← Quay lại trang sách

CHƯƠNG MƯỜI SỰ SUY TÀN CỦA QUYỀN LỰC

Chiếc Cốc Đầy Một Nửa Hay Vơi Một Nửa?

Tôi ý thức rằng tôi đang lập luận quyền lực suy tàn ngay cả khi những dòng tít chỉ theo hướng ngược lại. Một số chính phủ đang trở nên lớn hơn. Trong những quốc gia, sự giàu có và thu nhập thật ra đang tập trung hơn. Giai cấp trung lưu ở các nước giàu đang giảm đi và một nhóm nhỏ ít người đang tích tụ sự giàu có không thể tưởng tượng nổi. Các nhóm và các cá nhân vô cùng giàu có sử dụng tiền để đạt được ảnh hưởng chính trị to lớn. Ở Mỹ, một tỉ phú chủ sòng bạc, giám đốc những quỹ đầu tư mạo hiểm và các cự phú bất động sản sử dụng một cách công khai tiền bạc của mình để tài trợ cho những “Siêu ủy ban” thúc đẩy những nghị trình hẹp và quảng bá cho các ứng viên sẽ bảo vệ cho lợi ích kinh doanh của họ. Ở Nga, Trung Quốc và nhiều nơi khác, những nhà giàu mới móc ngoặc với các quan chức chính phủ để cầm trịch - cả theo nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. Những nhà tài phiệt truyền thông sử dụng ảnh hưởng của mình để mở rộng quyền lực truyền thông tới tận những dinh Tổng thống. Những người thuộc nhóm “99%” cảm thấy bị lừa gạt, bị bần cùng hóa và bị lợi dụng bởi những người giàu và nhóm 1% đầy quyền lực.

Vậy thì, làm sao mà quyền lực lại có thể đang suy tàn, phân tán và trở nên phù du? Hay những kẻ nhiều quyền lực đang bị bao vây? Bởi vì, như các trang này cho thấy, những kẻ nhiều quyền lực ngày nay bị hạn chế hơn so với trong quá khứ, việc nắm giữ quyền lực của họ ít đảm bảo hơn nhiều so với những người tiền nhiệm và nhiệm kỳ của họ ngắn hơn.

Vladimir Putin chẳng hạn, chắc chắn có quyền lực khủng khiếp, nhưng ông ngày càng phải vật lộn trong những danh mục lựa chọn đã bị thu hẹp kể từ nhiệm kỳ Tổng thống Nga thứ nhất của mình, và sau đó, trong vai trò Thủ tướng. Tương tự, có vẻ như số ít ỏi các giám đốc ngân hàng đã thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng tài chính 2008 sẽ ngự trị hệ thống tài chính toàn cầu trong một thời gian dài. Tuy nhiên, không đầy bốn năm sau đó, không ít người đã mất việc trong khi những người khác bị vây hãm vì bị phát hiện gian lận giá cả (Barclays), che giấu những giao dịch thua lỗ (JPMorganChase), rửa tiền (HSBC), giao dịch trái phép với Iran (Standard Chartered), giao dịch nội gián bởi một trong các thành viên ban quản trị (Goldman Sachs) và vân vân. Những sự kiện này không làm tiêu tan sức mạnh kinh tế của các ngân hàng lớn và ngành vận động hành lang cho ngân hàng tiếp tục sở hữu ảnh hưởng chính trị cực lớn. Nhưng một số giám đốc hàng đầu đã mất quyền lực và các ngân hàng chắc chắn bị hạn chế hơn trong những việc họ có thể làm. Chỉ những tổng giám đốc ngây thơ nhất hay kiêu ngạo một cách mù quáng - không chỉ trong ngành ngân hàng - mới cảm thấy rằng công việc của mình đang an toàn. Sự bất bình đẳng kinh tế - mà một số nước từ lâu đã phải chịu đựng, hay thậm chí chào mừng - đang trở thành tâm điểm tranh luận tại nhiều quốc gia. Từ Mỹ và châu Âu tới những con phố của thế giới A-rập hay thậm chí là Trung Quốc, việc hòa bình - hay ít ra là sự im lặng - cùng tồn tại với bất bình đẳng đang kết thúc.

Và như chúng ta đã thấy ở các chương trước, những nỗ lực chung của con người ở nhiều lĩnh vực khác nhau - một thời bị thống trị bởi các tay chơi quyền lực truyền thống - giờ đang trở thành chiến trường cạnh tranh nơi những kẻ nắm quyền tại vị thường xuyên bị thách thức và, ngày càng thường xuyên, bị đánh bật.

Đây là tin tốt.

ĂN MỪNG SỰ SUY TÀN CỦA QUYỀN LỰC

Những hệ quả tích cực không thể chối cãi của sự suy tàn quyền lực bao gồm những xã hội tự do hơn, nhiều cuộc bầu cử và lựa chọn cho các cử tri hơn, những nền tảng mới cho việc tổ chức các cộng đồng, nhiều ý tưởng và khả năng hơn, nhiều đầu tư và thương mại hơn, nhiều sự cạnh tranh giữa các công ty và do đó nhiều lựa chọn cho người tiêu dùng hơn. Không điều nào trong những hệ quả này mang tính phổ quát, chúng ta có thể tìm thấy những ngoại lệ gây nản lòng trong mỗi trường hợp, nhưng xu hướng lớn hơn rõ ràng là có thể chứng minh được.

Trong chính trị chẳng hạn, sự nổi lên của tự do chính trị là rõ ràng, chủ nghĩa toàn trị đang lui dần. Tất nhiên, sự bùng nổ dân chủ còn lâu mới hoàn tất. Một số quốc gia (hãy nghĩ tới Trung Quốc, A-rập Saudi và vài quốc gia khác) chưa trải qua điều đó, hay như Nga, mới chỉ triển khai được một phần, một cách đáng buồn. Nhưng những lực lượng làm thay đổi chủ nghĩa toàn trị vẫn đang hoạt động ngày càng gia tăng ở các quảng trường công cộng vốn đã trở thành biểu tượng trong Mùa xuân A-rập, thậm chí ở cả những con phố của Tehran, trên các trang web không kiểm soát được và trong các xã hội khác bị cai trị bởi những thể chế áp bức dựa vào việc kiểm soát người dân của mình. [1]

Và tại sao lại không? Với phần còn lại của thế giới, quyền lực chính trị đã trở nên ít tập trung hơn một cách liên tục. Trong những thập kỷ gần đây, một số lượng chưa có tiền lệ các đảng phái và phe nhóm chính trị đã tham gia cạnh tranh một cách đáng tin cậy cho quyền lực bầu cử, các chính phủ nắm quyền trở nên dễ tổn thương hơn bao giờ hết trước việc sụp đổ hay phải thay đổi. Ngày càng ít các nhà khoa học chính trị nhiều ảnh hưởng tranh luận, như một số đã làm ở châu Á những năm 1990 gần đây, về những phẩm chất của “sự ổn định chính trị” và sự chuyển giao có kiểm soát, hay cảnh báo rằng một số quốc gia có thể không đủ lành mạnh và cố kết để đột ngột mở cửa với nền dân chủ. [2] Trở lại những năm 1970, học giả Harvard danh tiếng, Samuel Huntington, có thể chỉ ra vô số quốc gia bước ra từ sự cai trị thuộc địa hay trải qua sự thay đổi xã hội nhanh chóng, liên hệ tốc độ và phạm vi của những thay đổi đó với một hình mẫu bạo lực, bạo loạn, nổi dậy hay đảo chính. “Toàn trị phải tồn tại trước khi nó bị hạn chế bớt”, Huntington viết, “và rất hiếm hoi sự ủy quyền ở những quốc gia đang hiện đại hóa đó, nơi chính quyền phụ thuộc cả vào những trí thức xa rời quần chúng, những viên đại tá vô kỷ luật và những sinh viên bạo loạn”. [3] Ngày nay những quan điểm như thế khó có chỗ đứng, có lẽ chỉ trừ trong những học thuyết và báo chí chính thống của kẻ cường quyền, hay trong số những người lo sợ rằng sự sụp đổ của các nhà độc tài Trung Đông tất yếu dẫn tới việc quyền lực rơi vào tay những chế độ độc tài thậm chí còn áp bức và theo đuổi chính sách ngu dân nhiều hơn. Và chúng ta biết rằng trong những thời kỳ chuyển giao sang dân chủ, các quốc gia thường trải qua những chấn động chính trị khiến chúng khó quản trị và như thế, mang lại hồi tưởng đẹp về sự ổn định cũ thời toàn trị.

Sự toàn cầu hóa kinh tế cung cấp thêm nhiều lý do để ăn mừng vì sự suy tàn của quyền lực trong những tay chơi siêu hạng truyền thống. Các công ty nhỏ, ở xa xôi giờ giành lấy thị phần từ tay các tập đoàn vốn là những tên tuổi thương hiệu. Những công ty khởi nghiệp khai phá các mô hình kinh doanh mới khiến những tập đoàn khổng lồ rối loạn. Như chúng ta đã thấy ở Chương 8, trong một ví dụ nói lên nhiều điều về ảnh hưởng tới quyền lực của các cuộc cách mạng Nhiều Hơn, Di Động và Tinh Thần, những mô hình đầu tư mạo hiểm đã lan tỏa từ Thung lũng Silicon tới nhiều quốc gia khác, kích thích các kỹ năng kinh doanh tiềm tàng ở những trung tâm sáng tạo kinh doanh khó ngờ tới một thời. Và các công ty đa quốc gia mới đã nổi lên từ những nước mà cho tới gần đây không công ty đẳng cấp thế giới nào coi là nơi có thể sản sinh ra những đối thủ tiềm năng với họ.

Chúng ta biết những chuyển đổi trong trật tự các công ty cũng lâu đời như kinh tế thị trường hiện đại và rằng mối liên hệ sâu sắc giữa sự cách tân và “phá hủy sáng tạo” là trái tim của sức sống tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, những thay đổi to lớn trên toàn cầu mà giờ chúng ta chứng kiến còn lớn hơn thế. [4] Chúng có thể đã không xảy ra nếu không có sự suy tàn của quyền lực.

Cốt lõi ở đây là một điêu gì đó chúng ta khó mà không thích: cũng như sự suy tàn của quyền lực trong chính trị đã làm xói mòn những chế độ toàn trị, trong kinh doanh nó đã tước đoạt của những công ty độc quyền và độc quyền nhóm trong khi trao cho người tiêu dùng nhiều lựa chọn hơn, giá thấp hơn và chất lượng tốt hơn. Kinh tế học cổ điển và tư duy chính trị tự do là tiền đề cho ý tưởng rằng các doanh nghiệp độc quyền hầu như là điều không được mong muốn. Ngay cả trong những lĩnh vực mà sự độc quyền từng được coi là không thể tránh khỏi, chẳng hạn như việc cung cấp nước và điện, giờ cũng có thể được mở cửa cho cạnh tranh. Những người trẻ tuổi ngày nay khó có thể tưởng tượng được tình cảnh mà tất cả các công ty điện thoại trên toàn thế giới từng là những doanh nghiệp độc quyền, được sở hữu bởi nhà nước và thường không có khả năng cung cấp dịch vụ tốt. Vậy mà đó là điều đã xảy ra không lâu trước đây. Ngày nay, điện thoại là một ngành cạnh tranh khốc liệt, không công ty nào cảm thấy an toàn hay ổn định bất chấp quy mô và các nguồn lực của nó. Sự chán ghét của chúng ta với độc quyền mở rộng sang các doanh nghiệp độc quyền nhóm và những các-ten. Vì thế sự suy tàn của quyền lực càng ngăn một nhóm nhỏ các công ty lớn lạm dụng quyền lực của họ lên thị trường, thì chúng ta càng có thể ăn mừng.

ĐIỀU KHÔNG THỂ THÍCH? NHỮNG NGUY CƠ CỦA SỰ SUY TÀN

Nhưng ăn mừng những lợi ích của sự suy tàn quyền lực không thể khiến chúng ta làm ngơ việc cốc nước đầy một nửa cũng là vơi một nửa. Sự suy tàn của quyền lực cũng bao gồm những nguy cơ.

Đó là một trong những lý do cơ bản giải thích tại sao các chính phủ ngày càng không thể ra quyết định cần thiết để xử lý những vấn đề của quốc gia họ, hay tại sao nhóm những quốc gia dẫn dắt đang ngày càng trở nên chậm chạp và kém hiệu quả hơn trong việc xử lý những vấn đề quốc tế.

Sự suy tàn của quyền lực cũng là một trong những lực lượng thúc đẩy sự phát tán lan tràn tội phạm, khủng bố hay những nhân tố xấu xa phi nhà nước khác. Với chúng, những đường biên giới không còn ý nghĩa và những chính phủ trở thành vật ngăn trở thiếu hiệu quả mà chúng tấn công, phá hoại hay bỏ qua. [5]

Thêm vào đó, sự nhạt phai của quyền lực đã tạo điều kiện cho sự nổi lên của chính trị cực đoan - những kẻ ly khai, bài ngoại và các giáo phái - trong những nền dân chủ đã ổn định lẫn những hệ thống chính trị còn non nớt.

Nó nuôi dưỡng tất cả những kiểu phương tiện ngẫu tác mà các nhóm, các công ty, và các hãng tin dùng để né tránh sự soi mói truyền thống và những nhà tài trợ của chúng ẩn mình trong sự hỗn độn của Internet. Nó cũng tạo ra nhiều cơ hội hơn cho lừa đảo trong kinh doanh và gian lận trong thương mại.

Thường phải xảy ra những vụ gây chú ý lớn và những tin tức gây sốc về các cá nhân hay tổ chức để chúng ta thoáng có một cái nhìn về vấn đề lớn. Nhưng mỗi một tay chơi cá nhân này đều dễ tổn thương với sự suy tàn của quyền lực. Tất nhiên, điều đó không có nghĩa là chúng ta không cần lo lắng về chúng - sự cạnh tranh của các băng đảng tội phạm không làm mọi chuyện tốt hơn. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng Taliban, AI Qaeda, băng Zetas, những tổ chức buôn ma túy Mexico, có những nhóm ly khai, chi nhánh và biến thể của riêng chúng; rằng nguy cơ từ một sự thống nhất khác với nguy cơ tạo ra bởi sự trải qua quá trình phân tán quyền lực nhanh chóng và ngày càng yếu đi giữa các khu vực, các nhóm lợi ích và những phe phái cạnh tranh nhau trong nội bộ lực lượng đương quyền; và vân vân.

Rốt cuộc, các tay chơi sẽ bị thay thế, bị vượt qua bởi những đối thủ của chính mình, hay biến đổi từ bên trong. Trong nhiều ví dụ, những công cụ họ sử dụng để thực thi quyền lực vốn có sẽ ở lại, trong những trường hợp khác, những tay chơi mới sẽ trở nên hùng mạnh thông qua sự sáng tạo ra những phương tiện mới để giành quyền lực của họ. Quyền lực mà Facebook hay Google đang tận hưởng nằm ở những công nghệ mới mà những kẻ khác không có. AI Qaeda sở hữu quyền lực dựa trên những cách thức “giải quyết công việc” mới và tàn bạo của nó.

Hơn thế, chỉ riêng quy mô của các cuộc cách mạng Nhiều Hơn, Di Động và Tinh Thần đã đồng thời khiến những vấn đề của chúng ta lớn hơn và phức tạp hơn, cũng như làm yếu đi những cơ chế xử lý vấn đề của chúng ta. Hãy xem xét nguy cơ biến đổi khí hậu: ngay cả khi việc thoát khỏi nghèo khó của Trung Quốc và Ấn Độ giúp nâng cao mức sống cho hàng tỉ người, nó cũng làm tăng tốc mạnh mẽ việc xả khí thải gây hiệu ứng nhà kính của các nước này. Trung Quốc vượt qua Mỹ để trở thành nước đơn lẻ phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính lớn nhất vào năm 2006 và Ấn Độ xếp thứ tư năm đó. Bất cứ nỗ lực làm giảm phát thải khí carbon nào ở một nước phải tính đến những hành động của các nước khác - ít ra là vì khi các chính sách môi trường và cơ chế định giá phát thải carbon ở các nước phát triển bén rễ, các công ty sẽ phản ứng lại bằng cách chuyển sản xuất phát thải carbon nhiều của họ ra nước ngoài. Từ xuất khẩu vũ khí và thỏa thuận về Internet tới nghề cá và thương mại nông nghiệp, gần như mọi đề tài thương lượng quốc tế ngày nay liên quan nhiều hơn tới những yêu cầu nhiều hơn từ một nhóm ngày càng đông những kẻ có lợi ích liên quan. Kết quả là, chúng ta dần dần không thể hành động bên ngoài những mẫu số chung thấp nhất và thực sự xử lý triệt để vấn đề được nêu ra. Có một nhóm các nhân tố đa dạng và diện rộng hơn tham gia (những nhân tố ban đầu bị coi là “yếu”) làm giảm số quyết định bị một vài tay chơi quyền lực áp đặt một cách độc đoán lên thế giới là điều đáng ca ngợi, nhưng sự khó khăn gia tăng của việc hoàn thiện mọi thứ thì không.

TÌNH TRẠNG BẾ TẮC CHÍNH TRỊ NHƯ MỘT TỔN THẤT TÁC DỤNG PHỤ CỦA SỰ SUY TÀN QUYỀN LỰC

Sự bế tắc đã trở nên rõ ràng ở Mỹ. Khi nền chính trị trở nên phân cực hơn, những sai sót trong một hệ thống bị quá tải bởi những sự giám sát và kiểm tra trở nên dễ nhận thấy hơn. Francis Fukuyama gọi hệ thống đó là “nền dân chủ phủ quyết”. Ông viết: “Người Mỹ rất tự hào với một hiến pháp giới hạn quyền hành pháp thông qua hàng loạt sự kiểm tra và giám sát. Nhưng những sự kiểm tra đó đã biến tướng. Và giờ nước Mỹ là một nền dân chủ phủ quyết. Khi hệ thống được kết hợp với những đảng phái phân chia theo ý thức hệ,... kết quả là tình trạng tê liệt... Nếu chúng ta muốn thoát ra khỏi tình trạng tê liệt hiện tại của mình, chúng ta không chỉ cần sự lãnh đạo mạnh mẽ, mà cả những thay đổi trong các quy định mang tính hiến pháp”. [6]

Kinh tế gia Peter Orszag đã chứng kiến những gì diễn ra trong nền dân chủ phủ quyết và các hậu quả tai hại của nó. Viết vào năm 2011, ông chiêm nghiệm lại những gì mình vừa chứng kiến với tư cách một trong những nhà hoạch định chính sách kinh tế hàng đầu ở Mỹ: “Trong nhiệm kỳ mới đây của tôi với vai trò giám đốc Văn phòng Quản lý và Ngân sách trong chính phủ Obama, tôi thấy rõ ràng là sự phân cực chính trị ở đất nước này đang trở nên tồi tệ hơn - gây hại cho khả năng thực hiện những công việc cơ bản, cần thiết trong quản trị nhà nước của Washington... Nghe thì cực đoan nhưng chúng ta cần phải đối phó với sự bế tắc trong các định chế chính trị của mình bằng cách khiến chúng ít dân chủ hơn một chút. Tôi biết những ý tưởng như thế đi kèm với rủi ro. Và tôi đã đi tới đề xuất này một cách miễn cưỡng: chúng tới từ cảm giác thất bại hơn là từ cảm hứng. Nhưng chúng ta cần đối mặt với thực tế rằng một chính phủ phân cực, bế tắc đang thật sự làm hại đất nước chúng ta. Và chúng ta phải tìm cách thoát ra khỏi nó”.

Orszag không phải là một người cực đoan với những xu hướng toàn trị. Thật ra, các đề xuất của ông về cơ bản chỉ là những cải cách kỹ trị*: ông muốn tăng cường các cơ chế ổn định tài khóa tự động (giảm thuế và tăng chi tiêu tự động khi nền kinh tế chậm lại và ngược lại khi kinh tế tăng trưởng), những quy định chặng cuối (các sự kiện được kích hoạt khi Quốc hội không hành động, qua đó làm thay đổi tình trạng mặc định từ không hành động sang hành động), dựa nhiều hơn vào những ủy ban các chuyên gia được trao quyền hoạt động bởi những quy định bảo vệ họ khỏi áp lực đảng phái. [7]

Kỹ trị (Technocracy): Cơ cấu tổ chức hoặc hệ thống cai trị xã hội nơi giới trí thức tinh hoa lên nắm quyền và áp dụng tri thức - kỹ thuật vào quản lý nhà nước.

Trong khi những ví dụ đã nói trên dựa trên trải nghiệm gần đây của nước Mỹ, hầu hết các nền dân chủ cũng phải chịu đựng sự kết hợp giữa sự phân cực chính trị sâu sắc và một thiết kế hiến pháp khiến cho chính phủ khó có thể đưa ra những quyết định kịp thời và hiệu quả. Hãy nhớ rằng, như đã nói trong Chương 5, trong số 34 nền dân chủ giàu có nhất thế giới, vào năm 2012, chỉ 4 nước có một Tổng thống hay Thủ tướng mà đảng của họ chiếm đa số trong quốc hội. Và giống như Mỹ, các nước khác không thiếu những ý tưởng sáng tạo để cải cách hệ thống kiểm tra và giám sát của mình và cho phép chính phủ phá vỡ tình trạng tê liệt chính sách hay cải thiện chất lượng các chính sách mà nó áp dụng. Nhưng những sự tiến bộ này đã không xảy ra. Không ở Mỹ và không ở đâu khác. Ngay cả áp lực ghê gớm tạo ra bởi cuộc khủng hoảng tài chính châu Âu cũng không giúp các nhà lãnh đạo đảm bảo quyền lực họ cần để phản ứng một cách nhanh và hiệu quả. Thật vậy, điều ngược lại đã xảy ra: cuộc khủng hoảng kinh tế thậm chí còn kích thích sự phân cực và phân mảng chính trị nhiều hơn, nó làm yếu đi rất nhiều cả những người nắm quyền và những người chống đối họ. Không ai có vẻ có khả năng thực hiện những thay đổi khẩn thiết này.

Đúng là sự suy tàn của quyền lực.

SỰ CẠNH TRANH PHÁ GIÁ

Có một khái niệm trong kinh tế học được gọi là cạnh tranh phá giá. Nó nói tới những tình huống trong đó giá cả được ấn định bởi các công ty trong một ngành cụ thể trở nên quá thấp để trang trải chi phí sản xuất. Các công ty làm điều này khi họ muốn nhanh chóng bán tháo hàng tồn kho, hay khi mục tiêu của họ không phải là tối đa hóa lợi nhuận ngắn hạn mà làm phá sản một hoặc nhiều đối thủ. Những đối thủ này khi đó phản ứng lại tương tự. Khi tình hình vượt ra ngoài một sự trào dâng nhất thời trong chiến lược kinh doanh hiếu chiến, nó có nguy cơ phá hủy cả ngành này. Một số điều kiện nhất định khiến cho khả năng xảy ra cạnh tranh phá giá cao hơn. Lấy ví dụ, nó xảy ra khi có sự dư thừa lớn năng lực sản xuất - các nhà máy và thiết bị nhàn rỗi hay các nhà kho chất đầy hàng - và các doanh nghiệp giữ giá thấp chỉ để tiếp tục duy trì hoạt động. Theo một nghĩa nào đó, cạnh tranh phá giá là biến tướng tai ác của sự cạnh tranh lý tưởng mà các nhà kinh tế học cổ vũ nhiệt tình.

Cạnh tranh phá giá là một phép ẩn dụ tốt để mô tả tác hại của sự phân tán quyền lực và sự suy tàn đi theo nó. Khi quyền lực khó sử dụng và khó nắm giữ hơn, lan tỏa ra một nhóm đông hơn và thay đổi liên tục của những tay chơi nhỏ, các hình thức cạnh tranh và tương tác bất lợi cho những điều tốt đẹp chung của xã hội có khả năng xuất hiện cao hơn, đe dọa sức khỏe của nền kinh tế, sự sinh động của nền văn hóa, sự ổn định của quốc gia và thậm chí cả hòa bình thế giới.

Trong triết học chính trị, ý tưởng tương tự được gói gọn trong sự đối lập kinh điển giữa hai sự cực đoan: độc tài và vô chính phủ. Khi được tập trung quá mức, quyền lực tạo ra sự độc tài. Ở cực đối lập, quyền lực càng trở nên phân mảng và phân tán, rủi ro càng cao sẽ xảy ra tình trạng hỗn loạn vô chính phủ - một trạng thái trong đó không hề có trật tự. Cả hai tình huống cực đoan này đều hiếm: ngay cả hệ thống độc tài nhất cũng có những lỗ hổng và trong những tình huống vô chính phủ nhất, một chút trật tự và một cấu trúc quyền lực sẽ dần nổi lên và sự hỗn loạn giảm đi. Nhưng thông điệp trọng tâm ở đây là sự phân tán quá mức quyền lực và sự bất lực của các nhân tố dẫn dắt cũng nguy hiểm như sự tập trung quá mức quyền lực trong tay một số ít người.

Sự suy tàn quá mức của quyền lực, trong đó mỗi nhân tố quan trọng có thể phủ quyết sáng kiến của những nhân tố khác nhưng không ai trong số họ có quyền lực để áp đặt ý chí của mình, cũng là rủi ro với hệ thống chính trị và xã hội của một quốc gia, hay bất cứ cộng đồng hay thậm chí là gia đình nào, cũng nhiều như với hệ thống các quốc gia. Khi quyền lực bị ràng buộc quá mức sẽ kéo theo sự tê liệt và sự ổn định, dễ đoán, an toàn, lẫn sự phồn vinh vật chất sẽ chịu tổn hại.

THẬN TRỌNG VỚI NHỮNG GÌ BẠN MONG ƯỚC: QUÁ LIỀU TRONG KIỂM TRA VÀ GIÁM SÁT

Có nhiều cách để duy trì trật tự trong một môi trường mà quyền lực bị phân tán, phù du và đang suy tàn. Trong số đó có chủ nghĩa liên bang, những liên minh và liên hiệp chính trị, những tổ chức quốc tế, những quy định và tiêu chuẩn được thừa nhận (và ấn định) mang tính quốc tế, những sự kiểm tra và giám sát giữa các nhánh của chính quyền, các mối liên hệ đạo đức và ý thức hệ dưới những khẩu hiệu chung như Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, dân chủ xã hội hay xã hội chủ nghĩa. Chúng đều là những câu trả lời cho một vấn đề cũ, vấn đề có nguồn gốc từ thời nhà nước-thành bang Hy Lạp. Nhưng sự suy tàn của quyền lực ngày nay chưa cho ra đời những phản hồi về mặt thể chế của chính nó: sự cách tân trong việc tổ chức đời sống công cộng, cho phép chúng ta tận hưởng sự hoàn chỉnh và quyền tự trị cá nhân mà việc phân rã quyền lực cao độ hứa hẹn, trong khi ngăn chặn những nguy cơ rất thật và nguy hiểm của nó.

Để tưởng tượng các tác động của sự suy tàn quyền lực lên những điều tốt đẹp trong xã hội, hãy xem xét một biểu đồ hình chữ U ngược. Nó mô tả tương quan của sự suy tàn quyền lực - quyền lực được tập trung bên trái, phân rã bên phải - với những giá trị được mong muốn rộng rãi như sự ổn định chính trị và xã hội, những cơ quan nhà nước đáng tin cậy và sự sôi động về kinh tế.

HÌNH 10.1. SỰ SUY TÀN CỦA QUYỀN LỰC: HÌNH CHỮ U NGƯỢC

Trục hoành, biểu lộ sự suy tàn của quyền lực, bắt đầu với một tình huống (ở cực bên trái, gần gốc đồ thị) mà sự tập trung và kiểm soát quyền lực là tối đa trong tay một số ít người. Đây là nơi các chế độ độc tài, các doanh nghiệp độc quyền cùng các hình thức kiểm soát chặt chẽ đời sống chính trị và kinh tế khác dẫn tới việc phúc lợi xã hội không đầy đủ. Ở cực bên kia của trục hoành, quyền lực cực kỳ phân tán và phân rã. Ở đó, sự sụp đổ của trật tự dẫn tới sự hỗn loạn vô chính phủ và tình hình xã hội trở nên đáng thất vọng cũng như ở thái cực bên này, nơi độ tập trung cao và sự độc quyền kinh tế chính trị là phổ biến.

Thách thức là tìm ra những cách đạt tới vùng ở giữa đường cong trong một thời đại tồn tại nhiều thay đổi to lớn và nhanh chóng. Sự khoan dung của chúng ta - chúng ta sẵn sàng chấp nhận vùng giữa đường cong lớn tới đâu - sẽ thay đổi. Trong đời sống kinh tế, cả độc quyền và siêu cạnh tranh phá giá đều không tối ưu, nhưng những lợi ích đánh đổi thường không phải là sự sống và cái chết. Rốt cuộc chúng ta có thể sống với một dải rộng các tình huống, ngay cả khi chúng ta muốn có sự cải thiện. Khi chính trị trở nên quá phân tán tới mức nó nuôi dưỡng chủ nghĩa cực đoan và bạo lực, lợi ích đánh đổi là khẩn thiết hơn nhiều. Khi trật tự quân sự của thế giới bị phân tán tới mức mà cướp biển, khủng bố, phiến quân, các băng tội phạm và các nhà nước hiếu chiến có thể bất chấp những đội quân của các quốc gia hùng mạnh, lợi ích đánh đổi là không thể cao hơn.

Chân trời của chúng ta đầy những vấn đề lớn như sự phát tán vũ khí hạt nhân và biến đổi khí hậu, những vấn đề đơn giản là không thể được giải quyết nếu hệ thống thế giới ngày càng thiếu ổn định, nhiều lỗ hổng và bị ngăn trở bởi sự suy giảm liên tục trong năng lực thực hiện hành động tập thể của nó. Sự suy tàn của quyền lực đang làm phức tạp thêm những vấn đề như thế - đặc biệt là khi nhiều quốc gia hơn theo đuổi các chương trình hạt nhân và đạt đến khả năng sáng tạo ra những con bọ tấn công mạng tinh vi và nhắm vào những đối thủ cả ở trong và ngoài nước. Sự suy giảm quyền lực của các nhân tố từng áp đảo cũng đang làm phức tạp cuộc tìm kiếm giải pháp, chúng ta không còn một hay hai siêu cường có thể áp đặt một cách đơn giản những mong muốn của họ lên phần còn lại của thế giới.

Những nỗ lực tập thể như duy trì hòa bình, răn đe khủng bố, hợp tác chính sách kinh tế để thúc đẩy tăng trưởng toàn cầu, chiến đấu chống bệnh dịch, ngăn ngừa biến đổi khí hậu, phân bổ các tài nguyên quý hiếm, chiến đấu chống rửa tiền và lừa đảo, bảo vệ những loài bị đe dọa là những hàng hóa công toàn cầu. Nói cách khác, chúng là những thứ mà kết quả làm lợi cho tất cả mọi người, bao gồm những ai chẳng làm gì để mang tới kết quả đó. Điều đó tạo ra tình huống lưỡng nan kinh điển mà các nhà khoa học xã hội gọi là vấn đề hành động tập thể. [8] Không tay chơi đơn lẻ nào có thể tự mình đem tới những thay đổi, nhưng tất cả các tay chơi có động cơ để chờ đợi - không bỏ ra nguồn lực nào - cho tới khi một ai đó làm cho họ. Cuối cùng thay đổi không bao giờ đạt được, dù mọi người đều sẽ được hưởng lợi từ đó.

Sự suy tàn của quyền lực làm nghiêm trọng thêm vấn đề hành động tập thể. Nó vốn đã xảy ra ở sân khấu quốc tế, khi ngày càng nhiều các nước “nhỏ” phủ quyết, ngăn trở, đòi hỏi sự xem xét đặc biệt, hay nói chung là làm xói mòn những nỗ lực của các nước “lớn” trong lĩnh vực này hay lĩnh vực khác. Trong khi đó, chính các nước lớn cũng có nhiều kênh hơn để hợp tác đa mục đích. Phản hồi của thế kỷ XX trước yêu cầu về hàng hóa công toàn cầu là những tổ chức quốc tế, từ Liên Hiệp Quốc và tất cả các cơ quan chuyên trách của nó tới Ngân hàng Thế giới, IMF và các nhóm khu vực được tạo ra. Nhưng quá thường xuyên, những định chế đó giờ phải chật vật bắt kịp các nhu cầu bùng nổ và những mối đe dọa tiến hóa liên tục trong những lĩnh vực mà họ cần phải giám sát.

Một phản hồi khác là các quốc gia nhiều quyền lực tạo thành một liên minh (“liên minh của ý chí”) để vượt qua các tổ chức quốc tế và hành động trực tiếp, như Mỹ và các nước khác đã làm ở Iraq. Nhưng ngay cả khả năng đó cũng bị ảnh hưởng bởi sự suy tàn quyền lực: trước hết, vì các nước khác ngày càng có thể phản kháng hay can thiệp với những kế hoạch của một liên minh như thế, nhưng cũng vì những liên minh chính trị có xu hướng ngày càng rạn vỡ, còn ý kiến của dư luận ngày càng ít ủng hộ và mất kiên nhẫn, ngay cả với những quốc gia lãnh đạo. Hết làn sóng này tới làn sóng khác của việc phân rã quyền lực - không chỉ trong chính trị - tràn tới khiến vấn đề phức tạp hơn. Cũng quốc gia mà chính phủ và quân đội đang cố gắng mang tới những thay đổi cho một nơi xa xôi nào đó, dẫn đầu một liên minh các quốc gia vì nỗ lực đó, cũng có thể là nơi chứa chấp những quỹ hay tổ chức từ thiện hướng tiền bạc và thông tin tới những đối thủ của nó, là nơi đặt các máy chủ tiếp sức cho quan điểm của họ và vận động thêm người ủng hộ mới. Khi mở rộng phạm vi cho những tay chơi nhỏ đầu tư, dẫn dắt các chiến dịch, quyên góp tiền bạc và khởi phát những hãng tin sẽ trao cho họ quyền lực, những lợi ích - sự đa nguyên, nền dân chủ, thế chủ động, cảm giác có ý nghĩa - cũng tạo ra những trở ngại mới trong việc đối phó với các cuộc khủng hoảng, tìm kiếm mục đích và hoàn thiện mọi thứ.

NĂM RỦI RO

Dù là ở lĩnh vực nào, sự suy tàn quyền lực cũng tạo ra những rủi ro có thể hạ thấp phúc lợi xã hội và chất lượng sống ngắn hạn của các cá nhân và gây ra một phản ứng ngược, hay thậm chí một thảm họa phía trước. Ngoài sự tê liệt chính trị và những hậu quả tiêu cực khác mà chúng ta đã tìm hiểu, có năm tác động rõ ràng của sự suy tàn quyền lực tạo ra những rủi ro nghiêm trọng.

Sự Hỗn Loạn

Hobbes cùng những triết gia chính trị cổ điển khác đã nói ngay từ đầu và sự thấu hiểu của họ - được nhắc trong Chương 1 - vẫn đúng. Nhưng với nhiều cá nhân, sự thâu tóm quyền lực là - hoặc có vẻ là - một hối thúc bẩm sinh. Nhưng trong khi xây dựng các xã hội, quyền lực là một giải pháp cho vấn đề về sự hỗn loạn. Chúng ta chấp thuận quyền lực của nhà nước vì nó được cho là đảm bảo mức độ tối thiểu của sự ổn định và dễ đoán mà chúng ta cần để sống một cuộc đời viên mãn. Những quy định - từ quản lý kinh doanh, luật chống mạ lỵ và sự tiếp cận hòm phiếu tới những hiệp ước quốc tế - đều nhắm tới việc giảm bớt sự khó đoán của đời sống và loại bỏ nguy cơ phát sinh sự bất ổn hỗn loạn, thậm chí là tình trạng vô chính phủ.

Thứ chúng ta nhượng bộ những định chế này - và những người lãnh đạo chúng - và thứ chúng ta đòi hỏi chúng đáp ứng lại thay đổi theo thời gian và theo từng xã hội khi các giá trị và sự kỳ vọng của con người tiến hóa. Những cuộc cách mạng Nhiều Hơn, Di Động và Tinh Thần dẫn tới hàng tỉ người kỳ vọng và đòi hỏi nhiều hơn. Và chúng ta có những công cụ tốt hơn để kiểm tra trách nhiệm giải trình. Tuy nhiên lời hứa cốt lõi của quyền lực - là nó sẽ tạo ra trật tự - vẫn là trọng tâm trong sự chấp thuận của chúng ta. Sự suy tàn của quyền lực được thảo luận trong cuốn sách này đe dọa lời hứa đó theo cách khác hẳn sự đối địch chính trị, cạnh tranh trong kinh doanh, xung đột giữa các quốc gia hay thậm chí các cuộc chiến tranh thế giới theo cách hiểu của thế kỷ XX. Những ngụ ý là rõ ràng: dù ít khi một xã hội trở nên hoặc giữ nguyên trạng thái phi chính phủ trong những giai đoạn dài, nhưng không quá khó để nó bị tê liệt bởi mức độ suy tàn quyền lực quá cao. Điều này thậm chí có thể biến những nền dân chủ tiên tiến và trưởng thành thành những thực thể bế tắc không thể phản ứng lại trước các thách thức và đòi hỏi của thế kỷ XXI. Như đã ghi nhận, sự bất lực của châu Âu trong việc hồi đáp lại một cách đúng lúc và hiệu quả trước cuộc khủng hoảng kinh tế tàn phá của nó là một ví dụ đau đớn về tác động ăn mòn của sự suy tàn quyền lực. Tương tự là sự bất lực trong việc hành động một cách cương quyết để hạn chế khí thải gây hiệu ứng nhà kính đang làm hành tinh của chúng ta ấm lên thậm chí gây hậu quả còn tai ác hơn.

Đánh Mất Kỹ Năng Và Đánh Mất Kiến Thức

Những tổ chức tập trung và mang tính thứ bậc nắm giữ được ảnh hưởng trong hơn một thế kỷ vì một lý do. Các đảng chính trị, những tập đoàn lớn, các giáo hội, các tổ chức, các cơ quan quan liêu, các quân đội, các đại học uy tín và những định chế văn hóa tích lũy kinh nghiệm, cách làm việc và tri thức bên trong những bức tường của họ: họ lưu giữ hồ sơ về sự thành công của mình và ghi nhớ những thói quen, văn hóa cùng cách thức hoạt động của các nhân viên và thành viên của mình. Không điều nào trong số đọ được tiếp nhận vào một thế giới nơi quyền lực phân rã mà không có một vài - hoặc rất nhiều - sự mất mát. Khả năng các đảng phái chính trị có thể bị thay thế bởi những nhóm với mục đích cụ thể duy nhất, những liên minh bầu cử tạm thời, hay thậm chí là những tổ chức phi chính phủ tập trung vào chỉ một vấn đề (những đảng “xanh”, “cướp biển”, “chính phủ nhỏ”) - đang thu hút hàng triệu cử tri đã chán nản với sự tham nhũng, sự bế tắc về ý thức hệ và hoạt động đáng thất vọng của chính phủ thuộc nhiều đảng phái chính trị ở khắp nơi. Nhưng trong khi thiếu sót của hầu hết các đảng chính trị thường là không thể chối cãi, sự suy tàn của chúng đồng nghĩa với sự biến mất của những nơi lưu giữ quan trọng các tri thức cực kỳ cụ thể mà những tay chơi mới hấp dẫn không dễ tái tạo - nhiều tay chơi mới trong số bị sử gia người Thụy Sĩ Jacob Burckhardt gọi là “những sự đơn giản hóa khủng khiếp”, những thủ lĩnh chính trị tìm kiếm quyền lực bằng cách khai thác sự bực tức lẫn thất vọng của quần chúng và đưa ra những lời hứa hấp dẫn nhưng “được đơn giản hóa một cách khủng khiếp” để rồi cuối cùng, là những lời hứa hão. [9]

Điều tương tự cũng đúng với các công ty, chủ lao động và nhà đầu tư lớn. Những công ty nhỏ, những cửa hàng “nhảy cóc”, những quỹ đầu tư mạo hiểm, những mạng xã hội và những thứ như thế có thể khó tái tạo lại vốn tri thức được tích tụ của một công ty lớn. Sự phi tập trung hóa quyết liệt của kiến thức - từ Wikipedia tới việc phát triển phần mềm mã nguồn mở sang các tài liệu học thuật miễn phí của MIT trên mạng - là một trong những khuynh hướng đáng phấn khích nhất của sự phân tán quyền lực. Nhưng ngay cả ở mức tốt nhất, những nguồn kiến thức mới này cũng không sánh được với công tác nghiên cứu và phát triển nội bộ hay ký ức được lưu giữ hệ thống. Trong một môi trường mà quyền lực quá phân tán, những lựa chọn cá nhân về giáo dục và việc làm của chúng ta không nhất thiết là tốt hơn hay bên vững hơn. Sự phân rã quá mức của các định chế cũng có thể gây ảnh hưởng xấu cho việc tạo ra và sử dụng một cách khôn ngoan kiến thức như những môi trường cứng nhắc, xuất hiện khi quyền lực tập trung quá mức.

Sự Tầm Thường Hóa Các Phong Trào Xã Hội

Các sứ mệnh xã hội và chính trị ngày nay có những “người theo dõi” “thích” chúng trong vòm trời truyền thông kỹ thuật số. Trên các nền tảng mạng xã hội, hàng đoàn những người bạn trên Facebook hay người theo dõi trên Twitter tạo ra ảo giác rằng một nhóm đang thúc đẩy một sứ mệnh đặc biệt quả chắc hẳn là một lực lượng hùng mạnh. Trong một số trường hợp, điều đó có thể đúng. Trong khi vai trò của Facebook và Twitter trong Mùa xuân A-rập có thể đã bị đánh giá quá cao, vẫn còn có nghi ngờ về việc mạng xã hội có thực sự thúc đẩy khả năng của các lực lượng chống chính quyền hay không.

Nhưng đó không phải là trải nghiệm phổ biến nhất. Với hầu hết mọi người trên thế giới, chủ nghĩa hoạt động xã hội và chính trị dựa trên Internet thực ra chẳng là gì khác ngoài việc chạm vào một nút bấm. Có lẽ, một cách có ý nghĩa hơn, họ sẽ đóng một khoản tiền quyên góp nhỏ - lấy ví dụ, 5 đô-la Mỹ cho Hội Chữ thập đỏ sau một trận động đất hay một thảm họa thiên nhiên - bằng cách gửi đi một tin nhắn tới một số điện thoại định trước. Không phải là khoản tiền đó không đáng kể, nhưng nó không phải là kiểu chủ nghĩa hoạt động chấp nhận rủi ro từng thúc đẩy rất nhiều trong số những phong trào xã hội vĩ đại. Tác giả Evgeny Morozov gọi sự tham gia mới, ít liên quan và ít ảnh hưởng này là “chủ nghĩa hoạt động bàn phím”. Theo ông, nó là “kiểu chủ nghĩa hoạt động lý tưởng cho một thế hệ lười biếng: tại sao phải phiền nhiễu với những cuộc biểu tình ngồi cố thủ và rủi ro bị bắt giữ, bị cảnh sát đánh đập hay tra tấn nếu ta có thể to tiếng vận động như thế trên không gian ảo?” Vấn đề với chủ nghĩa hoạt động bàn phím, ông lập luận, không phải ở chỗ những đóng góp ít rủi ro đó là quá nhỏ bé - rốt cuộc, mỗi một đóng góp như thế đều thực chất theo một cách nào đó - mà là, có một rủi ro rằng sự ám ảnh, với những cuộc kêu gọi trên mạng, số lượng người theo dõi và “thích”, sẽ làm phân tán những người ủng hộ tiềm năng và rút đi nguồn lực khỏi các tổ chức đang thực hiện công việc có rủi ro cao hơn và phần thưởng lớn hơn: “Liệu điều công chúng đạt được... có đáng so với những tổn thất của các tổ chức?” [10] Như được nhắc lại bởi Malcolm Gladwell, cuộc tranh luận đang nổi lên về sự sùng bái hóa mạng xã hội này phản ánh nguy cơ của sự thiếu gắn kết tạo ra bởi sự suy tàn quyền lực. [11] Ở một mức độ, khả năng ủng hộ một sứ mệnh, bắt đầu một cuộc thỉnh nghị, hay thậm chí làm điều gì đó chắc chắn hơn như thành lập một cửa hàng trực tuyến của chính mình trên Amazon hay eBay, hay gửi tiền cho một đối tượng nhận được lựa chọn ở cách xa nửa vòng Trái Đất hay chỉ một khu nhà, giúp giải phóng và thỏa mãn tính cá nhân. Nhưng sự phát tán của những tay chơi nhỏ và những động cơ ngắn hạn đem tới rủi ro không thể điều khiển cuộc chơi cho những liên minh đích thực, mạnh mẽ, hướng tới các mục tiêu xã hội cụ thể. Hãy gọi đó là vấn đề hành động tập thể ở quy mô dưới nguyên tử.

Tăng Sự Nóng Vội Và Rút Ngắn Khoảng Chú Ý

Trong khi hàng triệu nhà hoạt động trên mạng có thể gia tăng nhận của thức xã hội với vô số vấn đề, họ cũng tạo ra một mức độ “tiếng ồn” và sự phân tâm khiến bất kỳ sứ mệnh riêng lẻ nào rất khó duy trì được sự chú ý tập trung và ủng hộ lâu dài - đủ để đạt được sức mạnh bền bỉ và vững chắc. Siêu cạnh tranh có thể cũng độc hại cho chủ nghĩa dân sự và chính trị tích cực cũng như các công ty tư nhân đối mặt với quá nhiều những đối thủ cạnh tranh, buộc mỗi công ty phải thu mình về quy mô nhỏ và quyền lực giới hạn.

Hơn nữa, sự nắm giữ quyền lực của các nhà lãnh đạo, định chế hay tổ chức càng mong manh - nói cách khác, quyền lực càng trở nên khó nắm bắt - thì càng có khả năng các tổ chức đó sẽ bị quản trị bởi những động cơ và nỗi sợ ngắn hạn, các động cơ của họ càng ít có khả năng được hoạch định dài hạn hơn. Lãnh đạo cac chính phủ được bầu cho những nhiệm kỳ ngày càng ngắn hơn, các lãnh đạo doanh nghiệp chỉ để mắt tới kết quả của quý tới, các vị tướng ý thức rằng thành công của những can thiệp vũ trang phụ thuộc nhiều hơn bao giờ hết vào sự ủng hộ của công chúng vốn hay thay đổi và khó chấp nhận những thương vong hơn - tất cả bọn họ là các ví dụ cho việc bằng cách nào mà sự đè nén về thời gian hạn chế lựa chọn của những người có quyền lực.

Ở tầm mức cá nhân, nghịch lý của sự suy tàn quyền lực là nó có thể cho chúng ta nhiều công cụ hơn để sống ở hiện tại, ngay cả khi nó đè nén chân trời tương lai của những lựa chọn của chúng ta. Điều này đang xảy ra cùng lúc với việc những vấn đề quốc nội và quốc tế của chúng ta không thể giải quyết nhanh chóng và giải pháp lẫn việc xử lý chúng đòi hỏi những nỗ lực lâu dài và liên tục - tất cả trở nên rõ ràng. Sự kiên nhẫn có thể khan hiếm nhất trong tất cả nguồn lực của một thế giới mà sự suy tàn quyền lực tiếp tục không thể ngăn cản.

Sự Cô Lập Hóa

Quyền lực và những định chế của nó đã ở cùng với chúng ta suốt một thời gian rất dài, về mặt truyền thống những rào cản với quyền lực quá cao, khiến chúng ta phải suy nghĩ lại về ý nghĩa cuộc sống của mình - các lựa chọn về việc làm gì, chấp nhận gì, thách thức gì - bên trong những thước đo này. Những thay đổi lớn cùng các hậu quả không chắc chắn thường nuôi dưỡng sự cô lập hóa - sự ghẻ lạnh và xa lánh giữa con người với nhau hay với những thứ từng có ý nghĩa với họ, hay trong những trường hợp cực đoan, thậm chí là một sự chia cắt nhất định với cảm nhận của chính họ về bản ngã, bản sắc định nghĩa họ trong mắt chính mình. Hãy nghĩ về điều xảy ra khi một công ty bị bán đi, sáp nhập hay tái cấu trúc, hay khi những diễn giải thần học tranh đấu với nhau dẫn tới sự chia tách một giáo hội, hay những biến đổi sâu sắc trong trật tự chính trị tái phân phối lại quyền lực trong một quốc gia. Những thay đổi trong cấu trúc quyền lực, hệ thống thứ bậc truyền thống, các chuẩn mực dễ đoán và những quy đinh nổi tiếng không tránh khỏi dẫn tới sự mất phương hướng và lo lắng gia tăng. Chúng thậm chí có thể dẫn tới tình trạng xã hội vô đạo đức, khi mà những mối quan hệ xã hội giữa các cá nhân và cộng đồng đổ vỡ hoàn toàn. Nhà xã hội học người Pháp Émile Durkheim mô tả tình trạng này là “luật lệ chung là không có luật lệ gì hết”. [12]

Cuộc dội bom của công nghệ sự bùng nổ thông tin liên lạc kỹ thuật số cùng ý kiến, sự phân tâm và sự ồn ào trên mạng; sự suy giảm của việc mặc nhiên thừa nhận những quyền lực truyền thống (Tổng thống, chánh án, chủ doanh nghiệp, người cao tuổi, bố mẹ, linh mục, cảnh sát, thầy giáo) nuôi dưỡng sự mất thăng bằng với những hậu quả rộng khắp còn chưa được hiểu đầy đủ. Đâu là hậu quả xã hội, chính trị và kinh tế của thực tế rằng, vào năm 1950, không tới 10% các hộ gia đình Mỹ chỉ bao gồm một người trong khi tới năm 2010 con số đó đã tăng lên thành gần 27%? Các gia đình cũng là những cấu trúc quyền lực mà ở đó, quyền lực đang suy tàn: những ai có quyền lực (thường là bố mẹ, người đàn ông, người lớn tuổi) ngày nay đối mặt với nhiều sự hạn chế hơn. Điều đó nói với chúng ta những gì về lòng tin - trong một xã hội mà hàng loạt các nghiên cứu khoa học xã hội đã ghi nhận sự suy giảm số lượng những người có lòng tin tại các nước phát triển, cũng như sự gia tăng tương ứng của cảm giác cô đơn? [13]

Nếu có một rủi ro nào đang gia tăng đối với nền dân chủ và các xã hội tự do trong thế kỷ XXI, thì ít khả năng nó tới từ một mối đe dọa thông thường, hiện đại (Trung Quốc) hay tiền hiện đại (Hồi giáo cực đoan) hơn là từ bên trong những xã hội mà sự cô lập hóa đã được định hình. Ví dụ, hãy xem xét sự nổi lên của các phong trào bày tỏ hay khai thác sự giận dữ của xã hội - từ những đảng cực hữu và cực tả ở châu Âu và Nga tới phong trào Đảng Trà ở Mỹ. Một mặt, mỗi phong trào này là một tuyên ngôn với sự suy tàn quyền lực, khi chúng thu được ảnh hưởng từ việc các rào cản che chở những kẻ nắm quyền hạ xuống. Mặt khác, cơn giận sơ khai mà họ bày tỏ có một phần nguyên nhân lớn là từ sự cô lập hóa khi mà những dấu hiệu truyền thống của trật tự và an ninh xã hội bị phá bỏ. Và cuộc tìm kiếm của họ một chiếc la bàn từ trong quá khứ - lấy ví dụ, hồi ức về Liên bang Xô Viết, các cách diễn giải kiểu thế kỷ XVIII với hiến pháp Mỹ được nêu ra bởi những nhân vật cũng ăn mặc theo kiểu thời bấy giờ, những lời hô hào của Osama bin Laden về việc khôi phục Đế quốc Hồi giáo, những bài tụng ca của Hugo Chavez về Simon Bolivar - tiết lộ quyền lực đã suy tàn ra sao, nếu chúng ta không thể thích nghi với nó và hướng nó tới những điều tốt đẹp cho xã hội, nó có thể phản ứng ngược và trở nên đầy sức phá hủy.

⚝ ✽ ⚝

[1] Yu Liu và DingDing Chen, “Why China Will Democratize (tạm dịch: Tại Sao Trung Quốc Sẽ Dân Chủ Hóa)”, The Washington Quarterly (mùa đông 2012): 41-62; phỏng vấn với giáo sư Minxin Pei, Washington, DC, ngày 15 tháng 6 năm 2012.

[2] Fareed Zakaria đưa ra những tổng hợp hay nhất về chủ đề này trong cuốn sách năm 2003 của ông The Future of Freedom: Illiberal Democracy at Home and Abroad.

[3] Huntington, Political Order in Changing Societies, trang 8.

[4] Tựa đề của cuốn sách bán chạy nhất của Thomas Friedman The World Is Flat (Thế Giới Phẳng) nắm bắt được sự thay đổi này đã tỏa khắp ra sao: bằng cách nào sự phân rã quyền lực đã thay đổi sâu sắc bối cảnh kinh doanh và thương mại của thế giới. Friedman cũng đã chỉ ra một cách hùng biện những hậu quả chính trị của các thay đổi này (đặc biệt xem các trang 371-414).

[5] Tôi ghi nhận sự nổi lên của một giống loài mới những mạng lưới tội phạm xuyên quốc gia và những hậu quả nghiêm trọng của chúng với trật tự toàn cầu và với đời sống hàng ngày của chúng ta, trong Illicit: How Smugglers, Traffickers and Copycats are Hijacking the Global Economy. Và tôi thảo luận những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới với tội phạm toàn cầu và sự tội phạm hóa gia tăng với các chính phủ trong “Matia States: Organized Crime Takes Office (tạm dịch: Những Nhà Nước Matia: Tội Phạm Có Tổ Chức Lên Nắm Quyền)”, Foreign Affairs, tháng 5-6 năm 2012.

[6] Francis Fukuyama, “Oh for a Democratic Dictatorship and Not a Vetocracy (tạm dịch: Ôi Cho Một Nhà Nước Độc Tài Dân Chủ Và Không Phải Một Nền Dân Chủ Phủ Quyết)”, Financial Times, ngày 22 tháng 11 năm 2011.

[7] Peter Orszag, “Too Much of a Good Thing: Why We Need Less Democracy (tạm dịch: Quá Nhiều Cũng Không Tốt: Tại Sao Chúng Ta Cần ít Sự Dân Chủ Hơn)”, The New Republic, ngày 6 tháng 10 năm 2011, trang 11-12.

[8] Olson, The Logic of Collective Action: Public Goods and the Theory of Groups.

[9] Burckhardt, The Greeks and Greek Civilization.

[10] Morozov, “The Brave New World of Slacktivism (tạm dịch: Thế Giới Can Đảm Mới Của Chủ Nghĩa Trì Trệ )”, Foreign Policy, ngày 19 tháng 5 năm 2009, http://neteffect.foreignpolicy. com/posts/2009/05/19/the_brave_new_world_of_slacktivism; xem thêm tác phẩm của Morozov, The Net Delusion: The Dark Side of Internet Preedom.

[11] Malcolm Gladwell, “Small Change: Why the Revolution Will Not Be Tweeted (tạm dịch: Thay Đổi Nhỏ: Tại Sao Cách Mạng Sẽ Không Thể Nhắn Tin Qua Twitter)”, The Nezv Yorker, ngày 4 tháng 10 năm 2010, http://www.newyorker.com/reporting/2010/10/04/101004fa_fact_glad well.

[12] Émile Durkheim, Suicide (New York: Free Press, 1951; xuất bản lần đầu năm 1897).

[13] Stephen Marche, “Is Facebook Making Us Lonely? (tạm dịch: Phải Chăng Facebook Khiến Chúng Ta Cô Đơn?)”, The Atlantic, tháng 5 năm 2012.