu cùng lúc những đối thủ cạnh tranh mới thâu tóm các phần lớn trong thị trường truyền thống của họ. Hơn nữa, các tập đoàn từng là những tên tuổi lớn đã biến mất - không còn “những khoảnh khắc Kodak”, một thương hiệu lớn đã kết thúc năm 2012 trong đống tro tàn của lịch sử.
Danh sách các công ty giờ thường xuyên trên đỉnh bao gồm những cái tên mới, bao gồm nhiều công ty xuất thân từ những nơi vốn không nổi tiếng với việc sản sinh ra các doanh nghiệp đẳng cấp thế giới - Estonia (Skype), Ấn Độ (Mittal Steel), Brazil (Embraer) và Galicia ở Tây Ban Nha (Zara) nằm trong số đó. Và dù có phải là kẻ mới gia nhập hay không, những công ty trên đỉnh không còn được đảm bảo tại vị lại đó dài lâu như những kẻ dẫn đầu trong quá khứ.
Chúng ta không nói về việc một gã khổng lồ này thay thế một gã khác. Thường xuyên hơn, không gian từng bị kiểm soát bởi những công ty lãnh đạo cũ được lấp đầy bởi một loạt các tay chơi khác dựa vào những luật lệ mới, những nguồn quyền lực mới và những chiến thuật cạnh tranh mới. Chính bản chất của quyền lực mà các công ty cũ và ông chủ của chúng từng tận hưởng đã thay đổi.
Như thế nào? Ngành dầu mỏ là một ví dụ cực đoan, do đó có tính minh họa cao. “Bảy Chị em”, những công ty thống trị lĩnh vực này từ những năm 1940 tới 1970, không đơn giản bị thay thế bởi những công ty khác giống họ. Thật vậy, ngành dầu mỏ giờ phân mảng và ít tích hợp theo chiều dọc hơn. Việc tạo ra những thị trường tương lai mới và việc giao dịch nhiều dầu hơn ngay tại điểm khai thác đã thay đổi sâu sắc cách dầu mỏ được mua và bán. Ngành này đầy những “tay chơi độc lập” mới: những công ty nhỏ hơn cạnh tranh với, và trong một số trường hợp thậm chí vượt qua, những gã khổng lồ như ExxonMobil, Chevron và BP. Những tay chơi mới trong ngành dầu mỏ cũng bao gồm các công ty sở hữu nhà nước đã trở nên cạnh tranh hơn và quyết đoán hơn nhiều trong việc kiểm soát nguồn tài nguyên nhiên liệu của quốc gia. Các quỹ đầu tư mạo hiểm khổng lồ đang thể hiện ảnh hưởng chưa từng có tiền lệ lên quyền sở hữu, trách nhiệm giải trình và nguồn tài chính, giờ là một phần của bối cảnh ngành công nghiệp dầu mỏ và có thể hành xử như cổ đông tích cực của những công ty lớn hay như người cung cấp vốn cho những công ty nhỏ hơn. Trong quá khứ, chỉ “Bảy Chị em” được tiếp cận những nguồn tài chính khổng lồ cần thiết để tham gia vào thị trường dầu mỏ. Ngày nay, nhờ vào sự kết hợp của những tay chơi mới (các quỹ đầu tư mạo hiểm, các công ty tư nhân chưa niêm yết), các công cụ tài chính mới (tài chính phái sinh) và những sự sắp xếp mang tính thể chế mới (các thị trường chứng khoán mới), các công ty nhỏ có thể giành được nguồn vốn cần thiết để cạnh tranh trong những dự án một thời chỉ dành riêng cho những công ty dầu mỏ khổng lồ. Cuối cùng, tất cả các hãng tham gia vào ngành này phải chấp nhận sự giám sát và can thiệp chưa từng có tiền lệ từ các chính phủ, những hoạt động quyền cổ đông, các nhóm môi trường, các nhà đầu tư định chế, các công đoàn lao động và truyền thông - trong nhiều nhân tố khác.
Như Paolo Scaroni, Tổng giám đốc của hãng dầu khí Ý khổng lồ ENI, từng nói với tôi: “Khi tôi nhìn lại cách mà những nhà lãnh đạo các công ty dầu mỏ chính vào những năm 1960,1970 hay 1980 ra quyết định và điều hành doanh nghiệp của họ, tôi ngạc nhiên với sự tự do và tự trị mà họ được tận hưởng. Từ vị thế của tôi hiện giờ, rõ ràng là ngày nay tổng giám đốc bất cứ công ty dầu khí nào cũng có ít quyền lực hơn hẳn so với những người đi trước chúng tôi” [1] .
Điều tương tự đang xảy ra trong lĩnh vực ngân hàng. Một số ngân hàng lớn lâu đời đã biến mất hay bị thâu tóm như kết quả của cuộc hỗn loạn tài chính toàn cầu bùng nổ năm 2008, điều này tới lượt nó dẫn tới sự tập trung khác. Tới năm 2012, năm ngân hàng QPMorgan Chase & Co., Bank of America Corp., Citigroup Inc., Wells Fargo & Co., và Goldman Sachs Group Inc). nắm giữ tài sản bằng với một nửa nền kinh tế Mỹ. Điều gần như tương tự cũng xảy ra ở Anh, nơi trong hai thập kỷ qua, “Bộ Ngũ” - Barclays Plc, HSBC Holdings Plc, Lloyds Banking Group Plc, Royal Bank of Scotland Group Plc và Santander U.K. Plc (vốn là Abbey National Plc cho tới khi Banco Santander của Tây Ban Nha mua lại nó vào năm 2004) - thống trị lĩnh vực này [2] . Nhưng trong vài năm qua, những mối quan ngại của công chúng được tiếp nhiên liệu từ cuộc khủng hoảng tài chính và các vụ bê bối như việc thao túng tỉ lệ lãi suất của Barclays và sự đồng lõa trong những giao dịch chuyển tiền mờ ám (HSBC và Standard Chartered) đã gây ra một phản ứng ngược, mà tới lượt nó làm dấy lên làn sóng những luật lệ mới giới hạn quyền tự trị mà các ngân hàng này được tận hưởng theo truyền thống. Hơn nữa, những tay chơi mới như doanh nhân người Anh Richard Branson, người sở hữu công ty Virgin Money đã mua lại Northern Rock Plc và nhắm tới việc trở thành đại gia trong lĩnh vực hàng hóa tiêu dùng, là dấu hiệu của những áp lực cạnh tranh mới mà các tay chơi siêu hạng truyền thống trong ngành ngân hàng đang phải đối mặt. Như một nhà phân tích đã nói với tạp chí tài chính Bloomberg Markets năm 2012, “Đang có nhiều thay đổi mang tính cấu trúc diễn ra ở thị trường Anh hơn bất cứ thời điểm nào trong lịch sử gần đây” [3] .
Nhưng những kẻ thách thức lớn của các ngân hàng lớn đang thống trị là những quỹ đầu tư mạo hiểm và các tay chơi tài chính mới khác tiếp cận được các nguồn lực cũng sâu không kém các ngân hàng lớn, nhưng lại có thể chuyển dịch nhanh hơn với sự cơ động lớn hơn nhiều. Vào đầu năm 2011, khi nền kinh tế toàn cầu vẫn đang bấp bênh, đây là điều mà Financial Times viết về sức khỏe của các quỹ đầu tư mạo hiểm:
10 quỹ đầu tư mạo hiểm kiếm được 28 tỉ đô-la Mỹ cho các khách hàng trong nửa sau năm ngoái, 2 tỉ đô-la Mỹ nhiều hơn so với lợi nhuận thuần của Goldman Sachs, J. P. Morgan, Citigroup, Morgan Stanley, Barclays và HSBC cộng lại, theo thông tin mới. Ngay cả những quỹ đầu tư mạo hiểm lớn nhất cũng chỉ có vài trăm nhân viên, trong khi 6 ngân hàng sử dụng 1 triệu lao động tất cả. Theo dữ liệu này, 10 quỹ hàng đầu đã kiếm được tổng cộng 182 tỉ đô-la Mỹ cho các nhà đầu tư kể từ khi chúng được thành lập, với George Soros kiếm được 35 tỉ đô-la Mỹ cho các khách hàng - sau khi đã trừ đi tất cả các loại phí - kể từ khi ông thành lập Quỹ Quantum vào năm 1973. Nhưng John Paulson’s Paulson & Co đang tiến gần tới vị trí quỹ đầu tư mạo hiểm kiếm được nhiều tiền nhất cho khách hàng của Soros, sau khi có lợi nhuận thuần 5,8 tỉ đô-la Mỹ trong nửa sau của năm 2010 [4] .
Giống như những công ty cùng cảnh ngộ trong ngành dầu khí, những ngân hàng hàng đầu cũng ta thán về sự suy giảm tự do hành động của họ. Jamie Dimon, Tổng giám đốc JPMorgan Chase, đứng đầu một ngân hàng lớn hơn so với người tiền nhiệm của ông, William Harrison, nhưng như những lời than phiền liên tục của ông về quy định của chính phủ và những áp lực từ các nhà hoạt động cho thấy, ông cũng bị hạn chế hơn trong những việc ông có thể làm. Lập luận của ông rằng dư luận và nhà chức trách tốt hơn là hãy tin tưởng sự tự quản và cạnh tranh của các ngân hàng càng trở nên khó thuyết phục khi năm 2012, ông tiết lộ rằng ngân hàng của ông hứng chịu khoản thua lỗ ước tính 6 tỉ đô-la Mỹ đã bị một số đồng nghiệp của ông che giấu và không được các thành viên tín thác trong nhóm quản lý cấp cao để mắt tới [5] .
Ngành báo chí đưa ra một ví dụ đáng nói khác. Câu chuyện về vận rủi thông thường của ngành này là Craigslist và Google đã giành mất một nguồn thu trọng yếu (các mẩu rao vặt) từ những tờ báo truyền thống hàng đầu trong ngành. Nhưng những gì xảy ra với các tờ báo sâu sắc và mang tính tàn phá lớn hơn nhiều so với việc chuyển đổi đơn thuần trong thị phần quảng cáo rao vặt từ một nhóm công ty này sang một nhóm khác. Quyền lực mà những ông chủ và giám đốc của Craigslist có giờ đây rất khác với quyền lực một thời từng trong tay gia đình Graham, chủ nhân của Washington Post, hay gia đình Ochs-Sulzberger vốn kiểm soát tờ New York Times. Những cổ đông nắm quyền kiểm soát - như nhà Murdoch, Berlusconi hay nhiều gia đình nắm giữ truyền thông khác khắp thế giới – vẫn đầy ảnh hưởng, nhưng họ phải sử dụng ảnh hưởng đó, và chiến đấu để giữ được nó, khác hẳn những người tiền nhiệm.
Liệu điều đó có nghĩa là ExxonMobil sẽ bị thay thế bởi một công ty dầu khí độc lập, JPMorgan Chase bởi một quỹ đầu tư mạo hiểm, hay New York Times bởi The Huffington Post? Tất nhiên là không. Đó là những công ty lớn với nguồn lực ghê gớm và những lợi thế cạnh tranh khó mà bắt chước được đảm bảo sự thống trị của họ trong ngành. Mặt khác, điều tương tự cũng có thể nói trong những năm 1990 về hãng Kodak từng một thời thống trị nhưng nay đã phá sản, năm 2007 về công ty bảo hiểm lớn nhất thế giới AIG, mà mới một năm trước phải được cứu khỏi phá sản bởi một khoản cứu trợ 85 tỉ đô-la Mỹ chưa từng có tiền lệ của chính phủ? [6] Ai dám nói vào đầu năm 2012 rằng một trong những lãnh đạo ngân hàng hùng mạnh nhất thế giới, Bob Diamond của Barclay, sẽ mất việc chỉ trong vài ngày sau khi ngân hàng ông bị phát hiện liên quan tới việc thao túng tỉ lệ lãi suất? Những công ty lớn bị loại ra khỏi ngành và những nhà lãnh đạo doanh nghiệp lừng lẫy một thời bị đá ra đường, hay thậm chí là vào tù, không phải điều gì mới cả. Điều mới là, như được trình bày ở những trang trước, khả năng mà một công ty sụp đổ từ vị thế đẳng cấp dẫn đầu hiện tại của nó đã tăng lên, cũng như khả năng một công ty hay lãnh đạo doanh nghiệp sẽ hứng chịu một “sự cố danh tiếng” có sức hủy hoại lớn.
Hơn thế, hiệu ứng mở rộng hơn và gây nhiều hậu quả hơn của sự suy tàn quyền lực trong thế giới kinh doanh không chỉ ở chỗ các công ty lớn giờ dễ biến mất hơn, mà còn ở chỗ họ đối mặt với một mạng lưới những sự ràng buộc dày đặc và giới hạn khả năng hành động của họ hơn.
Những ngành kinh doanh đã trải qua cuộc cách mạng cấu trúc giờ gia tăng về số lượng lẫn độ đa dạng: từ du lịch tới sản xuất thép và từ bán sách tới chế tạo máy bay phản lực chở khách. Thật ra, thách thức là tìm ra một ngành mà ở đó điều này không xảy ra và ở đó quyền lực của những tay chơi hàng đầu không bị kiềm chế nhiều hơn và tất nhiên, suy tàn nhiều hơn.
TRONG VÙNG ĐẤT CỦA NHỮNG ÔNG CHỦ, QUYỀN HÀNH VÀ CHẾ ĐỘ THỨ BẬCAi chịu trách nhiệm ở đây? Trong thế giới kinh doanh, câu hỏi này kêu gọi một câu trả lời rõ ràng. Trong quân đội, hệ thống thứ bậc tới một cách tự nhiên. Và điều tương tự đúng trong các tập đoàn, chúng không phải là những thể chế dân chủ. Trong một môi trường nơi những quyết định về nguồn lực, giá cả, kết quả kinh doanh và nhân sự được đưa ra mỗi phút và được thể hiện trong bảng kết quả kinh doanh cuối cùng, đó cần là nơi mà trách nhiệm giải trình, việc tranh công đổ lỗi bị đẩy xuống thứ chót. Chức danh tổng giám đốc điều hành là hiện thân của mệnh lệnh, kỷ luật và sự lãnh đạo. Nó tới cùng với những biểu tượng và đặc quyền nhờ vị thế truyền thống của quyền hành tập đoàn: văn phòng ở góc đường, máy bay của tập đoàn, tư cách thành viên trong những câu lạc bộ hào nhoáng. Và tất nhiên, lương bổng. Từ cuối Chiến tranh Thế giới Thứ hai tới giữa những năm 1970, giá trị trung bình của tiền lương cho vị trí giám đốc gần như không thay đổi [7] . Nhưng từ 1980 tới 1996, giá trị thật của lương bổng cho các tổng giám đốc các công ty S&P 500 đã tăng hơn 5% mỗi năm. Nhìn chung, mức lương của tổng giám đốc sau năm 1998 gần gấp đôi so với những gì họ nhận được vào đầu thập kỷ. Ở nhiều mức độ khác nhau, lương của các giám đốc ở phần còn lại của thế giới cũng theo khuynh hướng đó.
Thật hay nếu bạn có thể nhận mức lương như thế. Nhưng dưới bề mặt của đặc quyền rất lớn này ẩn giấu một thực tế khác. Quyền lực trong lĩnh vực doanh nghiệp đang suy thoái - và khó nắm giữ hơn khi bạn có.
Đó không hề là chuyện giai thoại: bằng chứng thống kê rõ ràng cho thấy rằng nhiệm kỳ của các tổng giám đốc đã trở nên mỏng manh. Ở Mỹ, vẫn là nước có nhiều các công ty lớn nhất thế giới, việc thay thế tổng giám đốc diễn ra nhanh hơn vào những năm 1990 so với trong hai thập kỷ trước. Và từ đó tới nay khuynh hướng này ngày càng sâu sắc. Tổng giám đốc một công ty Fortune 500 năm 1992 có 36% cơ hội giữ được cương vị từ năm năm trở lên. Nhưng một tổng giám đốc tại vị vào năm 1998 chỉ có 25% cơ hội giữ được ghế sau năm năm. Theo nhà tư vấn quản lý John Challenger, nhiệm kỳ trung bình của tổng giám đốc đã giảm một nửa từ khoảng mười năm vào những năm 1990 xuống còn khoảng 5,5 năm những năm gần đây - một khuynh hướng được xác nhận bởi một số nghiên cứu. Một nghiên cứu khác thấy rằng gần 80% các tổng giám đốc những công ty S&P 500 đã bị cho thôi việc trước thời điểm về hưu [8] . Tỉ lệ cả những vụ thay thế trong nội bộ (do các hội đồng quản trị ép buộc) và từ bên ngoài (do sáp nhập và phá sản) tăng từ những năm 1990 tới đầu những năm 2000. Năm 2009, một nghiên cứu khác thấy rằng 15% các vị trí tổng giám đốc ở Mỹ bị thay thế mỗi năm [9] . Dữ liệu thay đổi tùy thuộc vào mẫu các công ty, nhưng khuynh hướng cốt lõi là rõ ràng: mọi thứ đã trở nên dễ tuột khỏi tay hơn nhiều khi ở “vị trí tối thượng” của các doanh nghiệp.
Và khuynh hướng này là toàn cầu, không chỉ ở Mỹ, công ty tư vấn Booz & Company theo dõi sự thay đổi tổng giám đốc ở 2.500 công ty lớn nhất được niêm yết trên các thị trường chứng khoán toàn cầu. Chỉ trong năm 2011, 14,4% các tổng giám đốc hàng đầu thế giới rời cương vị của họ và tỉ lệ thay thế cao hơn ở 250 công ty lớn nhất, như nó đã từng vào năm 2005. Khuynh hướng này cũng diễn ra trong 12 năm qua. Trung bình, hơn 14% các tổng giám đốc của 250 công ty hàng đầu xét theo giá trị vốn hóa thị trường đã bị thay thế, so với 12% các công ty xếp từ hạng 251 tới 2.500. Con số này bao gồm cả những vụ nghỉ việc vì về hưu theo kế hoạch, bệnh tật và tương tự, nhưng nghiên cứu thấy rằng những vụ thay thế bắt buộc - các tổng giám đốc bị đá ra khỏi cửa - đã tăng lên cả ở Mỹ và châu Âu. Phần còn lại của thế giới, nơi kinh doanh đang tăng trưởng nhanh nhất, cũng đang bắt kịp phương Tây trong lĩnh vực này. Ở Nhật Bản, văn hóa doanh nghiệp truyền thống khiến cho việc đuổi một lãnh đạo cấp cao gần như là điều cấm kỵ, nhưng những vụ thay thế bắt buộc đã tăng gấp bốn lần ở đó trong năm 2008 và tiếp tục cao hơn so với khuynh hướng truyền thống. Booz & Company cũng thấy rằng các tổng giám đốc trên toàn thế giới ít có khả năng hơn nhiều để trở thành Chủ tịch hội đồng quản trị so với trước kia - một phép đo khác về những hạn chế gia tăng với quyền lực điều hành doanh nghiệp [10] .
Điều đúng với các ông chủ cũng đúng với các doanh nghiệp. Thời kỳ ngự trị trên đỉnh cao trong ngành của mình của các công ty đã bị rút ngắn một cách đáng kể. Cả điều này cũng không hề là một khuynh hướng nhất thời trong vài năm qua, dù khủng hoảng kinh tế chắc chắn khiến nó được nhắc tới nhiều hơn. Thay vì thế, điều chúng ta đang thấy là một hiện tượng mang tính chuyển đổi sâu sắc.
Một lần nữa, bằng chứng thống kê mang tính kết luận cao: trong khi năm 1980, một công ty ở tốp năm trong ngành của nó chỉ có 10% rủi ro rơi ra khỏi đó sau năm năm, thì năm 1998, rủi ro đó đã tăng lên thành 25% [11] . Trong số 100 công ty hàng đầu thuộc danh sách Fortune 500 năm 2010, 66 công ty là những kẻ sống sót từ danh sách năm 2000, 36 công ty còn lại chưa hề tồn tại vào năm 2000. Trên cơ sở phân tích thống kê chi tiết, Diego Comin của Đại học Harvard và Thomas Philippon ở Đại học New York thấy rằng trong 30 năm qua “khoảng thời gian dẫn đầu kỳ vọng của một công ty cụ thể đã giảm mạnh mẽ”. Cả điều này cũng là một khuynh hướng toàn cầu. Và nó trùng hợp với sự gia tăng về quy mô địa lý của sự cạnh tranh. Danh sách Forbes 2012 xếp hạng 2.500 công ty lớn nhất thế giới thấy rằng 524 có trụ sở ở Mỹ - ít hơn 200 so với năm năm trước và ít hơn 14 so với một năm trước. Ngày càng nhiều các công ty lớn nhất thế giới có tổng hành dinh ở Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Mexico, Brazil, Thái Lan, Philippines và các nước vùng Vịnh. Trung Quốc đại lục đang thu hẹp khoảng cách giữa họ với Mỹ và Nhật Bản, hai nước với số công ty toàn cầu nhiều nhất thế giới, và hiện là nước lớn thứ ba về số đại diện, với nhiều hơn 15 công ty so với năm 2011. Những đại diện mới như Ecopetrol của Colombia và China Pacitic Insurance của Trung Quốc đang tiến tới, trong khi những công ty như Lehman Brothers và Kodak (đều đã phá sản), Wachovia (bị Wells Fargo thâu tóm), Merrill Lynch (giờ thuộc sở hữu của Bank of America), và Anheuser-Busch (bị thâu tóm bởi một tập đoàn đặt trụ sở ở Bỉ với gốc rễ là một công ty bia cấp tỉnh từng là vô danh ở Brazil) đều đã bị loại khỏi danh sách [12] .
TOÀN CẦU HÓA ĐÃ LÀM GÌ VỚI SỰ TẬP TRUNG TRONG KINH DOANH?Sự biến mất của những công ty nổi tiếng và những thương hiệu một thời lừng lẫy không có nghĩa là trong nhiều lĩnh vực kinh doanh, sự tập trung không còn cao nữa và trong một số trường hợp, sự tập trung thậm chí còn cao hơn bao giờ hết so với trước kia. Chẳng hạn ngành thức ăn cho vật nuôi năm 2007 ở Mỹ cho thấy chỉ một nhà sản xuất duy nhất thực sự làm ra hơn 150 sản phẩm với nhiều nhãn hàng khác nhau. Có hai công ty kiểm soát 80% thị trường bia Mỹ, hai công ty chiếm 70% thị trường thuốc đánh răng Mỹ, và vân vân. Trong một ví dụ được dẫn ra bởi học giả Barry Lynn, một công ty Ý, Luxottica, kiểm soát không chỉ một số chuỗi bán lẻ mắt kính lớn ở Mỹ mà còn vô số dòng mắt kính hàng hiệu mà những chuỗi này bán [13] . Leonardo del Vecchio, cổ đông đa số của Luxottica, là một trong những người giàu nhất thế giới, xếp hạng 74 trong danh sách các tỉ phú thế giới của Forbes.
Trên toàn cầu, mức độ tập trung của các ngành kinh doanh biến thiên lớn tùy theo lĩnh vực. Ngành công nghiệp kim cương vẫn bị giữ chặt bởi một tay chơi áp đảo, De Beers, có khả năng ấn định giá và kiểm soát dòng chảy kim cương thô tới các doanh nghiệp cắt và hoàn thiện chúng. Thị phần 60% kim cương thô trên toàn thế giới của De Beers giúp hãng có khả năng tác động lớn lên giá cả. Trong ngành chip máy tính, một nhà sản xuất, Intel, kiểm soát 80% thị trường bộ xử lý CPU. Các ngành khác, trong đó sự tập trung đủ cao để gây ra sự chú ý của các cơ quan chống độc quyền Mỹ hay châu Âu, là ngành hạt giống nông nghiệp (nơi Monsanto và DuPont thống trị), mạng thanh toán (Visa và MasterCard) và tất nhiên là tìm kiếm trên Internet (nơi Google chiếm 63% hoạt động tìm kiếm ở Mỹ - và 90% tăng trưởng trong tìm kiếm).
Nhưng các ngành khác đã trở nên ít tập trung hơn bất chấp nhiều năm hoạt động thâu tóm có vẻ rất quyết liệt. Thật vậy, như giáo sư và học giả về kinh doanh Pankaj Ghemawat lập luận trong World 3.0 (tạm dịch: Thế Giới 3.0), “Trong phần lớn các trường hợp, sự toàn cầu hóa có vẻ thúc đẩy cạnh tranh hơn, chứ không phải tập trung hơn” [14] . Một ví dụ rõ ràng là ngành sản xuất xe hơi. Dữ liệu ngành này cho thấy 5 hãng sản xuất xe hơi hàng đầu thế giới chiếm 54% sản lượng vào năm 1998, và chỉ 48% - một sự suy giảm nhỏ nhưng quan trọng - trong năm 2008. Mở rộng nghiên cứu này với 10 nhà sản xuất hàng đầu vẫn cho thấy sự giảm tập trung. Khuynh hướng này là dài hạn. Trong những năm 1960, 10 nhà sản xuất hàng đầu chiếm 85% sản lượng xe hơi trên thế giới, phần chia đó giờ giảm xuống khoảng 70%. Một phần, sự phân mảng gia tăng của thị trường này phản ánh sự nổi lên hay lan rộng ra toàn cầu của những tay chơi mới từ các nước như Hàn Quốc, Ấn Độ, Trung Quốc và những nơi khác [15] . Năm 2011 chẳng hạn, Hyundai không chỉ là nhà sản xuất xe hơi lớn thứ năm thế giới, mà còn là hãng có lợi nhuận tốt nhất [16] . Nhìn vào sự tập trung trong tốp năm công ty ở 11 ngành kinh doanh từ những năm 1980 tới những năm 2000, Ghemawat thấy rằng trung bình tỉ lệ tập trung trung bình của 5 công ty đã giảm từ 38% xuống còn 35%; sự sụt giảm đó thậm chí còn đáng kể hơn nếu chúng ta đưa con số về lại những năm 1950 [17] .
QUYỀN LỰC VÀ MỐI NGUY VỚI CÁC THƯƠNG HIỆUNhiều tên tuổi tập đoàn lừng lẫy lâu nay đã đột ngột biến mất. Những tên tuổi một thời uy tín trong lĩnh vực bán lẻ, ngân hàng, hàng không, thậm chí là công nghệ - còn nhớ Compaq? - đang mờ dần trong trí nhớ. Mặt khác, một số những thương hiệu lan khắp toàn cầu chưa hề tồn tại vào vài năm trước, như Twitter, được thành lập năm 2006. Là người tiêu dùng, chúng ta ngày càng quen với những xu hướng như thế. Thật vậy, người tiêu dùng đang đóng vai trò các tác nhân vô thức của một số trong những sự thay đổi này, vốn được thúc đẩy một phần bởi sự gia tăng về tỉ lệ và ảnh hưởng của thảm họa thương hiệu - những sự cố làm rung chuyển danh tiếng của một công ty và những sản phẩm của nó tới gốc rễ, khiến giá cổ phiếu rớt sâu và khách hàng bỏ đi hàng loạt. Một nghiên cứu tiến hành năm 2010 thấy rằng trong khi hai thập kỷ trước, các công ty đối mặt với trung bình là 20% khả năng gặp phải một “thảm họa doanh nghiệp” với danh tiếng của họ trong giai đoạn năm năm, thì khả năng đó giờ tăng lên thành 82% [18] . Phải chăng là vì những vụ tràn dầu, hỏng phanh (thắng) xe và những tuyên bố vụng về ngày nay phổ biến gấp bốn lần so với hai mươi năm trước? Không phải thế, mà chỉ là sự lan truyền và tầm với của chúng nhanh hơn và rộng hơn nhiều, và tiếng vọng lớn hơn của chúng thường báo trước những hậu quả tồi tệ.
Trong bối cảnh này, không có gì ngạc nhiên khi dấu hiệu mang tính nội tại rõ ràng nhất của quyền lực kinh tế - tài sản cá nhân - cũng bị ảnh hưởng bởi những thay đổi nhanh chóng (Từ năm 2012, Bloomberg News đã cung cấp một bảng xếp hạng thường nhật 20 tỉ phú đứng đầu thế giới, được cập nhật mỗi ngày vào lúc 5 rưỡi chiều. Theo giờ New York). Số lượng tỉ phú trên thế giói đã tăng trong những năm gần đây, đạt tới kỷ lục 1.226 người vào năm 2012 [19] . Một tỉ lệ người Nga, châu Á, Trung Đông và Mỹ Latin ngày càng gia tăng. Thật thú vị, tỉ phú gia tăng của cải nhiều nhất giai đoạn 2007 tới 2008, nhà tài phiệt Ấn Độ Anil Ambani, cũng là một trong những người mất nhiều của cải nhất vào năm sau đó (dù vậy ông vẫn xếp hạng 118 vào năm 2012) [20] . Theo một nghiên cứu năm 2012 của công ty thông tin về tài sản Wealth-X, từ giữa năm 2011 tới giữa năm 2012, các tỉ phú Trung Quốc mất gần 1/3 tài sản tổng cộng của họ [21] .
Không ai nhỏ giọt nước mắt nào cho sự nghèo đi của những người siêu giàu. Nhưng sự đảo lộn trong bảng xếp hạng giàu có của thế giới vẽ ra một bức tranh bất an ở trên đỉnh của thế giới kinh doanh - dù là những ông chủ, tập đoàn hay thương hiệu - ngày càng lớn hơn trong tương quan với bất cứ thời điểm nào gần đây trong lịch sử, trong một sân khấu kinh doanh ngày càng toàn cầu và đa dạng hơn so với bất cứ khi nào trong quá khứ.
Sự hỗn loạn trên đỉnh phản bác lại ý tưởng phổ biến lâu nay rằng chúng ta hiện sống trong một thời đại với quyền lực chưa từng có cho các doanh nghiệp. Sự bùng nổ của những năm 1990 chắc chắn đã mang tới hào quang và uy tín mới cho nhiều sự nghiệp doanh nhân, sự nổi lên của nền kinh tế công nghệ cao tạo ra một thế hệ mới những người hùng kinh doanh như các nhà lãnh đạo Apple, Oracle, Cisco, Google và các công ty tương tự, cũng như những tay chơi ngôi sao trong ngành chứng khoán và ngân hàng thế giới. Ở châu Âu, những cải cách luật lệ, sự tư nhân hóa và việc tạo ra một thị trường duy nhất đã cho ra đời những biểu tượng kinh doanh mới. Những tỉ phú mới nổi ở Nga, những nước Thế giới Thứ ba cũ, một thời từng lạc lối vì sự kiểm soát của nhà nước và nghèo đói, giờ đã sản sinh ra những đế chế kinh doanh, thương hiệu và nhà tài phiệt phát triển mạnh. Những chỉ trích từ cánh tả nâng cao cảnh báo về sự thống trị mới của chủ nghĩa tư bản. Những người ủng hộ thì ca ngợi nó. Nhưng không ai cho rằng nó không tồn tại.
Suy thoái kinh tế và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu chỉ làm rõ được chút ít bức tranh về quyền lực doanh nghiệp của chúng ta. Mặt khác, sự cần thiết của chính phủ trong việc can thiệp vào hành vi thiếu kiểm soát của doanh nghiệp một lần nữa trở nên rõ ràng. Nhưng tương tự như thế là ý tưởng rằng một số doanh nghiệp - ngân hàng, bảo hiểm, xe hơi - “quá lớn để cho phá sản”, chúng không thể được phép rời khỏi ngành mà không gây ra những hậu quả tai hại tồi tệ ở quy mô khu vực, quốc gia hay thậm chí là toàn cầu. Một số doanh nghiệp, như General Motors và Chrysler, được cứu nhờ sự can thiệp của chính phủ. Những doanh nghiệp khác, như Lehman Brothers, được phép phá sản. Các ngân hàng bị coi là quá rủi ro bị bán cho những ngân hàng lớn hơn, tạo ra những con quái vật còn kềnh càng hơn nữa, làm dấy lên những chỉ trích từ những người thấy quyền lực đang tập trung trong tay một nhóm quá nhỏ giới tinh hoa tài chính chặt chẽ và không thể đụng tới. Chắc chắn, những doanh nghiệp khổng lồ tồn tại ngày nay trên quy mô khó thể tưởng tượng so với một vài thập kỷ trước. Một số ngành đã tập trung rất nhiều. Và chắc chắn, những quy định về chống độc quyền cùng các quy định khác, dù là ở Bắc Mỹ, châu Âu hay những nơi khác, đã tụt hậu so với một số công cụ và kỹ thuật mà các doanh nghiệp - đặc biệt là trong ngành tài chính - sử dụng hàng ngày.
Vậy thì thực tế của chúng ta là thế nào? Quyền lực không kiểm soát của doanh nghiệp đang áp đặt chi phí và trách nhiệm lên các chính phủ và người đóng thuế, trong khi bảo đảm mức lương cao và lợi nhuận cho các giám đốc - hay những lãnh đạo kinh doanh luôn ở trạng thái bất an, liên tục đứng truớc rủi ro bị bóp nghẹt bởi những tay chơi và công nghệ mới, gục ngã bởi những thảm họa về uy tín, bị soi mói bỏi các nhà phân tích thị trường, rốt cuộc thì bị loại ra bởi những cổ đông nổi loạn và những hội đồng quản trị không còn kiên nhẫn? Nói cách khác, điều gì đang xảy ra với quyền lực do các doanh nghiệp lớn và những giám đốc hàng đầu của chúng nắm giữ?
QUYỀN LỰC THỊ TRƯỜNG: THUỐC GIẢI ĐỘC CHO SỰ BẤT AN TRONG KINH DOANHĐể hiểu được những lực lượng cơ bản làm chuyển đổi quyền lực tập đoàn trong thế kỷ XXI, chúng ta cần khám phá một khái niệm đã được giới thiệu trong Chương 2: quyền lực thị trường.
Lý thuyết kinh tế thuần túy giả định rằng sự cạnh tranh khốc liệt, đồng nghĩa với sự đảo lộn liên tục, là tình trạng thông thường của chủ nghĩa tư bản cũng như việc sự cạnh tranh tiêu diệt một số công ty và tưởng thưởng cho những công ty khác. Tình trạng lý tưởng được biết tới là “sự cạnh tranh hoàn hảo” không có chỗ cho những doanh nghiệp độc quyền, các các-ten hay một số nhỏ những công ty chiếm ưu thế, chứ đừng nói đến thống trị áp đảo trong nhiều năm.
Thực tế rõ ràng là khác: một số công ty được duy trì bền vững trong khi những công ty khác phá sản; các nhà đầu tư và giám đốc huyền thoại ngự trị hàng thập kỷ trong khi những người khác biến mất cũng nhanh như họ xuất hiện; một số thương hiệu có vẻ chỉ là những cổ vật chóng phai tàn theo xu hướng thời trang, trong khi những thương hiệu khác tồn tại qua nhiều biến đổi về công nghệ, sự mở rộng và suy giảm của thị trường và những thay đổi trong quản lý. Một số công ty lớn khiến những công ty khác không thể cạnh tranh trong thị trường của họ, những nhóm nhỏ các công ty trong cùng ngành thông đồng với nhau để thu được lợi nhuận nhiều nhất trong khoảng thời gian dài nhất có thể. Đồng thời, chính bản chất của một số lĩnh vực, nơi các rào cản tham gia thấp, là tiêu chuẩn tạo điều kiện cho sự tham gia của những đối thủ cạnh tranh mới (nhà hàng, dệt may). Trong những lĩnh vực khác, rào cản lại quá cao, tới mức rất khó cho những công ty mới thách thức những kẻ đang nắm quyền (nhà máy thép, viễn thông).
Nói cách khác, kinh doanh tư bản chủ nghĩa bao gồm một sự đa dạng rộng khắp các hình mẫu và kỳ vọng tự đưa ra tuyên ngôn của chúng trong thứ ngôn ngữ biểu tượng của xã hội đầu tư và tiêu dùng thuộc về chúng ta. Chúng tạo ra những đối thủ cạnh tranh nhau lâu dài (Boeing đối đầu với Airbus, Coke với Pepsi, Hertz vói Avis), chúng biến các thương hiệu thành những danh từ chung trong tiếng bản xứ (Xerox, Hoover, Kleenex), chúng đầu tư vào một số thương hiệu (Rolex, IBM) bằng uy tín và vào những thương hiệu khác (Timex, Dell) bằng sự tiện dụng. Khi chúng hủy diệt, chúng làm điều đó một cách tàn nhẫn. Dù đó là Pan Am, Woolworths, Kodak hay Wang - kết thúc của một doanh nghiệp, dù là bị giải tán hay bị nuốt chửng bởi một doanh nghiệp khác, luôn là sự hành vi tiêu diệt.
Điều tạo năng lượng cho sự thay đổi liên tục các biểu tượng, sản phẩm, con người và tên tuổi nói chung là một phần trong hành động hàng ngày của người bán và người mua trên thị trường - cũng như việc chấp nhận rủi ro, tai nạn, sai lầm, sự tình cờ. Nhưng đó cũng là quyền lực. Và đây chính là nơi quyền lực thị trường xuất hiện: đó là quyền lực trú ngụ trong việc có thể định giá cho các sản phẩm và dịch vụ trên mức chi phí cận biên, do đó tạo ra và duy trì phần lợi nhuận tăng thêm, mà không phải hy sinh thị phần. Công ty sở hữu càng nhiều quyền lực thị trường, nó càng có nhiều quyền tự trị trong việc định giá cả của mình mà không phải lo lắng về các đối thủ. Quyền lực thị trường càng lớn trong một lĩnh vực hay thị trường cụ thể, những cấu trúc của ngành càng được bảo vệ và những bảng xếp hạng của nó càng tĩnh tại.
Trong đời sống thực, các sản phẩm không phải là không thể thay thế cho nhau, và ngay cả khi chúng có thể thay thế, chúng vẫn được phân biệt bởi các thương hiệu và được quảng bá bởi quảng cáo. Trong đời sống thực, những công ty không được tiếp cận với cùng một thông tin. Họ không tận hưởng cùng một luật lệ và quy định với việc điều hành hoạt động của họ hay giải quyết tranh chấp, cùng một sự ủng hộ ngấm ngầm hay công khai từ các chính phủ, hay cùng một sự tiếp cận giống nhau với những nguồn tài nguyên quý hiếm. Những hạn chế để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ở Thụy Sĩ có sức nặng khá khác so với ở Trung Quốc. Một công ty Mỹ với bộ phận “quan hệ chính phủ” lớn tập trung vào việc vận động hành lang các chính trị gia ở Washington, một doanh nghiệp Nga được thành lập bởi một nhà giàu mới* với những mối quan hệ bằng hữu cá nhân ở Kremlin, một công ty Ấn Độ tìm đường qua mớ bòng bong những đòi hỏi giấy phép và quan liêu đã kéo dài hàng thập kỷ phải đối mặt với những môi trường luật lệ khác nhau sâu sắc, chứ đừng nói một công ty khởi nghiệp đang tìm cách bước vào ngành lần đầu. Những công ty cũng khác nhau khi nói về những nguồn nội lực mà họ phải huấn luyện nhân sự và phát triển các sản phẩm mới. Tất cả những sự khác biệt trong quy mô kinh doanh, nguồn lực và môi trường hoạt động này ảnh hưởng tới chi phí kinh dọanh, những quyết định mở rộng và việc lựa chọn liệu có thực hiện một hoạt động bên trong công ty hay giao nó ra ngoài cho một nhà cung cấp hay nhà thầu. Nói ngắn gọn, chúng tạo ra cấu trúc của các ngành kinh doanh.
Nhà giàu mới: Cụm từ chỉ những doanh nhân giàu có thuộc các nước cộng hòa Liên Xô cũ, những người đã nhanh chóng tích lũy thêm của cải trong thời kì tư nhân hóa của Nga sau sự tan rã của Liên Xô những năm 1990.
Cả một lĩnh vực kinh tế học mới - tổ chức kinh doanh - đã nổi lên gần một thế kỷ trước để tìm hiểu cấu trúc các ngành kinh doanh và giải thích điều gì khiến nó thay đổi, hay không thay đổi. Như đã thảo luận trong Chương 3, lĩnh vực này thu hút trí tuệ sáng láng của Ronald Coase, kinh tế gia người Anh cũng là người đầu tiên đưa ra khái niệm về chi phí giao dịch vào năm 1937, giúp giải thích tại sao các công ty và các ngành kinh doanh lại có những cấu trúc cụ thể [22] .
Đơn lẻ hoặc cùng nhau, các công ty thông trị một ngành hay thị trường cụ thể giành rất nhiều năng lượng của họ để giữ mọi thứ y nguyên như thế. Với một công ty, mục tiêu là đưa ra một đề nghị bán hàng độc nhất vô nhị và hấp dẫn - một đề nghị khiến cho bất cứ công ty nào khác cũng khó mà bắt chước hay lặp lại. Nó có thể bảo vệ vị thế đó bằng những phương tiện loại trừ và bằng những phương tiện thông đồng. Sự loại trừ có thể liên quan tới việc loại các đối thủ ra khỏi ngành bằng cách bán phá giá, vượt lên trước họ bằng chất lượng hay sự sáng tạo sản phẩm, hoặc quảng cáo tràn ngập thị trường. Sự thông đồng có thể dưới hình thức lập nên những rào cản khiến cho một đối thủ cạnh tranh mới khó hoặc không thể gia nhập ngành - cụ thể, khi các công ty thống trị một không gian phối hợp với nhau một cách ngấm ngầm (hay công khai) để định giá và chiến lược bán hàng hay các tiêu chuẩn công nghệ, hoặc sử dụng các chiến dịch quan hệ công chúng và những hiệp hội ngành nghề để lập luận tạo nên các luật lệ bảo vệ cho họ. Bất cứ điều gì những kẻ đang nắm quyền lực làm để loại trừ và thông đồng cũng hạn chế khung trời của những kẻ cạnh tranh mới, do đó tạo ra những rào cản gia nhập ngành có thể không thể vượt qua được.
Điều này giải thích tại sao các nhà kinh tế muốn xác định quyền lực thị trường thường bỏ qua các con số để nghiên cứu câu hỏi định tính hơn về việc những rào cản gia nhập vào một lĩnh vực cụ thể khó khăn ra sao. Cũng có những phương pháp định lượng quyền lực thị trường nhưng chúng khó sử dụng.
Hữu ích hơn là những phương pháp đo đạc mà các nhà kinh tế sử dụng để xác định quyền lực thị trường trong một ngành cụ thể thay vì ở mức độ một công ty đơn lẻ. Sẵn có hàng loạt các phương pháp đo đạc như thế. Một cách đơn giản là chỉ số tập trung của các công ty hàng đầu, cộng gộp tổng thị phần của những công ty dẫn đầu (lấy ví dụ, tốp bốn, năm hay mười về doanh số hay tài sản) trong một ngành hay nền kinh tế nhất định [23] .
Nhưng quyền lực thị trường không chỉ là sự tập trung. Ở một số nền kinh tế hay các ngành bị quản lý nhiều bởi luật lệ, các công ty tương đối nhỏ có thể hưởng lợi từ quyền lực thị trường đơn giản bằng cách ở bên trong hàng rào bảo vệ từ chính phủ hay sự ưu ái chính trị. Lấy ví dụ, hãy nghĩ tới một công ty taxi độc quyền đưa đón khách ở một sân bay cụ thể. Giống như thế, sự hiện diện đơn giản của tập trung trong ngành không nhất thiết có nghĩa là các công ty đang hoạt động như một độc quyền tập đoàn*, sử dụng sự thông đồng công khai hay ngấm ngầm của họ để giữ cho giá cao trong khi sự cạnh tranh giữa họ có thể vẫn căng thẳng và tàn khốc. Những yếu tố khác đóng góp vào quyền lực thị trường, như khả năng vận động hành lang cho sự đối xử hay luật lệ ưu ái, không có nguồn gốc trực tiếp từ sự tập trung của ngành. Một hiệp hội ngành nghề đại diện cho một ngành phân tán (chẳng hạn hiệp hội các kế toán hay nha sĩ) có thể đạt được kết quả vận động hành lang thành công cũng như những hiệp hội hành động đại diện cho các ngành có độ tập trung cao (chẳng hạn như xi-măng hay điện thoại).
Độc quyền tập đoàn (Oligopoly): cấu trúc thị trường mà một số doanh nghiệp chi phối cả thị trường về hàng hóa và dịch vụ, đặt ra những rào cản thâm nhập đáng kể đối với các công ty khác. Các doanh nghiệp này phụ thuộc lẫn nhau và mỗi doanh nghiệp đều phải cân nhắc phản ứng có thể xảy ra của các đối thủ về những quyết định giá cả, xúc tiến bán hàng và phát triển sản phẩm của mình.
Để hiểu được cách hoạt động của quyền lực thị trường, một phương pháp đo đạc định lượng duy nhất là không đủ. Thay vì thế, mức độ của quyền lực thị trường, và cùng với nó, sự ổn định của cấu trúc một ngành và lợi thế của sự che chở mà những công ty thống trị trong ngành tận hưởng được đo đạc tốt nhất thông qua sự hiện diện và tính hiệu quả của những rào cản gia nhập. Và khi chúng ta làm điều đó, một khuynh hướng rộng khắp nhanh chóng trở nên rõ ràng: khắp các hội đồng quản trị, những rào cản truyền thống để gia nhập vốn định hình cấu trúc của ngành trong phần lớn thế kỷ XX đã trở nên mong manh hay sụp đổ hoàn toàn.
Những nguyên lý của tổ chức doanh nghiệp đã bị đảo lộn. Kết quả là quyền lực thị trường không còn là điều nó đã từng. Liều thuốc giải độc cho sự bất an và bất ổn trong kinh doanh đang mất đi tính hiệu quả của nó. Và lợi thế từ lâu được coi là xây dựng dựa trên quy mô, tầm mức và hệ thống thứ bậc của doanh nghiệp đã xói mòn, thậm chí biến thành một sự bất lợi.
RÀO CẢN HẠ XUỐNG, CẠNH TRANH TĂNG LÊNNhững rào cản kinh điển để gia nhập các ngành kinh doanh được biết tới rộng rãi. Lấy ví dụ, kích cỡ ngăn cản những công ty nhỏ hơn vượt qua những công ty lớn hơn. Và tính kinh tế theo quy mô * giúp việc sản xuất hàng loạt rẻ hơn, chứng minh cho những sáng tạo như nhà máy hiện đại quy mô lớn và dây chuyền sản xuất hàng loạt. Khi một số ít những nhà sản xuất lớn có thể thâu tóm một tỉ lệ lớn thị trường, họ có thể trải rộng tổng chí phí cố định của họ (chẳng hạn như chi phí hành chính) ra nhiều các đơn vị, qua đó làm giảm chi phí trung bình của một đơn vị riêng lẻ.
Tính kinh tế theo quy mô (Economies of scale): Học thuyết kinh tế có nội dung rằng số lượng sản phẩm tăng lên sẽ hạ thấp chi phí bình quân trên mỗi sản phẩm đầu ra, dẫn đến chi phí bình quân dài hạn giảm theo.
Một nhóm rào cản liên quan khác bắt nguồn từ tính kinh tế theo phạm vi *. Kinh nghiệm trong những ngành khác nhau nhưng liên quan có thể cho một công ty lợi thế mà các đối thủ thiếu. Lấy ví dụ, một công ty có những hợp đồng lớn cung ứng máy bay cho không quân sẽ có lợi thế cực lớn khi cạnh tranh trong thị trường máy bay chở khách. Trong khi tính kinh tế theo quy mô là một đặc điểm mang tính số lượng, tính kinh tế theo phạm vi xuất hiện khi một công ty có thể sử dụng kiến thức riêng và năng lực cốt lõi* của nó ở những thị trường khác nhau. Sự tiếp cận với các nguồn tài nguyên hiếm, chẳng hạn như những mỏ quặng, đất đai màu mỡ hay ngư trường dồi dào, trở thành một rào cản khi các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng không thể tiếp cận những nguồn lực tương tự. Vốn tất nhiên là một trở ngại khác. Khởi động một hãng hàng không hay một công ty điện thoại hay thép đòi hỏi chi phí vốn lớn mà ít tay chơi mới có thể chi trả nổi. Công nghệ là một rào cản quen thuộc khác cho sự cạnh tranh: một công thức, quy trình chế tạo, hay bất cứ hình thức nào của vốn trí tuệ độc quyền không sẵn có cho những kẻ muốn trở thành đối thủ cạnh tranh cũng ngăn trở sự cạnh tranh. Điều tương tự cũng đúng với một thương hiệu: cạnh tranh với Coke và Pepsi khó khăn không chỉ vì quy mô của chúng, mà còn vì các sản phẩm của chúng tận hưởng sức hấp dẫn thương hiệu khổng lồ.
Tính kinh tế theo phạm vi (Economies of scope): Học thuyết kinh tế có nội dung rằng chi phí sản xuất trung bình sẽ giảm khi doanh nghiệp mở rộng chủng loại hàng hóa và dịch vụ mà công ty sản xuất ra.
Năng lực cốt lõi (Core competencies): Tập hợp những kỹ năng và chuyên môn mà nhờ đó công ty vượt trội hơn đối thủ cạnh tranh.
Và còn có luật lệ: các đạo luật, quy định, quy chuẩn với quyền sở hữu, chính sách thuế và tất cả những yêu cầu khác để hoạt động trong một địa phương hay ngành cụ thể. Tất cả những điều này (và nhiều biến thể khác - không có một danh sách tiêu chuẩn duy nhất nào cho mỗi rào cản gia nhập các ngành kinh doanh) về cơ bản bảo vệ vị trí của những công ty đang thống trị trong bất cứ ngành cụ thể nào và ngăn những kẻ mới định gia nhập.
Điều đó đưa chúng ta tới câu hỏi cốt lõi về sự chuyển đổi của quyền lực trong thế giới kinh doanh: Điều gì có thể khiến những rào cản gia nhập bỗng nhiên rơi xuống và khiến những công ty lâu nay được bảo vệ dễ tổn thương hơn trước việc mất đi quyền lực? Một câu trả lời rõ ràng là Internet. Những ví dụ về việc nó giúp truất ngôi những doanh nghiệp độc quyền lâu đời như thế nào cũng nhiều như những khả năng của chính phương tiện này. Thật vậy, ít ngành nào không bị cuộc cách mạng công nghệ thông tin đụng đến.
Tuy nhiên, giống như trong các lĩnh vực khác được thảo luận ở đây (chính trị, chiến tranh, vân vân), ngoài cuộc cách mạng thông tin, còn những lực lượng hoạt động khác làm thay đổi cách quyền lực được giành lấy, sử dụng và mất đi trong thế giới kinh doanh.
Lấy ví dụ, trong ba thập kỷ qua, những hành động của chính phủ đã làm thay đổi sâu sắc những cấu trúc kinh doanh được định hình lâu đời. Margaret Thatcher và Ronald Reagan đã phát động một làn sóng những thay đổi chính sách, làm bùng lên sự cạnh tranh và thay đổi cách thức kinh doanh ở hàng loạt lĩnh vực từ điện thoại và hàng không tới khai thác than và ngân hàng. Bắt đầu từ cuối những năm 1980, các nước đang phát triển từ Thái Lan tới Ba Lan rồi tới Chile triển khai những cải cách kinh tế mang tính cách mạng của riêng họ: tư nhân hóa, giảm bớt luật lệ, mở cửa thương mại, loại bỏ các rào cản cho đầu tư nước ngoài, giao dịch tiền tệ tự do hơn, tự do hóa tài chính và hàng loạt những thay đổi thúc đẩy cạnh tranh khác. Sự phát triển của Liên minh Châu Âu với việc mở cửa các đường biên giới nội khối, những bộ máy cai quản mới và sự ra mắt đồng euro đã có ảnh hưởng lớn lên bối cảnh cạnh tranh, cũng như sự mở rộng của các thỏa thuận thương mại toàn cầu và khu vực.
Những sáng kiến chính sách này ít nhất đã có ảnh hưởng lớn tới việc thay đổi môi trường kinh doanh toàn cầu như sự phát triển của Internet. Thật vậy, một số nhà phân tích cho rằng tới 1/4 tăng trưởng thương mại hậu chiến ở các nền kinh tế phát triển là do cải cách chính sách, chủ yếu là dưới dạng giảm thuế [24] . Sự hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu của Trung Quốc, Ấn Độ và những thị trường lớn khác - trước đó vốn đóng cửa tương đối bởi những chính sách kinh tế thiên về bảo hộ và độc đoán - đã mang hàng tỉ người tiêu dùng và nhà sản xuất mới vào thị trường thế giới. Những chuyển đổi chính sách mang tính lịch sử này được khuếch đại bởi những cuộc cách mạng khác trong công nghệ, cùng nhau chúng dẫn tới một thế giới trong đó những rào cản để gia nhập cũ không còn có thể bảo vệ những kẻ nắm quyền trước các đợt tấn công từ những kẻ thách thức mới.
Những công nghệ phá vỡ trật tự đã bắt đầu xuất hiện trong gần như mọi ngành. Những nhà máy năng lượng mặt trời, gió và sinh học quy mô nhỏ mang điện tới những tập thể dân số khổng lồ chưa từng có nó, nâng cao mức sống, thúc đẩy sự phát triển của kinh doanh quy mô nhỏ và thách thức sự thống trị của các công ty cung cấp điện truyền thống. Sự thu nhỏ và tính khả chuyển thay đổi công nghiệp chế tạo theo những cách phi thường - và trong quá trình đó, đã hạ thấp các rào cản gia nhập có vẻ là không thể vượt qua một thời. Trong một số ngành, không còn cần thiết phải xây dựng những cơ sở rất lớn để đạt được một thị phần đáng kể. Trong khi những nhà máy bia mini sẽ không thay thế những hãng như Heineken và những nhà máy thép nhỏ sẽ không vượt qua một gã khổng lồ như ArcelorMittal, những công ty nhỏ hơn như trên giờ có thể thâu tóm hiệu quả thị phần trong khu vực địa lý của họ, mang tới sự cạnh tranh nhiều hơn trong những thị trường mà các lựa chọn trước kia là giới hạn. Và như đã nói ở trên, việc cung cấp tài chính cho những ý tưởng kinh doanh tốt đã trở nên sẵn sàng hơn nhờ vào những thay đổi cơ bản trong ngành tài chính. Ở hầu hết các nước, việc tiếp cận vốn không còn là rào cản không thể vượt qua để tạo ra hay mở rộng một công ty mới như nó vẫn từng.
Những hậu quả kéo theo không thể đếm xuể, từ những đòi hỏi về nhân lực tới chi phí bảo hiểm rồi tới khả năng chuyển hoạt động từ nơi này sang nơi khác nhanh chóng. Sự đóng thùng hóa đã định hình ngành tàu biển, cho phép vận tải đa phương tiện tất cả các loại hàng hóa một cách hiệu quả và đáng tin cậy. Năm 2010, lượng Container vận tải cao gấp mười lần so với năm 1980 [25] .
Gần như tất cả các công nghệ chúng ta hoặc thấy trong các nhà bảo tàng (đầu máy hơi nước) hay coi là đương nhiên (radio) đại diện cho một sự đột phá ở thời của chúng. Nhưng cách mạng công nghệ ngày nay chưa có tiền lệ về phạm vi, chạm tới gần như mọi hoạt động của con người trên thế giới ở tốc độ chóng mặt.
Nhìn xa hơn, chúng ta thấy rằng gần như mọi thay đổi lớn trong cách chúng ta sống ngày nay, thậm chí so với với chỉ một thế hệ trước, chỉ ra sự xói mòn những rào cản gia nhập. Thật vậy, những cuộc cách mạng Nhiều Hơn, Di Động và Tinh Thần cùng các hiệu ứng xói mòn của chúng với quyền lực của những kẻ đang nắm quyền có thể thấy được rõ ràng trong thế giới kinh doanh. Có rất nhiều ví dụ: Sự hội nhập của các thị trường vốn thế giới bằng chuyển khoản và ngân hàng điện tử đã thay đổi cách tư bản được phân phối và di chuyển khắp thế giới. Những nền văn hóa đầu tư hoàn toàn mới - từ quỹ đầu tư mạo hiểm và những nhà đầu tư thiên thần* tới tín dụng vi mô - đã đứng vững và kết nối tiền bạc với những người dùng ở khoảng cách gần và xa. Sự di cư đã vận chuyển kiến thức kinh doanh và kinh nghiệm thực tế theo những cách mà sự thay đổi luật lệ và sự ưu đãi đầu tư không thể sánh được. Nó cũng đã tạo ra những mạng lưới tài chính rộng khắp thế giới cùng với những cuộc di cư lớn cũng như các thị trường ngách cho các doanh nhân nhận thức được nhu cầu của cộng đồng.
Nhà đầu tư thiên thần (Angel investor): Một cá nhân giàu có, sẵn sàng dùng chính tiền bản thân để cấp vốn cho một doanh nghiệp thành lập và phát triển ban đầu, và thông thường để đổi lại, họ sẽ có quyền sở hữu một phần công ty.
Sự kết hợp của những lực này là điều tách biệt những rung chuyển của chủ nghĩa tư bản ngày nay so với những gì diễn ra trước đó. Mọi thứ có nhiều hơn, di chuyển rộng khắp và nhanh hơn, kỳ vọng của mọi người cũng đã thay đổi sâu sắc. Một thị trường toàn cầu; sự di chuyển được giải phóng ở mức độ cao những lượng khổng lồ tiền bạc, hàng hóa, các thương hiệu, công nghệ và tài năng qua các biên giới và sự sử dụng; giá trị của kiến thức và thương hiệu nổi lên so với tài nguyên thiên nhiên và trang thiết bị vật chất; sự xuất hiện của tín dụng ở những nơi mà nó từng hiếm hoi hoặc không tồn tại - tất cả điều này nằm trong số những lực lượng giờ đã quen thuộc định hình lại các nền kinh tế. Như thế, chúng không chỉ thay đổi sân chơi cạnh tranh của các doanh nghiệp. Chúng cũng mở rộng cuộc cạnh tranh ra cho các tay chơi mới, đưa tới những đối thủ đáng nể và khéo léo mà những rào cản của luật lệ, nguồn lực, kiến thức, vốn hay danh tiếng đã từ lâu ngăn trở. Khi những rào cản này trở nên mong manh, xuất hiện những điều kiện cho sự phân mảng và thay thế những tay chơi truyền thống trong dài hạn, dù những khuynh hướng ngắn hạn ở một số ngành và quốc gia có vẻ vẫn chỉ về phía sự tập trung hóa.
Tất nhiên, khuynh hướng chung này thừa nhận các ngoại lệ, nhưng nhìn nhanh, một số hành động ngăn cản đáng kể nhất với việc gia nhập cạnh tranh trong quá khứ đã tiết lộ toàn diện cuộc chuyển đổi mang tính nền tảng.
Những Tài Sản Vật ChấtNăm 2007, tập đoàn truyền thông News Corporation, do Rupert Murdoch kiểm soát, đạt được một mục tiêu dài hạn khi hãng mua lại một tài sản thần thánh, nhật báo Wall Street Journal, với giá 5,6 tỉ đô-la Mỹ. Vài tuần trước đó, Google đã mua lại công ty quảng cáo Internet Doubleclick (được thành lập năm 1996) với giá 3,1 tỉ đô-la Mỹ và Microsoft mua lại công ty quảng cáo thậm chí còn kém nổi tiếng hơn aQuantive (được thành lập năm 1997) với giá 6,3 tỉ đô-la Mỹ. Trong khi tờ Journal đáng kính với những nhà báo dày dạn kinh nghiệm, đội ngũ biên tập, các tờ báo, danh mục các tòa nhà và hàng đoàn xe tải (tất cả các tài sản thuộc sở hữu công ty Dow Jones) được bán với một khoản tiền lớn, 2 công ty quảng cáo trên mạng với lịch sử ngắn ngủi và hầu như không có tài sản vật chất đáng kể nào đã được bán với giá tổng cộng cao gần gấp đôi.
Phải chăng đó là di sản của một thị trường bong bóng quá nóng các tài sản Internet? Thật vậy, Microsoft tuyên bố giảm ước tính giá trị của vụ mua aQuantive xuống 6,2 tỉ đô-la Mỹ vào năm 2012 [26] - nhưng đó chỉ là một phần của câu chuyện đang tiếp diễn với một diễn biến khác, gần đây hơn, trong vụ mua lại Instagram, một công ty với một tá nhân viên và không hề có doanh thu, của Facebook (bản thân cũng là một sản phẩm của thời đại Internet mới thành lập gần đây và được định giá cao ngất ngưởng) với với giá 1 tỉ đô-la Mỹ năm 2012. Bằng khoản tiền đó, Facebook đã có thể mua lại New York Times , Peet’s Coffee, Office Depot hay Cooper Tire & Rubber, tên vài công ty với mức định giá tương tự.
Phần đóng góp của tài sản vật chất trong giá trị của các công ty đã sụt giảm ở khắp các ngành. Mối quan hệ giữa những tài nguyên vật chất mà các công ty kiểm soát - các nhà máy, văn phòng và tất cả tài sản vật chất khác - với mức giá mà các công ty đó thu lại khi họ bán cổ phiếu ngoài thị trường hay bị thâu tóm ngày càng suy giảm. Ngày nay, các học giả ước tính, từ 40% tới 90% giá trị thị trường của một công ty tới từ “những tài sản vô hình” của nó, một hạng mục bao gồm tất cả mọi thứ từ các bằng sáng chế và quyền sở hữu trí tuệ tới cách công ty vận hành cùng sức mạnh về thương hiệu lẫn “thiện chí” mà nó tạo ra trong lòng khách hàng. Không phải mọi tài sản vô hình này đều có thể dễ dàng đo đếm - nhưng điều đó không ngăn các nhà kinh tế học cố gắng làm thế [27] .
Tất nhiên, một số ngành vẫn có chỗ dựa vững chắc trên những hoạt động r?