CHƯƠNG CHÍN SIÊU CẠNH TRANH CHO TÂM HỒN, TRÁI TIM VÀ BỘ NÃO
Một cách tự nhiên, chúng ta tìm kiếm bằng chứng cho sự chuyển đổi quyền lực trong những lĩnh vực mà ảnh hưởng của nó sâu sắc và tàn khốc nhất: sự sống và cái chết, chiến tranh và hòa bình, sự kiểm soát của chính phủ, sự vươn lên và suy thoái của các công ty. Và trong mỗi lĩnh vực, chúng ta đã thấy sự suy tàn của quyền lực thuộc về những tay chơi siêu hạng đang mở ra những con chân trời mới cho những nhân tố nhỏ vẫn ở bên rìa cho tới giờ, một số trong đó có thể giành được sự tiếp cận những năng lực có khả năng giới hạn lựa chọn của các quyền lực từng một thời hùng mạnh.
Nhưng quyền lực cũng nằm ở các giáo hội và nhóm tôn giáo thu tiền quyên góp của giáo dân và cai quản các lựa chọn trong đời sống của những người theo tôn giáo đó. Trong liên đoàn lao động tập hợp quyền lợi của các công nhân và thương lượng đại diện cho họ đòi lương cùng các điều kiện lao động tốt hơn. Trong hoạt động từ thiện đưa các quỹ tư nhân tới với công tác xã hội trong nước và chiến đấu chống đói nghèo ở nước ngoài. Quyền lực cũng nằm trong những trường đại học mà các phòng thí nghiệm nghiên cứu sản sinh ra những phát hiện khoa học và sáng tạo quan trọng nhất, hay những sinh viên tốt nghiệp kiếm được những công việc uy tín nhất. Trong các viện bảo tàng, triển lãm và các hãng ghi âm ca nhạc, trong các giàn nhạc giao hưởng, nhà xuất bản sách, những hãng sản xuất phim. Và tất nhiên, có cả quyền lực trong giới truyền thông, những kênh truyền hình và những bộ lọc mà chúng ta quay sang để tìm kiếm thông tin, những phương tiện truyền thông mà chúng ta tin là trung thực và hữu ích, hay để lôi kéo nhiều người hướng tới quan điểm của chúng ta.
Lợi ích của từng nhóm khác nhau. May mắn là hầu hết đều không mang tính sống còn. Harvard đối đầu với Yale giống với Manchester United đối đầu Chelsea hơn là, lấy ví dụ, quân đội Mỹ đối đầu với Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc hay AI Qaeda. Là một doanh nghiệp kinh tế thuần túy, số phận của BBC, New York Times, El País hay các hãng tin uy tín khác ảnh hưởng tới ít người lao động và cuộc sống hơn hẳn so với, lấy ví dụ, lợi nhuận và thua lỗ của Monsanto hay WalMart, ngay cả nếu ảnh hưởng của các hãng tin này lên tranh luận và chính sách có ý nghĩa sâu sắc trong giới truyền thông và giúp giữ cho những nền dân chủ của chúng ta lành mạnh. Mặt khác, sự phân bổ quyền lực trong thế giới từ thiện giữa các quỹ và những nhà tài trợ có ảnh hưởng mãnh liệt và ngay lập tức lên hàng tỉ người ở gần và xa, xác định những dự án nào được chi tiền (và chi như thế nào) hay những đòi hỏi khẩn cấp nào được coi là khẩn cấp nhất. Tầm quan trọng trong khả năng tự tổ chức bản thân của các công nhân để cải thiện lợi ích kinh tế cho chính mình là không cần giải thích. Quyền lực của tôn giáo có tổ chức lên các mặt khác nhau trong đời sống và sự cạnh tranh quyết liệt giữa các đức tin đối địch cũng rõ ràng như thế: bằng chứng - thường là đẫm máu - còn để lại những vết sẹo trong lịch sử.
Điều đó giải thích tại sao tầm nhìn tổng quát của chúng ta về sự thay đổi lớn diễn ra trong cách vận hành của quyền lực ngày nay cần được mở rộng ra ngoài kinh doanh, chính trị và chiến tranh. Mục tiêu không phải là để thấu đáo tất cả. Tuy nhiên, chúng ta sẽ xem xét điều gì đã xảy ra với quyền lực của những tổ chức thống trị lâu nay trong bốn lĩnh vực trực tiếp ảnh hưởng tới một tỉ lệ lớn dân số: tôn giáo, lao động, từ thiện và truyền thông.
TÔN GIÁO: CHÍN TỈ TÊN CỦA CHÚA TRỜI“Họ đang đánh cắp con chiên của chúng tôi”. Một người Jesuit Dòng Tên mô tả làn sóng của sự thay đổi đang quét qua Thiên Chúa giáo ở Mỹ Latin, từ lâu là một pháo đài của Công giáo La Mã [1] . “Họ” là ai? Những giáo hội của phong trào Phúc Âm, phong trào Ngũ Tuần và Tin Lành đầy lôi cuốn nở rộ khắp khu vực trong 30 năm qua - giống như chúng đã từng ở Mỹ, châu Phi và những nơi khác - đang thách thức giáo hội Công giáo La Mã và nhanh chóng làm thưa vắng các nhà thờ của giáo hội này. Một cuộc thăm dò năm 2005 cho thấy tỉ lệ người Mỹ Latin tự coi mình là tín đồ Công giáo La Mã đã giảm từ 80% xuống 71% trong thập kỷ từ 1995 tới 2005. Tệ hơn cho giáo hội, chỉ 40% nói họ thực sự có thực hành đức tin, một sự suy giảm lớn ở châu lục mà Công giáo La Mã đã thống trị hàng thế kỷ. Ở Brazil chẳng hạn, nửa triệu tín đồ Công giáo La Mã rời bỏ giáo hội mỗi năm. Trong khi năm 2000, số người theo Công giáo La Mã chiếm 73,6% dân số Brazil thì tới năm 2010, tỉ lệ% đó đã giảm xuống dưới 2/3, hay 64,6%. Chỉ 2/3 những người Colombia giờ tự coi mình là tín đồ Công giáo La Mã, 1/3 người Guatemala đã rời giáo hội Công giáo La Mã từ những năm 1980 - và các thống kê còn nhiều [2] .
Ở La Paz, thủ đô của Bolivia, một số tín đồ Công giáo cũ nói với các phóng viên rằng họ thây bị giáo hội “bỏ rơi”. “Giáo hội với tôi không thật sự tồn tại”, một người nói. Giờ, họ thuộc về New Pact Power of God Church (tạm dịch: Tân Liên hiệp Thiên Chúa), một đoàn mục sư đầy lôi cuốn nơi hàng nghìn người cầu nguyện nhiều lượt mỗi Chủ nhật. Những cảnh tượng như thế phổ biến khắp Mỹ Latin. Nhưng các con chiên không phải bị đánh cắp. Những con chiên không đơn thuần là con chiên nữa: họ là những người tiêu dùng đã tìm thấy một sản phẩm hấp dẫn hơn trên thị trường tìm kiếm sự cứu rỗi [3] .
Gốc rễ của phong trào Phúc Âm hiện đại có nguồn gốc từ một đoàn mục sư Mỹ-Phi vào đầu thế kỷ XX tên gọi Azusa, vốn dựa trên những khái niệm rút ra từ câu chuyện trong Thánh Kinh về Lễ Hạ trần. Phong trào nổi lên sau đó, phong trào Ngũ Tuần, thu hút một dải rộng những giáo phái lớn hơn và các giáo hội địa phương độc lập, chia sẻ một vài khái niệm cốt lõi về sự giải thoát cá nhân (thông qua việc đầu thai) và những yếu tố của việc thờ phụng như là nói xuất thần. Nhưng những giáo hội tự trị, đã thu hút hàng triệu người theo để trở thành một lực lượng xã hội và chính trị ở Mỹ, Brazil, Nigeria và nhiều quốc gia khác khác, không chỉ có phong trào Ngũ Tuần. Họ bao gồm nhiều hình thức của các nhóm Phúc Âm Tin Lành và các nhóm Canh tân đặc sủng, mỗi nhóm với một nhà tiên tri hay một tông đồ của Chúa tự xưng điển hình nhưng nhanh chóng định hình giáo hội cùng hệ thống thứ bậc của riêng họ. Nhiều người rao giảng thánh kinh về sự thinh vượng, cho rằng Chúa trời mỉm cười với sự tích tụ của cải trong cuộc đời và sẽ tưởng thưởng những ai đóng góp vật chất cho giáo hội bằng sự thịnh vượng và phép màu. Thật vậy, trong một cuộc thăm dò mới đây của Pew về thái độ tôn giáo ở Mỹ, nơi 50 trong số 250 giáo hội lớn nhất giờ rao giảng đức tin dựa trên sự thinh vượng, 73% những người Latin có đạo đồng ý với tuyến bố “Chúa sẽ ban thành công tài chính cho tất cả những người có đủ đức tin” [4] .
Sự nổi lên của Phong trào Ngũ Tuần và những giáo hội Thiên Chúa giáo Canh tân đặc sủng, không chỉ ở các nước mà Công giáo La Mã hay Tin Lành chủ lưu chiếm ưu thế, thật đáng kinh ngạc. Các cuộc khảo sát khá đa dạng, một phần vì sự luân chuyển liên tục của các khái niệm và ranh giới, nhưng ảnh hưởng của các giáo hội vẫn rõ ràng. Một cuộc thăm dò của Pew năm 2006 ước tính tỉ lệ những người “cải giáo” - cả những người Ngũ Tuần và những người Canh tân đặc sủng - chiếm 11% ở Hàn Quốc, 23% ở Mỹ, 26% ở Nigeria, 30% ở Chile, 34% ở Nam Phi, 44% ở Philippines, 49% ở Brazil, 56% ở Kenya và 60% ở Guatemala [5] . Ngay cả ở nước “không-Thiên Chúa giáo” Ấn Độ, những người cải giáo vẫn chiếm 5% dân số, nói cách khác, có hơn 50 triệu người Ngũ Tuần và Canh tân đặc sủng ở Ấn Độ, một vài khảo sát còn cho rằng Trung Quốc có gấp đôi số đó. Nhiều giáo hội cải tín hoàn toàn mang tính địa phương, thường không hơn gì một giáo đoàn đóng vai trò như bộ mặt cho những người ở các khu dân cư da đen và người nhập cư tại những thành phố Bắc Mỹ. Các giáo hội cải giáo khác thì nảy nở thành những tổ chức lớn với hàng trăm tăng hội và sự hiện diện quốc tế.
Dù Phong trào Ngũ Tuần nổi lên đầu tiên ở Mỹ, những nhóm truyền giáo mang tính lịch sử ở Mỹ như Hội chúng của Đức Chúa trời không còn là hội truyền giáo mở rộng nhanh nhất trên thế giới nữa. Những nước xuất khẩu lớn trong hoạt động truyền giáo ngày nay là Brazil và Nigeria. Ở Brazil, Giáo hội Universal Church of the Kingdom of God (tạm dịch: Thống nhất của Nước Trời), được thành lập tại Rio de Janeiro bởi mục sư Edir Macedo năm 1977, giờ có 5000 tăng hội. Nó lan sang Mỹ năm 1986 và hiện diện ở gần như mọi quốc gia. Kế hoạch của nó, nhận được sự ủy quyền của chính phủ Brazil, là xây dựng một nhà thờ khổng lồ chứa được 10.000 người ở São Paulo tương đương với một tòa nhà cao mười tám tầng, làm theo mẫu Đền Solomon. “Chúng tôi sẽ chi cả núi tiền, không nghi ngờ gì hết”, Macedo nói [6] .
Một giáo phái lớn của Brazil khác, hội thánh Reborn in Christ (tạm dịch: Tái sinh trong Đấng Christ), được thành lập năm 1986 bởi một cặp vợ chồng có tên Tông đồ Estevam và Giám mục Sonia. Hội sở hữu các tờ báo, đài phát thanh và một kênh truyền hình. Năm 2005, nó tài trợ cho một đảng chính trị mới, Đảng Cộng hòa Brazil, đảng đã gia nhập liên minh với Đảng Công nhân của Tổng thống Lula da Silva trong cuộc bầu cử năm 2006. Vậy mà còn cả một giáo hội Brazil khác nổi lên từ sự hiển linh của một tay lướt ván và cựu con nghiện ma túy tên là Rinaldo Pereira. Trong vòng mười năm, giáo hội Bola de Neve của ông đã lập được hơn 100 tăng hội với mỗi tăng hội có tới hàng nghìn thành viên. Tên của giáo hội có nghĩa là “hòn tuyết lăn” - một cái tên thích hợp vào những ngày này cho một đoàn mục sư Ngũ Tuần [7] .
Trong khi đó ở Nigeria, Redeemed Christian Church of God (tạm dịch: Giáo hội Thiên Chúa Cứu chuộc của Đức Chúa Trời), được thành lập tại Lagos năm 1952, nhưng chỉ thực sự bắt đầu lan ra từ đầu những năm 1980, hoạt động ở 100 quốc gia. Cuộc gặp mặt tối thượng các con chiên mỗi năm của nó ở một trại thức tỉnh niềm tin dọc theo đường cao tốc Lagos-Ibadan tập hợp tới một triệu tín đồ. Ở Mỹ, giáo hội tuyên bố nó có khoảng 300 giáo xứ với 15.000 thành viên và đang tăng lên.
Theo sau sự thức tỉnh của những lãnh đạo mới trong thị trường cứu rỗi linh hồn xuyên quốc gia này, nhiều giáo hội khác cũng đang lan ra - những thành quả linh thiêng của các cuộc cách mạng Nhiều Hơn, Di Động và Tinh Thần [8] . Thật vậy, khoảng 2,2 tỉ tín đồ Thiên Chúa giáo trên toàn thế giới phân tán tới mức, như một báo cáo của Pew gần đây cho biết, “không châu lục hay khu vực nào có thể tuyên bố một cách chắc chắn mình là trung tâm của Thiên Chúa giáo toàn cầu”. [9] Tỉ lệ tín đồ Thiên Chúa giáo ở châu Phi hạ Sahara chẳng hạn, đã tăng từ 9% vào năm 1910 lên 63% một thế kỷ sau đó. [10] Nói tới cuộc cách mạng Di Động: trong năm 2010, những tín đồ Thiên Chúa giáo chiếm gần một nửa trong số 214 triệu người di cư trên thế giới, mở ra những khả năng mới cho sự mở rộng đức tin và lan truyền nó xa hơn bất kì tầm với của bất cứ quyền lực giáo phái tập trung nào. [11]
Như tôi đã lập luận khi thảo luận về sự vươn lên của quyền lực vi mô trong những chương trước, điểm quan trọng không phải là những kẻ thách thức mới này sẽ đánh bật những tay chơi siêu hạng. Điểm quan trọng là họ sẽ từ chối các tay chơi siêu hạng những lựa chọn mà trong quá khứ các tay chơi lớn coi là nghiễm nhiên. Các giáo hội Canh tân đặc sủng mới, chẳng hạn, sẽ không đánh bật được Tòa thánh Vatican hay Giáo hội Anh giáo. Nhưng chúng sẽ thu hẹp phạm vi khả năng và làm giảm quyền lực của những định chế lớn đó.
Thành công của những giáo phái mới không tránh khỏi việc dẫn tới sự phân tán những nhóm Tin Lành chính thống như Anh giáo hay Giáo hội Luther, và hơn hết, Giáo hội Công giáo La Mã. Cho tới một vài thập kỷ trước, những vấn đề chủ yếu của Vatican là sự thế tục hóa dần dần ở châu Âu và tuổi tác ngày càng lớn của các linh mục. Đây là những vấn đề nghiêm trọng và Giáo hội tìm cách hiện đại hóa để thích ứng, đáng chú ý là qua những quyết định của hội đồng Vatican II - một ví dụ là việc yêu cầu các buổi Thánh lễ phải được thực hiện bằng tiếng địa phương thay vì tiếng Latin. Nhưng không gì chuẩn bị cho Vatican trước thách thức mang tính cạnh tranh từ các giáo hội Ngũ Tuần và Canh tân đặc sủng, không chỉ ở những nơi xa tầm với của Giáo hội, mà cả ở những nơi như Mỹ Latin, lâu nay được coi là sân sau của Công giáo La Mã. Ngay từ những năm 1970 và 1980, Giáo hội đã đối mặt với sự bất đồng bên trong với sự nổi lên của thần học giải phóng* ở Brazil và những nơi khác trong châu lục. Mối đe dọa của thần học giải phóng giờ đã biến mất, đặc biệt là với sự lan rộng của dân chủ trong khu vực [12] . Nhưng những cuộc xâm nhập của các giáo phái mới và sự tuân thủ nghi thức tôn giáo quyết liệt hơn từ những người cải giáo (thêm nhiều người dự các buổi lễ kéo dài hơn và điều chỉnh nhiều khía cạnh cuộc sống của họ theo yêu cầu của giáo hội hơn) đang lôi kéo dần ảnh hưởng của tín điều Công giáo La Mã từng một thời thống trị áp đảo. “Nếu giáo hội không thay đổi cấu trúc tập trung và những thông điệp mang tính toàn trị của nó hiện giờ, nó sẽ hứng chịu một sự sụp đổ thật sự ở Mỹ Latin trong khoảng mười lăm năm nữa”, theo ước đoán của Elio Masferrer, Chủ tịch Hiệp hội Nghiên cứu Tôn giáo Mỹ Latin [13] .
Thần học Giải phóng (Liberation Theology): Thuyết thần học đưa ra quan điểm là giáo hội có trách nhiệm giúp đỡ con người tự giải phóng cho chính mình khỏi sự đói nghèo và bất công đang xảy ra. Những luận điểm chính của thần học giải phóng tán thành sự nhấn mạnh của Karl Marx về bất công xã hội.
Những học giả và nhà phân tích cũng chậm chạp trong việc hình dung ra quy mô của xu hướng này, có lẽ vì họ thấy dễ để bác bỏ rằng việc thờ phụng của Phong trào Ngũ Tuần là lạ lùng hay ngoại lai. Tuy nhiên, điều đó là không thể tránh khỏi, do các nhóm Ngũ Tuần đã trở nên ngày càng ảnh hưởng trong chính trị (đưa các ứng viên vào nắm ghế trong chính phủ ở những nước như Brazil) và truyền thông (ra mắt các đài phát thanh và truyền hình ở nhiều nước). Cả Giáo hội Công giáo La Mã hay những giáo phái Tin Lành chính thống đều chưa tìm được cách để ngăn chặn sự lan ra của những đối thủ nhỏ và nhanh nhẹn hay kiềm lại việc những tín đồ của họ cải đạo, và tất cả tác động của họ lên thu nhập và sự xác đáng của giáo hội.
Tại sao? Một phần, thất bại này liên quan tới giáo lý, các giáo hội Phúc Âm có khả năng đưa ra một thông điệp dựa trên sự giàu có và những nghi thức thờ phụng bắt mắt - với đức tin vào sự cứu chữa và giải thoát - trái ngược với những nghi lễ bó buộc và lặp đi lặp lại của Công giáo La Mã. Nhưng lợi thế cốt lõi, thứ khiến những điều còn lại khả thi, là tính tổ chức. Những thay đổi trong kết cấu và việc thực hiện nghi thức Thiên Chúa giáo cũng sâu sắc không kém bất kì trường hợp nào của việc quyền lực suy tàn, rời xa những cấu trúc thứ bậc và tập trung lớn, ưu tiên cho đông đảo những tay chơi nhỏ và lanh lẹ tự trị, như thế giới đã biết.
Điều cốt lõi trong lợi thế của Phong trào Ngũ Tuần và Phúc Âm nằm ở khả năng bật lên mà không cần bất cứ cơ cấu thứ bậc sẵn có nào. Không có những bài học phải nhận, những chỉ dẫn phải chờ đợi, những lễ tôn phong phải giành được từ Vatican hay Tổng giám mục Canterbury hay bất cứ lãnh đạo mang tính tập trung nào khác. Trong trường hợp kinh điển, trừ khi họ nổi lên từ một nhà thờ Phúc Âm đã tồn tại, một mục sư đơn giản tự chỉ định ông ta hay bà ta (trong khi Công giáo La Mã vẫn cấm phụ nữ làm linh mục, có rất nhiều nhà tiên tri, mục sư và tông đồ là phụ nữ trong giáo hội Canh tân đặc sủng) và trương biển hiệu của mình lên. Về khía cạnh đó, giáo hội mới không khác gì một doanh nghiệp nhỏ được thành lập trong một thị trường cạnh tranh mà không có vốn từ một nguồn trung tâm, nó phải thành công dựa trên cơ sở các thành viên mà nó thu hút được, các nghi lễ mà nó cung cấp cho họ và thu nhập từ những khoản tiền đóng góp mà các thành viên được thuyết phục cho đi. [14] Như John L. Allen, một phóng viên đưa tin về Vatican và tác giả cuốn The Future Church (tạm dịch: Giáo Hội Tương Lai), đã nhận xét: “Những rào cản gia nhập thị trường trong Phong trào Ngũ Tuần nổi tiếng thấp. Bất cứ tín đồ Ngũ Tuần nào thấy không hài lòng với những gì nhà thờ địa phương cung cấp được tự do chuyển sang một nhà thờ khác, thậm chí khởi động nhà thờ của riêng ông ta hay bà ta trong một tầng hầm hay một nhà để xe”. [15]
Những giáo hội thành công là những giáo hội thích nghi với hoàn cảnh địa phương theo như cách kinh doanh thành công ở thị trường ngách, trong mọi khía cạnh từ giáo lý của các bài giảng tới địa điểm và thời gian thực hiện nghi lễ, những tiện nghi và dịch vụ cho cộng đồng như chăm sóc trẻ em hay hỗ trợ tìm việc hay các nhóm giúp đỡ đủ kiểu, các sáng kiến kinh doanh và truyền thông. Những người nhập cư, các nhóm dân thiểu số bản xứ như người Maya ở Guatemala hay những cộng đồng khác - với các nhu cầu mà các nhà lãnh đạo chính trị và các giáo hội chủ lưu đã phớt lờ - là mục tiêu hoàn hảo cho các giáo hội mới này. Ở nhiều nước Mỹ Latin, mối quan hệ lịch sử của các giám mục Công giáo La Mã với giới chính trị tinh hoa khiến họ kém nhạy cảm hơn với tình trạng của những người nghèo và đặc biệt là người bản xứ thiểu số. [16] Hệ thống thứ bậc cứng nhắc của giáo hội và yêu cầu phải được chuẩn y về giáo lý từ Vatican ngăn cản họ thích nghi, tạo ra khoảng trống để các giáo hội Phúc Âm tấn công vào mạng sườn họ. Một thông điệp rõ ràng về sự giàu có và thịnh vượng, một sự nhấn mạnh vào những hành động cá nhân và sự cứu chuộc phù hợp với bối cảnh mà nghèo khó và bị gạt ra ngoài lề đã là tiêu chuẩn. Nhưng những giáo hội Phúc Âm cũng có thể rao giảng giáo lý của họ với nhiều sự nhạy cảm hơn ở những cộng đồng mà họ hoạt động, thích ứng lại cùng lúc những sự kiện kinh tế và chính trị, áp dụng phong cách và kiểu trình bày của nền văn hóa bản địa. Như một mục sư Phúc Âm ở Potosí, Bolivia, đã nói: “Các nhà thờ của chúng tôi mở hơn, những bài hát của chúng tôi dùng giai điệu địa phương và tôi thăm giáo dân của mình mỗi ngày”. [17]
Trong khi đó, những rào cản trước kia ngăn giữ các giáo hội nhỏ mới thành lập không thể tạo ra ảnh hưởng bên ngoài khu vực lân cận hay cộng đồng sắc tộc của họ giờ đã sụp đổ hoàn toàn. Cuộc cách mạng thông tin liên lạc và sự nổi lên của truyền thông tư nhân đã chấm dứt lợi thế của các giáo hội lớn có tổ chức trong việc lan truyền thông điệp, trao cho bất cứ vị mục sư tự xưng nào khả năng tới với những khán giả truyền hình, thính giả phát thanh hay người lướt web, gửi đi lời chúc phúc ra bên ngoài biên giới và nhận lại tiền đóng góp. Cùng với việc tiếp cận nhiều hơn những nền tảng truyền thông toàn cầu là sự lan ra của mô hình được rèn giũa đầu tiên bởi những người rao giảng Phúc Âm qua truyền hình ở Mỹ. Sự di cư và đi lại tăng cao đã làm tăng tầm với của những giáo hội cải giáo cơ động và trao cho họ một vị trí tiềm năng về mặt nhân khẩu học ở nhiêu nước rồi từ đó phát triển lên.
Và những đức tin mới này càng giành được nhiều tín đồ hơn, sức nặng đạo lý của việc loại trừ và rút pháp thông công từ Giáo hội Công giáo La Mã càng ít đi. Chi phí cho việc là kẻ dị giáo giờ đã giảm bớt. [18]
Những tôn giáo lớn khác như đạo Hồi và Ấn Độ giáo có vẻ ít bị tổn thương hơn trước sự nổi lên của Thiên Chúa giáo Canh tân đặc sủng, có lẽ vì những lý do tôn giáo sâu xa. Nhưng ở một mức độ nào đó, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Do Thái giáo, Lão giáo, Thần đạo và những tôn giáo khác đều giảm tính tập trung và thứ bậc hơn so với các giáo hội Công giáo La Mã hay Tin Lành chủ lưu. Đại Giáo sĩ của Israel (Do Thái giáo), Đại Giáo sĩ của Cairo (Hồi giáo) và học giả (pandit) của một ngôi đền Ấn Độ giáo lớn mang theo sức nặng đạo đức nhất định và có thể tận hưởng quyền ra quyết định trong đất nước hay tôn giáo của họ, nhưng họ có những lãnh đạo đối địch trong chính đức tin của mình - những người có thể đưa ra những phán quyết khác hẳn trong bất kỳ vấn đề nào. Lấy ví dụ trong Hồi giáo, những yếu tố chính trị có thể khiến một số khuynh hướng nhất định (Sunni đối đầu Shia, hay Wahhabi đối đầu với những thông ngôn tự do hơn) áp đảo ở các quốc gia Hồi giáo, nhưng những học giả đầy ảnh hưởng vẫn đưa ra các tầm nhìn cạnh tranh nhau về đức tin với những tín đồ trên toàn thế giới thông qua các phương tiện truyền thông vô cùng tinh vi. Chẳng hạn, giáo sĩ sinh ở Ai Cập và sống ở Qatar, Imam Yusef al-Qaradawi, được ước tính đạt tới 60 triệu người xem qua chương trình truyền hình của ông trên kênh AI Jazeera. [19] Trong khi đó, Ấn Độ giáo vốn luôn là phi tập trung hóa, với vô số những nhánh phụ, những môn phái và những cộng đồng đức tin mà không có một cơ quan cai quản quyền hành đơn nhất. Ở quy mô nhỏ hơn, sự xuất khẩu tôn giáo của Ấn Độ từ Hội Vedanta tới Hội Hare Krishnas thông qua Amma, Sai Baba, Osho và Maharishi chia sẻ và khai thác một số lợi thế về mặt tổ chức so với các nhóm Ngũ Tuần với sự thành công tương tự.
LAO ĐỘNG: NHỮNG CÔNG ĐOÀN VÀ PHI CÔNG ĐOÀN MỚIGiống như Giáo hội Công giáo La Mã đối mặt với thách thức ngày càng gia tăng với quyền lực của mình từ những giáo phái mới nổi đã tỏ ra lanh lẹ và linh hoạt hơn trong việc đáp ứng nhu cầu của những người tìm kiếm sự cứu rỗi ngày nay, các liên đoàn lao động lâu đời cũng chật vật duy trì ảnh hưởng của mình khi đối mặt với những nỗ lực của những liên đoàn mới trong việc đáp ứng nhu cầu của người lao động được định hình bởi các cuộc cách mạng Nhiều Hơn, Di Động và Tinh Thần. “Phải chăng công đoàn ở Mỹ đã là lịch sử?” một dòng tít đặt câu hỏi trên trang ý kiến của báo Washington Post năm 2012. Harold Meyerson - một người tự nhận là một nhà báo dân chủ xã hội chủ nghĩa và vị người lao động - tiếp tục nhắc nhở người đọc rằng “ở Mỹ, công đoàn trong lĩnh vực tư nhân đã giảm xuống dưới 7% từ mức rất cao khoảng 40% sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai”. [20] Rõ ràng là quyền lực của các phong trào lao động ở Mỹ đang suy giảm và chắc chắn sự sụt giảm về số thành viên là một động cơ nhưng không phải là lý do duy nhất. Quyền lực của các tổ chức lao động truyền thống cũng suy tàn vì những lực mà, như đã được thảo luận ở các chương trước, ảnh hưởng tới tất cả các nhân tố từng đầy quyền lực theo truyền thống. Thật vậy, trong khi thế lực của phong trào lao động nhìn chung đang suy giảm, những tay chơi siêu hạng như AFL-CIO bị ảnh hưởng nhiều hơn so với những đối thủ mới, phi truyền thống xuất hiện trong lĩnh vực này, chẳng hạn như Liên đoàn Lao động Quốc tế Ngành dịch vụ (SEIU). Ở đây, chúng ta cũng lại thấy những rào cản từng bảo vệ những kẻ nắm quyền khỏi sự cạnh tranh với các đối thủ đã trở nên dễ xâm nhập, phá vỡ hay vượt qua hơn.
Lịch sử của các công đoàn lao động sánh vai với lịch sử của các doanh nghiệp hiện đại. Ai đó có thể tranh luận rằng các công đoàn lao động ở châu Âu thậm chí có cội rễ sâu sắc hơn bắt nguồn tại các phường hội và nghiệp đoàn nghề nghiệp suốt từ thời Trung Cổ. Nhưng sự nổi lên của nền công nghiệp quy mô nhà máy vào thế kỷ XIX gần như ngay lập tức đi kèm với sự nổi lên của những tổ chức có ý định cải thiện điều kiện và thúc đẩy quyền của những lao động trong lĩnh vực công nghiệp. Dù các công đoàn được thành lập ở Anh và Pháp từ nửa đầu thế kỷ đó, hầu hết những lá cờ đầu của công đoàn ở những nước công nghiệp lâu đời nhất được thành lập vào nửa sau thế kỷ XIX. Và dù cấu trúc của phong trào công đoàn thay đổi theo từng quốc gia - lấy ví dụ, giữa những quốc gia mà các công đoàn chủ yếu tập trung cụ thể vào các công ty nhất định và những quốc gia mà công đoàn bao phủ toàn bộ những lĩnh vực kinh doanh hay nhiều lĩnh vực tương đồng - các nghiệp đoàn - với ý định tập hợp tất cả những tổ chức rời rạc này và mang lại cho chúng một tiếng nói mạnh mẽ, tập trung, thống nhất - đã tồn tại từ cuối thế kỷ XIX. Tổ chức tiền thân của Đại hội Các Liên đoàn Lao động Anh (TUC) được thành lập năm 1866. Pháp hợp pháp hóa công đoàn vào năm 1884 và nghiệp đoàn lớn nhất nước này, CGT, được thành lập mười một năm sau đó. Ở Mỹ, một tổ chức với tên gọi Những Hiệp sĩ của Người lao động vốn là một nghiệp đoàn toàn quốc được thai nghén trong vòng những năm 1870 và 1880. Một trong những chi nhánh của tổ chức này, Nghiệp đoàn Lao động Mỹ, được thành lập năm 1996, sẽ tập trung hóa phong trào công đoàn trong vài thập kỷ sau đó.
Ngay cả chỉ trong ba quốc gia này, lịch sử đã phân rã trong thế kỷ XX: dù TUC tiếp tục là nhóm bảo trợ cho gần như tất cả công đoàn ở Anh tới tận ngày nay, CGT ở Pháp đã chứng kiến sự nổi lên của các nghiệp đoàn toàn quốc đối địch (CFDT, FO) với ít những định hướng chính trị cực đoan hơn. Ở Mỹ, Nghiệp đoàn Các tổ chức Công nghiệp (CIO) có quan điểm cực đoan hơn cho tới khi nó hợp nhất với AFL năm 1995, thành lập AFL-CIO, tổ chức sẽ bảo trợ cho hoạt động công đoàn ở Mỹ trong nửa thế kỷ. Trong ít nhất vài thập kỷ qua ở thế giới công nghiệp hóa - nơi các công đoàn sở hữu sự xâm nhập, sự thừa nhận và lịch sử sâu sắc nhất - hệ thống tiêu biểu bao gồm một hoặc hai tới bốn các nghiệp đoàn toàn quốc, tập hợp vài chục chi nhánh lớn (hoặc là những đơn vị cấu thành của tổ chức toàn quốc hoặc là các công đoàn độc lập nhưng hoạt động liên kết) thường được tổ chức theo ngành nghề. Đức chẳng hạn, có một nghiệp đoàn toàn quốc lớn, Tây Ban Nha có hai, Ý có ba và Nga, nơi các công đoàn một thời từng là các bộ phận cấu thành trong tổ chức của hệ thống Liên Xô, có bốn.
Nhưng dù các công đoàn nhận được nhiều tưởng thưởng vì những đột phá lớn trong đời sống lao động, ít ra là ở các nước giàu (“những người mang cuối tuần tới cho bạn”, như một khẩu hiệu trên miếng dán ở Mỹ), các công đoàn lớn trong lịch sử vài thập kỷ giờ đang đi xuống. Số lượng khác biệt và không phải mọi sự so sánh đều có ý nghĩa do những khác biệt cấu trúc theo từng nước. Dẫu vậy, cả mật độ của công đoàn (tỉ lệ phần trăm người lao động là hội viên công đoàn) và độ che phủ trong các thương lượng (tỉ lệ phần trăm người lao động được tham gia vào một thỏa thuận thương lượng tập thể, dù họ có là thành viên công đoàn hay không) đều đã suy giảm ở hầu hết các nước OECD, trong một số trường hợp giảm còn rất mạnh. Ở Mỹ, mật độ công đoàn đã giảm từ 36% sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai xuống chỉ còn 12% ngày nay. Trong khu vực tư nhân, sự sụt giảm thậm chí còn mạnh hơn, từ khoảng 1/3 nửa thế kỷ truớc xuống duới 8% hiện giờ. Mật độ công đoàn ở các nước OECD dao động từ 5,8% ở Thổ Nhĩ Kỳ tới 68,3% ở Thụy Điển (theo số liệu năm 2008), nhưng gần như trong mọi trường hợp, những con số này khá nhất chỉ giữ nguyên, còn hầu hết là suy giảm, theo một xu thế diễn ra ở phần lớn châu Âu vài thập kỷ qua.
Giai đoạn gần nhất của sụ tăng trưởng mạnh lượng hội viên công đoàn khắp các nước công nghiệp là những năm 1970. [21] Ngay cả năm 1981, AFL-CIO vẫn còn huy động được 250.000 người lao động tới Washington để phản đối việc Tổng thống Ronald Reagan sa thải những kiểm soát viên không lưu trong một Ngày Đoàn kết tổ chức vào tháng 9 năm đó. Tua nhanh tới ba thập kỷ sau, trong một cuộc biểu tình tổ chức ở công viên quốc gia National Mali năm 2010, các công đoàn lao động chỉ còn lôi kéo được một phần nhỏ những người tham dự, với lượng người tới ít hơn cuộc tuần hành của Glenn Beck thuộc phong trào Đảng Trà năm tuần lễ trước đó. [22] Và năm 2012, một thất bại quan trọng khác xác nhận quyền lực suy giảm của phong trào lao động Mỹ khi, bất chấp nỗ lực to lớn, các công đoàn vẫn thất bại trong việc giành chiến thắng trong một cuộc bầu cử tín nhiệm trực tiếp chống lại Thống đốc Scott Walker của bang Wisconsin.
Những nguyên nhân của sự suy giảm chung này bao gồm các yếu tố quen thuộc: sự toàn cầu hóa và sáng tạo công nghệ đã giúp giới chủ chuyển công ăn việc làm sang các nước khác dễ dàng hơn hay thậm chí là không cần vị trí đó nữa, làm thay đổi cán cân bằng quyền lực theo hướng có lợi cho chủ lao động. Dù việc thương lượng tập thể chính là để bảo vệ người lao động khỏi tình huống này, các lực lượng có lợi cho những thị trường lao động cơ động và toàn cầu, thường được ủng hộ bởi các chính phủ có tư tưởng cam kết với các cải cách định hướng thị trường, thường tỏ ra quá mạnh. Hơn nữa, sự công đoàn hóa về mặt lịch sử nở rộ trong các ngành và nghề nghiệp dựa trên lao động ít kỹ năng, vốn tổ chức dễ dàng hơn. Khi tự động hóa thay thế các lao động ít kỹ năng trong hàng loạt ngành công nghiệp nặng hay những công việc này được chuyển ra nước ngoài, nơi lao động ít kỹ năng chi phí thấp hơn, các công đoàn cần phải di chuyển sang những lĩnh vực mới, như các dịch vụ vốn cần sự tổ chức mới hoàn toàn. Ít công đoàn làm được. Ở nhiều nơi, những câu chuyện về tham nhũng và sự tự mãn trong công đoàn cũng là một phần của lý do.
Nhưng những thay đổi trong sự thu hút và tính hiệu quả của các công đoàn còn bao gồm các yếu tố mang tính tổ chức.
Cấu trúc của các công đoàn, từ sự chuyên môn hóa các công đoàn riêng lẻ hay địa phương theo công ty và lĩnh vực ngành nghề tới các nghiệp đoàn tập trung toàn quốc, phản chiếu một cách logic cấu trúc các công ty áp đảo nơi mà người lao động gia nhập công đoàn và được đại diện. Các công đoàn tiến hóa để đối đầu với những công ty lớn, có tính thứ bậc, hiện đại, vốn là mỏ neo của kinh doanh tư bản chủ nghĩa trong phần lớn thế kỷ XX trước sự toàn cầu hóa và linh động hóa - thúc đẩy các công ty này bắt đầu giảm quy mô, thuê ngoài và chuyển sang lao động bán thời gian và hợp đồng.
Một lĩnh vực sáng tạo lớn cho các công đoàn trong hai mươi năm qua là tìm ra cách gây áp lực lên các công ty mà hoạt động ngày càng trải rộng ra nhiều quốc gia, cũng như bảo vệ mức lương của người lao động trong nước bằng cách đấu tranh cho những tiêu chuẩn lao động ngặt nghèo hơn ở các nước khác. Nhưng những chiến thắng thi thoảng trong lĩnh vực này chỉ làm mềm đi một chút những góc cạnh của bức tranh chung. Ở Mỹ, một lĩnh vực mà các công đoàn giành lợi thế trong vài thập kỷ qua là khu vực công (công đoàn của các giáo viên chẳng hạn, hay công đoàn của các nhân viên nhà nước cấp thành phố và cấp hạt) - chính xác là lĩnh vực mà thị trường lao động đã thay đổi ít nhất, nơi người sử dụng lao động vẫn còn dựa vào sự tập trung hóa và hệ thống thứ bậc.
Những tổ chức giúp các công nhân giành chiến thắng trong những năm gần đây là các công đoàn truyền thống đã tư duy lại một cách sâu sắc cấu trúc và những phương pháp của họ, những công đoàn mới được thành lập để vượt qua các cấu trúc cũ và đôi khi là những phương tiện không phải là công đoàn lao động.
Từ năm 1996 tới 2010, Liên đoàn Lao động Quốc tế Ngành dịch vụ (SEIU) đã tăng gần gấp đôi quy mô, lên 2,1 triệu thành viên nhờ lướt trên làn sóng các cuộc cách mạng Nhiều Hơn, Di Động và Tinh Thần. Nhiều thành viên của nó, lấy ví dụ, lao động trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, một lĩnh vực đang tăng trưởng chịu trách nhiệm cho nhiều người sống lâu hơn và khỏe mạnh hơn. Nhiều thành viên của nó cũng là người mới nhập cư, những người hưởng lợi từ các xu hướng cơ động toàn cầu đang định hình lại các thị trường và nơi làm việc. Và giống như những người tiền nhiệm của mình trong các nhà máy và nhà kho, tất cả họ ban đầu đều bị lôi kéo tới Mỹ bởi khát khao hoàn thiện chính mình và đạt được những điều tốt đẹp hơn. Công đoàn được lãnh đạo bởi Andy Stern - được thừa nhận là một người sáng tạo không chỉ trong lĩnh vực lao động ở Mỹ mà cả trong việc vận động chính trị và xã hội, [23] giành được những chiến thắng lớn trong các thỏa thuận thương lượng tập thể cho một số trong những đối tượng lao động dễ tổn thương nhất ở Mỹ, như lao công và người trông trẻ, nhiều người phải làm vài công việc bán thời gian cùng lúc và không nói trôi chảy được tiếng Anh. [24] Trong lịch sử, nhóm này đã bị phong trào công đoàn phớt lờ để tập trung vào các nhà máy và những ngành công nghiệp truyền thống. Việc tổ chức họ đòi hỏi không chỉ một sáng kiến về phần Stern và đội nhóm của ông, mà cả những công cụ mới, bao gồm những liên minh bên ngoài phong trào lao động với các nhóm cộng đồng và người nhập cư, cùng sự can dự sâu hơn vào các cuộc bầu cử thay vì chỉ đơn giản huy động tiền và tới hòm phiếu vào ngày bầu cử để bỏ phiếu cho ứng viên của Đảng Dân chủ địa phương. Những chiến thuật thương lượng của Stern với các doanh nghiệp cũng phá vỡ các phương pháp truyền thống. Lấy ví dụ, ông tiên phong cho một sự sắp xếp, trong đó việc thương lượng tập thể cho một chỗ làm cụ thể sẽ chỉ bắt đầu sau khi đa số doanh nghiệp trong lĩnh vực liên quan đã được công đoàn hóa, qua đó giúp chủ lao động tránh khỏi bất lợi của việc là người đầu tiên và duy nhất ký thỏa thuận với công đoàn.
SEIU chủ yếu vẫn là một công đoàn thay vì là một giống loài lai tạo mới và nó phải tự đối mặt với gánh nặng về quy mô và sự cồng kềnh của chính mình. Trong số những sáng tạo của Stern có việc kết hợp các công đoàn địa phương thành những “siêu-công-đoàn-địa-phương” với hàng triệu công nhân hoặc hơn, với hy vọng đảm bảo quyền lực thương lượng lớn hơn - nhưng điều đó đi kèm với cái giá, những người chỉ trích ông lập luận, là đánh mất sự cơ động, dân chủ nội bộ và những kết quả thật sự. Và đối thủ của nó, Change to Win (Thay đổi để Chiến thắng), ra đời năm 2005 và cho tới giờ chưa sánh được với những thành công của SEIU, đại diện cho sự tán thành mô hình nghiệp đoàn, chứ không phải là bác bỏ. Nhưng sự tham gia mấu chốt của SEIU với các nhóm cộng đồng và người nhập cư, các nhà thờ và các đồng minh phi truyền thống cho thấy để duy trì sự tương thích của chính mình, các công đoàn công nghiệp lớn của quá khứ cần phải tiếp nhận những phương pháp cùng ngôn ngữ mới và chia sẻ quyền lực với những nhóm nhỏ hơn bên ngoài.
Không có quốc gia nào có nhiều lao động với nhiều lợi ích như Trung Quốc, nền kinh tế sản xuất công nghiệp lớn nhất tính theo dân số. Trung Quốc đã nạp nhiên liệu cho sự tăng trường kinh tế quyết liệt của nước này bằng cách khuyến khích sự phát triển một cơ sở hạ tầng khổng lồ những nhà máy, rất nhiều thuộc sở hữu các công ty nước ngoài hay là chi nhánh địa phương của những công ty này, nơi hàng nghìn công nhân, chủ yếu là những người di cư trẻ từ vùng nông thôn, làm việc nhiều giờ và sống trong khu ký túc xá của công ty, ăn uống và sinh hoạt cùng nhau. Các khu khuôn viên nhà máy này có thể phục vụ số người lên tới vài trăm nghìn. Nhu cầu cao về sức lao động đồng nghĩa với việc các công ty dần phải cải thiện điều kiện, nhưng các tổ chức cho người lao động bị coi là điều cấm kỵ. Giống như nhiều quốc gia toàn trị, Trung Quốc có một hệ thống công đoàn lao động chính thức vốn là một phần của kiến trúc chung của Đảng Cộng sản, là những cơ quan tham gia kiểm soát xã hội hơn là các phương tiện đấu tranh cho nhu cầu và phúc lợi của người lao động. Do đó, thay vì nỗ lực thương lượng tập thể, những người lao động đơn lẻ phản ứng lại các điều kiện làm việc tồi tệ bằng cách bỏ việc. Và lực lượng lao động trẻ thường chỉ làm việc ở nhà máy trong vài năm để chuẩn bị cho việc kết hôn hay để gửi tiền về nhà.
Nhưng các công nhân nhà máy Trung Quốc đã vượt qua cấu trúc công đoàn chính thức không thích hợp để tiến hành những hoạt động tập thể ngày càng can đảm - và hiệu quả - nhằm đòi hỏi giới chủ của họ đối xử tốt hơn. Những cuộc đình công, mà các chuyên gia nói rằng đã thu thập được khá nhiều động lực trong các thị trấn công nghiệp ở miền nam Trung Quốc, bùng nổ trước sự chứng kiến của cả thế giới vào đầu năm 2010 với những cuộc xung đột ở các nhà máy phụ tùng xe hơi của Honda và các nhà máy khác. Người lao động đòi quyền được thành lập các công đoàn độc lập để tổ chức các cuộc thương lượng giữa ban quản lý-người lao động thực thụ, cùng lúc đó thành lập chúng trên thực tế, gây ngạc nhiên cho chính những người thúc đẩy quyền người lao động ở Trung Quốc bởi sự tinh vi trong tổ chức và cơ chế bầu cử người đại diện của chúng. Những công nhân trẻ cũng gây ấn tượng cho giới quan sát bởi cách sử dụng khéo léo công nghệ để tổ chức những cuộc đình công và tránh việc, lấy ví dụ, phải tập hợp tất cả những người lãnh đạo lại một chỗ, nơi họ có thể bị bắt. Họ biết cách tránh sử dụng dịch vụ nhắn tin chính ở Trung Quốc QQ.com, nơi tập trung đông đảo các điệp viên ngầm của chính phủ. Honda, Toyota, công ty Đài Loan Foxconn (chế tạo điện thoại iPhone) và những hãng công nghiệp khác đã đồng ý tăng lương và trợ cấp bữa ăn và chỗ ở, dù không bằng như yêu cầu của các công nhân. Thành công này có thể đã không tới nếu không bởi sự thiếu hụt lao động nan giải lúc đó ở một nền kinh tế tăng trưởng quá nóng. Dẫu vậy, điều đã xảy ra ở Trung Quốc cho thấy việc các công nhân tự tổ chức công đoàn ở mức độ địa phương, nhà máy dễ dàng hơn thế nào khi các công đoàn chính thức không phản hồi hay không quan tâm tới việc phục vụ họ. [25]
Một số mô hình hoạt động vì quyền lợi lao động đang nổi lên được áp dụng bởi những tổ chức không phải là công đoàn - thật vậy, những tổ chức này đã bén rễ trong các ngành và lĩnh vực mà việc tổ chức công đoàn quá phức tạp và đắt đỏ. Một ví dụ tới từ Los Angeles, nơi Trung tâm Công nhân Dệt may - một nhóm nhỏ, gọn nhẹ các nhà hoạt động xuất thân từ các luật sư cấp tiến, những nhóm đấu tranh cho quyền người nhập cư và đại diện của các cộng đồng sắc tộc thiểu số - xoay xở giành được thắng lợi lớn trước các công ty dựa trên lao động chân tay. Với một số lượng lớn các nhà máy nhỏ chủ yếu chất đầy những công nhân không có giấy tờ với trình độ tiếng Anh kém, làm việc tới 12 tiếng mỗi ngày trong những điều kiện thường vi phạm các quy định về y tế và an toàn, lĩnh vực này cần sự can thiệp khẩn thiết, nhưng cực kỳ khó để một công đoàn truyền thống tham gia. Nhưng Trung tâm Công nhân Dệt may đã lãnh đạo thành công những cuộc tẩy chay dân tới các thỏa thuận với một số nhãn hàng quần áo về việc sử dụng sức lao động của các công nhân này. Nhỏ về quy mô và thu hút nguồn lực từ nhiều tổ chức trong những chuyên ngành khác nhau, các trung tâm công nhân là sự bổ sung cho các công đoàn lao động nhưng lại hoạt động theo một mô hình gần như đối lập. Chúng đang tăng nhanh: từ chỉ 5 trung tâm công nhân ở Mỹ năm 1992 lên 160 vào năm 2007. [26]
TỪ THIỆN: ĐƯA BONO VÀO CẬN-BONOHai thập kỷ qua đã chứng kiến một cuộc cách mạng trong việc hiến tặng trên toàn cầu. Ngay cả với ảnh hưởng của cuộc suy thoái toàn cầu, số liệu hiện có cho thấy nhiều nhà tài trợ đang hiến tặng tiền bạc cho nhiều người hơn bao giờ hết. Chỉ lấy một con số sơ bộ, từ 2003 tới 2010, tổng số viện trợ phát triển chính thức và tư nhân trên toàn thế giới đã tăng từ 136 tỉ đô-la Mỹ lên 509 tỉ đô-la Mỹ. [27] Những người Mỹ trong năm 2010 đóng góp 291 tỉ đô-la Mỹ cho rất nhiều sứ mệnh khác nhau, [28] số các quỹ từ thiện ở Mỹ vẫn tiếp tục tăng lên, từ 21.877 vào năm 1975 lên 61.810 vào năm 2001, rồi 76.545 năm 2009. [29] Cùng nhau, các cá nhân và định chế tư nhân đang bắt đầu bắt kịp, hay thậm chí vượt qua, những nỗ lực chính thức của chính phủ ở hải ngoại. Trong những năm 1990 chẳng hạn, tiền hiến tặng ra quốc tế của các cá nhân và định chế tư nhân Mỹ đã tăng gấp bốn lần. Nó lại tăng gấp đôi lần nữa từ 1998 tới 2007, đạt mức 39,6 tỉ đô-la Mỹ, tổng cộng lớn hơn 50% tổng cam kết thường niên của Ngân hàng Thế giới. Và từ thiện cũng có một bộ mặt mới, dù là qua 81 tỉ phú Mỹ tới năm 2012 đã ký vào Cam kết Cho đi (Giving Pledge) hiến tặng gần như toàn bộ tài sản của họ, hay qua hàng trăm nghìn người sử dụng điện thoại di động đã nhắn tin ủng hộ hàng triệu đô-la cho các nỗ lực giảm nhẹ động đất ở Haiti, hay qua binh đoàn các “nhà từ thiện đầu tư mạo hiểm” tập hợp nhau ở những buổi hội thảo, tiến hành những chuyến thăm thực địa tới các trường học trong thành phố hay các dự án nông thôn ở nước ngoài để kiểm tra trực tiếp những dự án mà họ bỏ tiền, hay trao đổi những ý tưởng và những cách hành động tốt nhất trong các diễn đàn trên mạng.
Các quỹ lớn (Rockefeller, Carnegie, MacArthur, Ford), các cơ quan giảm nhẹ thiên tai lớn (Hội Chữ thập đỏ, Oxfam, Bác sĩ Không biên giới) và các cơ quan chính phủ lớn (USAID, DFID của Anh, các tổ chức đa phương như Ngân hàng Thế giới) vẫn đóng một vai trò lớn trong việc giải ngân các nguồn tiền và hỗ trợ chuyên môn cho những người thiệt thòi và nghèo đói của thế giới. Thật ra, trên nhiều phương diện, bao gồm tổng những khoản tiền bỏ ra, họ vẫn thống trị trong lĩnh vực này. Nhưng sức bật nằm ở những tay chơi mới: các quỹ siêu hạng nhảy tót lên vị trí thống lĩnh như Quỹ Bill và Melinda Gates, vốn đã trở thành quỹ lớn nhất thế giới trong không đầy một thập kỷ; những quỹ cá nhân và quy mô nhỏ mọc lên như nấm trong mười lăm năm qua; hăng hà sa số các nền tảng, thị trường, trang web tổng hợp và nhà tư vấn viện trợ tư nhân đang xây dựng những mô hình mới từ tín dụng vi mô* cho máy khâu của một bà mẹ Ấn Độ cho tới các sáng kiến tài trợ hợp tác công-tư cho xe buýt mới của thành phố.
Tín dụng vi mô (Micro-loans): Việc cấp cho các hộ gia đình rất nghèo các khoản vay rất nhỏ nhằm mục đích giúp họ tham gia vào các hoạt động sản xuất, hoặc khởi tạo các hoạt động kinh doanh nhỏ, vì những người nghèo và rất nghèo có nhu cầu rất lớn đối với các sản phẩm tài chính, nhưng không tiếp cận được các thể chế tài chính chính thức.
Cuộc cách mạng ngày nay trong lĩnh vực từ thiện chia sẻ nhiều đặc điểm lớn của một thế kỷ trước, khi những tập đoàn khổng lồ thành lập Hợp doanh Carnegie (1911), Quỹ Rockefeller (1913) và muộn hơn một chút, Quỹ Ford (1936) - những định chế khổng lồ và đầy ảnh hưởng trong hàng thập kỷ là những hình mẫu toàn cầu. Giống như khi đó, sự chuyển đổi của hoạt động từ thiện đang diễn ra theo sau một giai đoạn tạo ra của cải ngoạn mục, lần này bắt nguồn từ công nghệ thông tin, liên lạc và khoa học đời sống thay vì đường sắt, thép và xăng. Và một lần nữa, trung tâm của sự sáng tạo trong từ thiện là nước Mỹ, quốc gia mà việc hiến tặng cá nhân gần như được dệt chặt vào tấm vải lớn của văn hóa kinh doanh.
Là một người ủng hộ “hoạt động từ thiện một cách khoa học”, Andrew Carnegie tin ở việc tiến hành hoạt động từ thiện theo những nguyên lý vốn hiệu quả trong công nghiệp hiện đại, những nguyên lý đã xây dựng nên những tập đoàn khổng lồ vào đầu thế kỷ XX. Ông hối thúc những người giàu có trong thời đại của mình “áp dụng trong việc làm từ thiện cùng những kỹ năng và sự quyết liệt chú trọng hiệu quả trong kinh doanh mà họ đã áp dụng để tích tụ nên khối tài sản của mình”. Hoàn toàn logic khi đạt kết quả là những định chế khổng lồ với diện hoạt động rộng được tạo ra. Những ban giám đốc cùng giám đốc chương trình của các quỹ lớn trở thành những tay chơi chủ chốt: các hình mẫu bỏ tiền của họ là sự dẫn dắt cho những nhà tài trợ khác, các lựa chọn dự án của họ là hình mẫu về những đối tượng được giúp đỡ.
Trong khi đó, những nhà tài trợ cá nhân nhỏ có ít lựa chọn trong việc tham gia trực tiếp vào các dự án mà họ hỗ trợ tiền. Những kênh từ thiện không thiếu: các tổ chức như United Way, March of Dimes, Hội Chữ thập đỏ, Đội quân Cứu tế và nhiều nhóm tôn giáo quyên góp tiền bảo trợ ở các nhà thờ, cửa hàng, nơi làm việc và dùng chúng cho những sứ mệnh mà họ thấy là cần thiết và phù hợp với triết lý của mình nhất. Trong những nền kinh tế giàu có và đang nổi khác, nhóm chóp bu các tổ chức cứu trợ được phát triển qua thời gian. Vào những năm 1970 và 1980, cư dân các nước giàu có thể trông đợi thư vào cuối năm và những lời kêu gọi khẩn cấp từ đại diện các tổ chức hỗ trợ nạn nhân thiên tai (MSF, Oxfam), những loài bị đe dọa (WWF), các tù nhân chính trị (Ân xá Quốc tế) và vân vân. Tất cả đều xứng đáng, nhưng chỉ một vài tổ chức cho những nhà tài trợ nhỏ cơ hội thực hiện cam kết lâu dài với một dự án hay người nhận cụ thể, chứ đừng nói tương tác với những người nhận hay gửi gắm suy nghĩ và chia sẻ trải nghiệm cùng tiền bạc của họ. Để làm như thế, bạn phải giàu.
Giống loài mới của những nhà từ thiện ngày nay đưa ra một tầm nhìn khác, một giống loài có được thông tin thông qua xuất thân, nhu cầu và những trải nghiệm của chính họ trên thị trường. Hãy bắt đầu với xuất thân của họ. Quỹ Bill và Melinda Gates, được thành lập ở Seattle năm 1994, có thể là một con khỉ đột nặng 800 pound trong hoạt động từ thiện hiện đại, nhưng nó không phải là quỹ duy nhất sinh ra từ sự giàu có tạo nên bởi nền kinh tế mới. Ở California chẳng hạn, số quỹ đã tăng 71% từ 1999 tới 2009, và hiến tặng hơn gấp đôi từ 2,8 tỉ đô-la Mỹ lên 6 tỉ đô-la Mỹ. [30] Sự tăng trưởng đó giúp giải thích việc chuyển đổi trong sức hút từ thiện ở Mỹ thập kỷ qua: năm 2003, lần đầu tiên miền Tây vượt qua miền Trung Tây trong việc hiến tặng nói chung và năm 2006, nó vượt qua cả miền Đông Bắc, thành trì của hoạt động từ thiện Mỹ. [31] Trong khi những người hiến tặng cá nhân mới này - số quỹ gia đình đã tăng mạnh 40% từ 2000 tới 2005 - có những cự phú công nghệ kiểu này hay kiểu khác, một số đồng thời là những người nổi tiếng mà một người hay đùa trên tờ The Economist gọi là “celanthropy” (ghép giữa “celebrity”: người nổi tiếng và “philanthropy”: từ thiện): Bono với Quỹ One, Matt Damon thúc đẩy việc tiếp cận nguồn nước sạch và Brad Pitt phát triển các ngôi nhà kính để tái thiết New Orleans. Những vận động viên siêu sao, như Tiger Woods hay Andre Agassi, có những quỹ kiểm soát hàng chục triệu đô-la tài sản. Nhưng còn nhiều quỹ cá nhân nhỏ hơn của các vận động viên cỡ thường, các cầu thủ bóng bầu dục của giải NFL, cầu thủ bóng rổ của giải NBA hay các cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp châu Âu, mà tên tuổi ít được biết đến bên ngoài lực lượng cổ động viên cuồng nhiệt.
Với nhiều người hiến tặng mới này, những thái độ và phương pháp làm từ thiện truyền thống thật đáng ghét. Thay vì cho các định chế lớn, lấy ví dụ, họ muốn tự tạo ra tổ chức của mình. Với người đóng góp, lợi ích tiềm tàng của một quỹ tư nhân là khả năng lựa chọn ai sẽ nhận được khoản tài trợ nào, theo những điều kiện nào, mà không cần ủy quyền những chức năng đó cho một cơ quan nào khác. Nó giúp lập ra một “con đường tắt” cho hoạt động từ thiện, cắt giảm những khâu trung gian với rủi ro tạo thêm chi phí hành chính cũng như pha loãng hay phân tán mục đích của người tài trợ.
Thay vì bỏ tiền cho các nhà hát, thư viện hay bảo tàng, họ thường muốn giải quyết những vấn đề cụ thể bằng cách áp dụng kinh nghiệm và phương pháp kinh doanh của chính mình. Trong khi hoạt động từ thiện “hướng tới kết quả” được thực hiện trong hơn một thế kỷ và gặt hái thành công trong những chiến dịch dẫn tới cuộc Cách mạng Xanh, cách tiếp cận dựa trên bằng chứng và tập trung vào mục tiêu của nó được ca tụng trong hai thập kỷ qua bởi cựu binh của cộng đồng công nghệ, những người đã áp dụng tư duy doanh nhân và kỹ năng kỹ sư của mình vào một số trong những vấn đề nan giải nhất của thế giới.
Thật vậy, với nhiều tay chơi mới này, hoạt động từ thiện không khác gì một sự đầu tư kinh doanh. Là một tiếng vang có chủ tâm của hoạt động đầu tư mạo hiểm, “từ thiện đầu tư mạo hiểm*” phản ánh việc áp dụng kiểu đầu tư đó - có chọn lọc và theo sát, đặt mục tiêu thời hạn vừa và dài, kết hợp nợ với vốn cổ phần - vào hoạt động từ thiện. Giống như các nhà đầu tư mạo hiểm, các nhà hoạt động từ thiện đầu tư mạo hiểm có những sở thích và hồ sơ đầu tư đặc biệt ưa thích. Chẳng hạn, một tổ chức tên gọi Venture Philanthropy Partners, hỗ trợ các nhóm giúp đỡ trẻ em ở khu vực Washington, DC. Nó không chỉ cung cấp tiền mà còn hỗ trợ kỹ thuật và tham dự vào cuộc sống thường nhật của các nhóm mà nó tài trợ, giám sát ngặt nghèo sự tiến bộ của chúng. Một nhóm tên gọi Quỹ Acumen hỗ trợ các doanh nhân ở những nước đang phát triển đáp ứng được các tiêu chí rất cụ thể: doanh nghiệp của họ phải cung ứng một sản phẩm hay dịch vụ phục vụ trực tiếp cho người nghèo, nó phải đủ quy mô để phổ biến tới lượng dân số tối thiểu 1 triệu người. Lấy ví dụ, một đơn vị nhận là công ty khởi nghiệp cung cấp các cửa hàng bán lẻ và thông tin ở vùng nông thôn tại Ấn Độ. Acumen hỗ trợ một phần bằng các khoản vay không hoàn lại, nhưng chủ yếu là qua các khoản vay và đầu tư cổ phần, làm mờ đi đáng kể ranh giới giữa kinh doanh và từ thiện. Số tiền liên quan vẫn còn nhỏ: năm 2007, danh mục cho vay của Acumen mới ở mức 27 triệu đô-la Mỹ. Dẫu vậy, nếu xem xét việc tổ chức được thành lập với chỉ 400.000 đô-la Mỹ vào năm 2001 và rằng nó chỉ là một giọt nước trong biển cả hoạt động từ thiện đầu tư, thì tốc độ thành công của nó cho thấy xu hướng chung rộng lớn ra sao. [32]
Từ thiện đầu tư mạo hiểm (Venture philanthropy): ứng dụng họặc chuyên hướng những khái niệm và kỹ thuật xuất vốn đầu tư mạo hiểm truyền thống để đạt được các mục tiêu từ thiện.
Nhưng chuyển đổi sâu sắc nhất trong hoạt động từ thiện ngày nay là sự nổi lên của các công cụ cho phép những nhà tài trợ hay cho vay nhỏ, hoạt động ở quy mô chỉ vài trăm hay thậm chí là vài chục đô-la, có thể đóng góp cụ thể, trực tiếp, gắn bó với một người nhận hay dự án cụ thể, vốn là điều không thể khi ở ngoài phạm vi khu nhà lân cận hay nhóm những người quen biết của người đó.
Sự chuyển đổi này đã diễn ra chủ yếu trên Internet. Kiva*, được thành lập năm 2005, gói những đóng góp nhỏ thành các khoản cho vay vi mô đến những đối tượng nhận trên toàn thế giới, những người này được xác định qua tên tuổi và có thể gửi cập nhật của mình cho những người bỏ tiền cá nhân. GlobalGiving, được thành lập bởi hai cựu nhân viên Ngân hàng Thế giới vào năm 2002, theo đuổi một mô hình tương tự trong đó những nhà tài trợ ủng hộ các dự án cụ thể do họ lựa chọn. Sử dụng mạng thanh toán toàn cầu dựa trên web PayPal, những doanh nghiệp có thể t?