← Quay lại trang sách

CHƯƠNG MƯỜI MỘT QUYỀN LỰC ĐANG SUY TÀN

Vậy Thì Sao? Phải Làm Gì Đây?

Ngụ ý đầu tiên và có lẽ quan trọng nhất của cuốn sách này là yêu cầu cấp thiết phải thay đổi cách chúng ta tư duy và nói về quyền lực. Một cách bắt đầu là tái tập trung vào cuộc đối thoại về việc quyền lực đang thay đổi ra sao, nguồn gốc của nó là gì, ai có nó, ai đang đánh mất nó và tại sao. Trong khi chúng ta không thể tiên liệu nhiều thay đổi đang diễn ra vì sự suy tàn của quyền lực, chúng ta có thể áp dụng một hệ tư duy mới - cung cấp sự linh động tối đa, cho phép chúng ta lên kế hoạch tốt hơn cho tương lai và tối thiểu hóa tác động của những rủi ro vừa được đề cập.

Điều quan trọng là phải nhận ra rằng hiện giờ, những tác động của sự suy tàn quyền lực lên tương lai - thường được hình dung ra bởi các học giả, những người có nhiều ảnh hưởng và những lãnh đạo chính trị - cũng gây bối rối như thế ở mọi lĩnh vực khác.

Hãy xem xét cuộc đàm luận thịnh hành đó đã trở nên phân mảng và thiếu hoàn thiện đến thế nào. Lấy ví dụ chính trị quốc tế, cụ thể hơn là cuộc tranh luận về việc quốc gia nào sẽ thống trị thế kỷ XXI: Mỹ hay Trung Quốc? Hay những thị trường mới nổi? Hay không ai cả? Trong thế giới kinh doanh, một trường phái những người phê bình hướng vào sự tập trung hóa, các tay nhà giàu mới và sự củng cố quyền lực của một tập đoàn toàn cầu tinh hoa - nhất là trong lĩnh vực tài chính - trong khi một nhóm quan điểm cũng sôi sục không kém chỉ ra sự siêu cạnh tranh và những tác động đứt gẫy của các công nghệ và mô hình kinh doanh mới. Tương tự, những khuynh hướng trong tôn giáo toàn cầu hoặc là nền tảng cho mối quan ngại sâu sắc về chủ nghĩa cực đoan và sự thiếu khoan dung, hoặc cho những dấu hiệu lành mạnh của việc tham gia xã hội giúp thúc đẩy sự ôn hòa, tự do và sự cùng tồn tại trong hòa bình.

Tất cả những lập luận này - và những điều phản bác chúng - chất đầy các kệ sách, các trang xã luận của những tờ báo trên toàn thế giới và tất nhiên, ồn ào hơn, trên các màn ảnh truyền hình và mạng xã hội. Và các lập luận đó đều không sai. Hay đúng hơn, những người ủng hộ cho mỗi lập luận có thể tập hợp một bộ sự việc thực tế và bằng chứng khiến cho lập luận của họ hợp lý và khơi gợi cảm xúc.

Thật vậy, thật đáng ngạc nhiên khi có ít sự đồng thuận như thế về phương hướng của sự thay đổi trên thế giới và những mối đe dọa có thể là hậu quả cần lường trước - chứ đừng nói là cách xử lý chúng. Với tất cả dòng thác thông tin và ý kiến ngày nay, chúng ta thiếu một chiếc la bàn đáng tin cậy: một bộ khung rõ ràng giúp ta hiểu những thay đổi đang xảy ra trong mọi lĩnh vực vốn ngày càng kết nối với nhau. Bất cứ tấm bản đồ chỉ đường nào cho tương lai cũng sẽ thiếu sót nếu như nó thiếu một sự hiểu biết sâu hơn về cách mà quyền lực đang thay đổi và những hệ quả sau đó.

Những tác động của sự suy tàn quyền lực rất quan trọng và đa dạng. Nhưng không thể trưng cất và tích hợp chúng vào thế giới quan cùng khung tư duy của những người ra quyết định - ở các hộ gia đình, các dinh Tổng thống hay phòng điều hành công ty - nếu chúng ta không tạo ra một cuộc đối thoại khác biệt về những gì đang xảy ra với quyền lực.

Và bước đầu tiên trong việc thay đổi cuộc đối thoại về quyền lực là bước ra khỏi chiếc thang máy.

BƯỚC RA KHỎI THANG MÁY

Rất nhiều cuộc trao đổi liên quan đến quyền lực ngày nay về cơ bản vẫn mang tính truyền thống - và do đó cổ lỗ một cách nguy hiểm. Điển hình là sự thịnh hành tiếp diễn của tư duy thang máy: sự ám ảnh với những ai đang lên và đang xuống - quốc gia, thành phố, ngành nghề, công ty, lãnh đạo chính trị, ông trùm kinh doanh, lãnh tụ tôn giáo và chuyên gia nào đang giành được quyền lực hay đang đánh mất nó. Tư duy thang máy có gốc rễ sâu xa từ bản năng xếp hạng và tuyên bố ai là Số một. Đó là sự hấp dẫn của bảng xếp hạng thể thao hay bảng xếp hạng cuộc đua ngựa.

Tất nhiên là bạn có thể xếp hạng những đối thủ cạnh tranh ở bất cứ thời điểm nào dựa trên tài sản, quyền lực và những thành tựu của họ. Ở tầm mức toàn cầu, các quốc gia thực sự cạnh tranh với nhau, những nhân tố như sản lượng kinh tế của một quốc gia, mạng lưới các trang thiết bị quân sự và tài nguyên của nó, dân số, diện tích, năng lực sản xuất, vân vân đưa ra những khung định lượng cho việc đo đếm và xếp hạng. Nhưng bức tranh chúng đưa ra rất phù du - một cái nhìn thoáng qua trong một giai đoạn ngắn ngủi - và tệ hơn, dẫn tới suy nghĩ sai lầm. Chúng ta càng gắn chặt vào các bảng xếp hạng, chúng ta càng có rủi ro bỏ qua và đánh giá thấp sự suy tàn quyền lực đã làm yếu đi nhiều ra sao tất cả các bên tham gia cuộc cạnh tranh, không chỉ những ai đang có vẻ suy yếu, mà cả những ai đang nổi lên.

Nhiều tác giả và học giả Trung Quốc rất háo hức về sự vươn lên của Trung Quốc; tương tự là những người Ấn Độ, Nga và Brazil đối với quốc gia của họ. Châu Âu đang héo hon vì việc châu lục này ngày càng bị gạt ra bên lề trận cờ địa chính trị của thế giới. Nhưng phần lớn cuộc đối thoại thang máy tới từ nước Mỹ, nơi những phân tích không mệt mỏi tranh luận rằng phải chăng sự suy yếu của quốc gia này là vĩnh viễn, có thể xử lý được, ngắn ngủi hay thật ra chỉ là một ảo giác. Những người khác đưa ra các lập luận gây khó chịu hơn về “sự nổi lên của phần còn lại” và con đường tới một thế giới mà địa chính trị trở nên “đa cực”. [1]

Những cuốn sách khác, phân tích các tác động pha loãng lên quyền lực gây ra bởi sự xuất hiện ngày càng nhiều quốc gia mới với khả năng ảnh hưởng tới những vấn đề toàn cầu, cũng đã tranh luận mà không bước ra khỏi cái thang máy hay vượt ra ngoài quan niệm sử dụng quốc gia-nhà nước như vai chính và đơn vị chủ đạo của phân tích. Charles Kupchan, một lý thuyết gia quan hệ quốc tế đáng kính, lập luận rằng “trật tự ở phương Tây sẽ không bị thay thế bởi một siêu cường hay một mô hình chính trị áp đặt mới. Thế kỷ XXI sẽ không thuộc về Mỹ, Trung Quốc, châu Á hay bất kỳ ai khác. Đó sẽ là thế giới của không ai cả. Lần đầu tiên trong lịch sử, thế giới sẽ trở nên phụ thuộc lẫn nhau - nhưng không có một trung tâm quyền lực hay một kẻ bảo vệ toàn cầu”. [2] Đây cũng là quan điểm của học giả và nhà tư vấn kinh doanh Ian Bremmer, người đã gọi nó là “G-Zero: một trật tự thế giới trong đó không quốc gia hay liên minh bền vững các quốc gia nào có thể đáp ứng những thách thức của việc lãnh đạo toàn cầu”. [3] Và cả hai học giả này nhắc lại nhận xét của Zbigniew Brzezinski rằng “chúng ta đã tiến vào một thời đại hậu siêu cường”, có nghĩa là trong những năm tới sẽ không quốc gia nào nắm quyền lãnh đạo trong chính trị toàn cầu nhiều như các siêu cường từng làm trong quá khứ. [4]

Khó mà bất đồng với những lập luận này. Trong Chương 5, chúng ta đã tìm hiểu nhiều lực lượng âm mưu chống lại sự thống trị lâu dài của bất cứ quốc gia-nhà nước đơn lẻ nào. Nhưng duy trì sự tập trung chú ý của chúng ta vào quốc gia-nhà nước - thậm chí khi lập luận rằng không có quốc gia nào sẽ thống trị các vấn đề thế giới - có thể làm lu mờ tầm nhìn của chúng ta với những lực lượng khác đang định hình lại các vấn đề quốc tế: sự suy tàn của quyền lực trong chính trị quốc gia, doanh nghiệp và phần còn lại.

Liệu Mỹ có là siêu cường duy nhất, một quyền lực không thế thiếu hay một đế chế đang ở buổi hoàng hôn, liệu Trung Quốc hay một đối thủ nào khác có đứng lên thay thế hay không, có lẽ là một cuộc tranh luận bao trùm trong quan hệ quốc tế. Nhưng những lập luận đó không thích hợp với một thế giới mà quyền lực đang suy tàn - nơi những hình thức chia rẽ chưa có tiền lệ đang diễn ra bên trong mỗi quốc gia này và khắp các hệ thống thương mại, đầu tư, di cư và văn hóa. Xác định ai đang lên và xuống ít quan trọng hơn hiểu điều gì đang xảy ra bên trong các quốc gia, phong trào chính trị, tập đoàn và tôn giáo hiện đang ở trong chiếc thang máy. Ai đang lên và ai đang xuống sẽ còn kém quan trọng hơn trong một thế giới mà ai vươn lên đỉnh không ở đó được lâu và có thể thực thi ngày càng ít hơn với quyền lực mà họ có khi ở đó.

KHIẾN CUỘC SỐNG KHÓ KHĂN HƠN CHO NHỮNG “KẺ ĐƠN GIẢN HÓA TỒI TỆ”

Ngụ ý quan trọng thứ hai của phân tích này là sự tổn thương gia tăng của chúng ta với những ý tưởng xấu và những nhà lãnh đạo tồi tệ. Nói ngắn gọn, một khi chúng ta đã ra khỏi thang máy, chúng ta cần hoài nghi, đặc biệt là với phiên bản hiện đại “những kẻ đơn giản hóa tồi tệ” của Burckhardt.

Sự suy tàn của quyền lực tạo ra mảnh đất màu mỡ cho những kẻ mị dân khai thác nỗi thất vọng với những người đang nắm quyền, hứa hẹn thay đổi, lợi dụng sự ồn ào gây hoang mang được tạo ra bởi sự tăng trưởng các nhân tố, tiếng nói và đề xuất. Sự rối loạn sinh ra từ những thay đổi tới quá nhanh, gây ra đứt gãy quá lớn, phá hủy những sự chắc chắn và việc thực thi mọi thứ theo cách cũ - tất cả đều là sản phẩm phụ của các cuộc cách mạng Nhiều Hơn, Di Động và Tinh Thần - đưa tới những cơ hội lớn cho các nhà lãnh đạo với những ý tưởng tồi. Những giám đốc ngân hàng ca tụng các công cụ tài chính độc hại như những giải pháp sáng tạo, các chính trị gia Mỹ hứa hẹn loại bỏ thâm hụt tài khóa mà không tăng thuế, và ở cực bên kia, quyết định của Tổng thống Pháp Francois Hollande đánh khoản thuế khác thường 75% lên thu nhập của người giàu chỉ là một vài ví dụ. Những người tin tưởng mù quáng vào công nghệ thông tin, những người tin rằng một mình những “sửa đổi” công nghệ sẽ giải quyết các vấn đề khó khăn của con người từ xưa tới nay, cũng có khuynh hướng phóng đại những tuyên bố của họ và rốt cuộc trở thành những “kẻ đơn giản hóa tồi tệ”.

Những sự mị dân nguy hiểm này có thể được tìm thấy trong mọi lĩnh vực khác đã được thảo luận: các chủ doanh nghiệp và những nhà tư duy tranh luận rằng các công ty Internet - với tài sản tối thiểu và rất ít hay không có doanh thu - xứng đáng được định giá cao hơn so với những công ty của “nền kinh tế cũ” với dòng tiền mặt ổn định và tài sản lớn, những nhà chiến lược hứa hẹn rằng xâm lược Iraq sẽ “dễ như ăn kẹo” và những kẻ xâm lược sẽ được chào đón như những người giải phóng hay rằng cuộc chiến sẽ “tự chi tiền cho nó” nhờ vào trữ lượng dầu mỏ của Iraq. Osama bin Laden và AI Qaeda, Taliban và các phong trào tàn bạo khác cũng phụ thuộc vào sự đơn giản hóa tồi tệ mà chúng đã phổ biến thành công. Những lời hứa và giả định của “Cuộc cách mạng Bolivar” được tạo cảm hứng bởi Hugo Chavez hay, ở thái cực đối lập, những người thuộc Đảng Trà ở Mỹ cũng có gốc rễ từ sự đơn giản hóa tồi tệ bất chấp những bài học mà kinh nghiệm đem lại và quan trọng không kém, bất chấp những dữ liệu và bằng chứng khoa học.

Tất nhiên, những kẻ mị dân, những tay bịp bợm và những kẻ xỏ lá ba que không có gì mới, lịch sử đầy những câu chuyện về những kẻ đã giành được quyền lực và những người từng ở trên đỉnh cao để lại những hậu quả tồi tệ. Điều mới là một môi trường mà trong đó những kẻ mới gia nhập - bao gồm cả những kẻ với ý tưởng độc hại – dễ giành được quyền lực hơn nhiều.

Để mắt tới những kẻ đơn giản hóa tồi tệ này và từ chối họ khỏi các ảnh hưởng mà họ tìm kiếm luôn là việc cần thiết. Và tăng cường khả năng của chúng ta - cá nhân và tập thể, tri thức và chính trị - trong việc phát hiện ra họ giữa đám đông còn là một ưu tiên lớn hơn ở một thế giới đang trải qua thay đổi nhanh chóng và gây hoang mang. Điều đó khởi đầu với việc đón nhận thực tế về sự suy tàn của quyền lực và, một lần nữa, thay đổi cuộc đối thoại của chúng ta để phản ánh đúng nó. Không chỉ trong hành lang của các dinh Tổng thống, các tổng hành dinh tập đoàn và các phòng điều hành trường đại học, mà còn trong những cuộc chuyện phiếm quanh bình nước ở các văn phòng, những cuộc đối thoại tình cờ giữa bạn bè và ở bàn ăn tại nhà.

Các cuộc đối thoại này là yếu tố không thể thiếu cho một môi trường chính trị thiếu chào đón với những kẻ đơn giản hóa tồi tệ. Như Francis Fukuyama đã lập luận một cách đúng đắn, để loại bỏ nền dân chủ phủ quyết đang làm tê liệt hệ thống, “cải cách chính trị, đầu tiên và quan trọng nhất, phải được tạo động lực bởi sự vận động đông đảo quần chúng”. [5] Điều này, tới lượt nó, đòi hỏi tập trung vào cuộc đối thoại về việc làm sao kìm hãm những khía cạnh tiêu cực của sự suy tàn quyền lực và đưa chúng ta về phía sườn dốc tích cực của biểu đồ hình chữ U ngược. Để điều này xảy ra, chúng ta cần thứ gì đó rất khó: gia tăng xu hướng trao nhiều quyền hơn cho những ai đang cai trị chúng ta trong các xã hội dân chủ. Và điều đó là không thể trừ khi chúng ta tin tưởng họ hơn. Điều đó tất nhiên còn khó khăn hơn nữa. Nhưng cũng là bắt buộc.

MANG LÒNG TIN TRỞ LẠI

Dù sự suy tàn quyền lực ảnh hưởng tới mọi lĩnh vực của hoạt động có tổ chức của con người, hậu quả ở một số lĩnh vực là đáng ngại hơn những lĩnh vực khác. Khả năng áp đặt ý chí hay duy trì quyền lực giảm sút của các lãnh đạo doanh nghiệp là vấn đề ít nghiêm trọng hơn khi điều đó xảy ra với các nhà lãnh đạo bị tê liệt vì nền dân chủ phủ quyết.

Và ở phạm vi quốc tế, trình trạng tê liệt thậm chí còn đáng lo hơn. Những vấn đề toàn cầu đang tăng lên nhanh chóng trong khi năng lực xử lý chúng của cộng đồng quốc tế đang bế tắc hay suy yếu. Nói cách khác, sự bất lực của một số giám đốc doanh nghiệp ít đe dọa tất cả chúng ta hơn việc những nhà lãnh đạo quốc gia và quốc tế, giống như Gulliver, bị bất động bởi hàng nghìn “quyền lực vi mô” nhỏ bé cột chặt họ lại.

Lần cuối bạn nghe rằng một nhóm đông đảo các nước đạt được thỏa thuận quốc tế lớn về một vấn đề cấp thiết là khi nào? Phải là hơn một thập kỷ rồi, và với một số vấn đề quan trọng, khoảng thời gian không hành động đó kéo dài tận hai hoặc ba thập kỷ. Sự bất lực của các quốc gia châu Âu - thật trớ trêu cũng là nhóm nước đã áp dụng cơ chế quản trị chia sẻ - để hành động cùng nhau trước cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ cũng tiết lộ nhiêu điều về tình trạng tê liệt này. Cũng như sự bất lực của thế giới trong việc ngăn chặn phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính làm trái đất ấm lên. Hay sự bất lực trong việc ngăn ngừa những cuộc thảm sát như những gì nổ ra ở Syria năm 2012.

Hình mẫu - và sự khẩn cấp - là rõ ràng: Kể từ đầu những năm 1990, khi các tác động của những cuộc cách mạng Nhiều Hơn, Di Động và Tinh Thần lan khắp thế giới, nhu cầu hợp tác đa quốc gia hiệu quả đã tăng mạnh. Nhưng năng lực hồi đáp của thế giới đã không thể theo kịp những nhu cầu mới này. Những cuộc thương lượng đa phương quan trọng thất bại, những thời hạn chót bị bỏ lỡ, những hứa hẹn và cam kết tài chính không được tôn trọng, việc thực thi chững lại. Hành động tập thể tầm quốc tế kém quá xa so với những gì được đề nghị, và quan trọng hơn, những gì cần. [6] Những thất bại này cho thấy không chỉ việc thiếu vắng gần như kinh niên sự đồng thuận quốc tế mà còn, thật vậy, một tuyên ngôn quan trọng khác về sự suy tàn của quyền lực.

Và tất cả những điều này có ý nghĩa gì với nhu cầu khôi phục lòng tin?

Thất bại của các nhà lãnh đạo chính trị trong việc hợp tác hiệu quả với những nước khác liên quan tới điểm yếu của họ ở quê nhà. Các chính phủ với sự ủy nhiệm yếu hoặc không tồn tại không thể đạt được các thỏa thuận quốc tế do các thỏa thuận này thường đòi hỏi những cam kết, nhượng bộ, đánh đổi và thậm chí hy sinh mà dư luận nước họ sẽ không cho phép họ thực hiện. Ngụ ý không phải là chúng ta cần trao một tấm séc khống và quyền lực không hạn định cho những ai cai trị chúng ta: chúng ta biết rằng quyền lực không có sự kiểm soát, trách nhiệm giải trình và các lực lượng đối trọng là nguy hiểm và không thể chấp nhận. Nhưng chúng ta cũng cần nhận ra rằng khi xã hội chúng ta vận hành ở phía suy giảm của đường cong hình chữ U ngược, thêm hạn chế cho quyền lực của những nhân vật trong chính phủ rốt cuộc sẽ làm tổn thương chính chúng ta. Khôi phục lòng tin là việc cực kỳ quan trọng để giảm bớt sự kiểm soát này và mang chúng ta trở lại phía bên kia của đường cong chữ U ngược, nơi mà xã hội được hưởng lợi. Số lượng cùng sự phức tạp bùng nổ của các cơ chế kiểm tra và giám sát nhằm hạn chế quyền lực của những người điều hành các chính phủ dân chủ là hệ quả trực tiếp của việc suy thoái lòng tin. Ở một số nước, sự suy giảm này đã trở thành một khuynh hướng bền vững. Hãy nhớ lại nhận xét của Chủ tịch Carnegie, Jessica Mathews, người đã được trích dẫn ở Chương 4 trong bối cảnh cuộc cách mạng Tinh Thần: “[Ở Mỹ] bất kỳ ai dưới tuổi bốn mươi đã sống cả cuộc đời của họ ở một đất nước mà đa số người dân không tin tưởng chính chính phủ của họ làm điều mà họ nghĩ là đúng”. [7]

Tất nhiên, có rất nhiều lý do để không tin tưởng những chính trị gia và nói chung, những ai đang nắm quyền: không chỉ bởi sự gian dối và tham nhũng của họ, mà còn bởi các chính phủ thường điều hành kém cỏi hơn so với những kỳ vọng của các cử tri. Hơn nữa, chúng ta đều được tiếp cận thông tin tốt hơn và sự soi mói nhiều hơn của truyền thông có xu hướng nhấn mạnh những hành vi sai trái, sai lầm và thiếu sót của chính quyền. Kết quả là, mức độ tin cậy thấp vào chính phủ giờ phổ biến và trở nên mãn tính.

Điều này cần phải thay đổi. Chúng ta cần khôi phục lòng tin vào chính phủ và vào các lãnh đạo chính trị của chúng ta. Để điều này xảy ra cần những thay đổi sâu sắc trong cách các đảng chính trị tổ chức và hoạt động, cách họ kiểm tra, giám sát, buộc trách nhiệm giải trình và thăng thưởng - hay hạ bệ - các lãnh đạo của họ. Các đảng chính trị biết thích nghi với thế kỷ XXI là một ưu tiên.

CỦNG CỐ CÁC ĐẢNG CHÍNH TRỊ: NHỮNG BÀI HỌC TỪ CHIẾM PHỐ WALL VÀ AL QAEDA

Trong phần lớn các nền dân chủ, các đảng phái tiếp tục là những tổ chức chính trị chủ đạo và nắm giữ quyền lực đáng kể. Nhưng bên dưới bề mặt này, họ đang phân mảng, suy yếu và phân cực như hệ thống chính trị nói chung mà họ vận hành trong đó. Thật vậy, ngày nay hầu hết các đảng chính trị chính thống kiểu cũ không thể tập hợp quyền lực như họ đã từng. Một ví dụ minh họa là cuộc tiếp quản hằn học Đảng Cộng hòa bởi Đảng Trà và những chia rẽ nội bộ mà Đảng Trà gây ra trong thứ một thời từng là một trong những cỗ máy chính trị nhiều quyền lực nhất thế giới. Những cuộc xung đột phe phái tai họa tương tự cũng có thể thấy được ở các đảng chính trị trên toàn thế giới.

Xem xét cách nào đi nữa thì từ những năm 1990, các đảng chính trị đã trải qua một thời kỳ tồi tệ. Ở hầu hết các nước, những cuộc thăm dò ý kiến cho thấy uy tín và giá trị của chúng trong mắt chính những người mà chúng phục vụ đang suy giảm, và trong một số trường hợp, đã xuống mức thấp nhất mọi thời đại. [8]

Kết thúc của Chiến tranh Lạnh, và cụ thể hơn là sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản như một ý thức hệ đầy cảm hứng, đã làm mờ đi các lằn ranh ý thức hệ từng trao cho nhiều đảng phái bản sắc độc nhất vô nhị của họ. Khi những nền tảng bầu cử trở nên không thể phân biệt nổi, cá tính của các ứng cử viên trở thành nhân tố khác biệt chính yếu và thường xuyên là duy nhất. Để thắng các cuộc bầu cử, những đảng chính trị dựa ngày càng ít vào sự hấp dẫn với quần chúng trong lý tưởng và ý tưởng của họ, và ngày càng nhiều vào các kỹ thuật tiếp thị lẫn kỹ năng truyền thông của các ứng viên, và tất nhiên, tiền bạc mà họ có thể huy động. Một cách tự nhiên, cũng những vụ bê bối đã làm hoen ố các chính trị gia với tư cách cá nhân cũng ảnh hưởng tới những tổ chức chính trị mà họ thuộc về. Một lần nữa, truyền thông tự do hơn và các quốc hội cùng hệ thống tư pháp độc lập hơn đảm bảo rằng các hành vi tham nhũng, một thời từng được che giấu cẩn thận hay được dung thứ một cách lặng lẽ, giờ bị lột trần một cách đau đớn và là tội ác không thể chối cãi, qua đó làm sụt giảm “thương hiệu” của đảng chính trị. Sự hoen ố uy tín trước dư luận cũng được thúc đẩy bởi những đảng phái chính trị - vốn không còn phân biệt được họ về mặt ý thức hệ với các đối thủ của họ nữa - và dựa trên những cáo buộc và bê bối tham nhũng để bôi đen các đối thủ chính trị trong tâm trí của cử tri. Không thể nói chắc liệu tham nhũng chính trị thực sự có tăng trong những thập kỷ qua, nhưng chắc chắn là nó đã được công khai nhiều hơn bao giờ hết.

Trong khi đó, ở những nơi các đảng chính trị gặp khó khăn, các phong trào xã hội và những tổ chức phi chính phủ (NGO) bùng nổ. Ngay cả những tổ chức khủng bố tàn bạo nhất như AI Qaeda (mà theo nhiều khía cạnh quan trọng cũng là những NGO) cũng vươn ra toàn cầu và hoạt động tốt vào những năm 1990. Trong khi mối quan hệ giữa các đảng chính trị và những khu vực bầu cử của họ yếu đi, mối quan hệ giữa các NGO và những người ủng hộ họ chặt chẽ hơn. Trong khi vị thế trong mắt công chúng của các chính trị gia và đảng chính trị tiếp tục suy giảm, uy tín và ảnh hưởng của các NGO tăng lên. Lòng tin vào các NGO tăng lên cũng nhanh như lòng tin vào các đảng phái chính trị suy giảm. Khả năng của các NGO trong việc chiêu mộ những nhà hoạt động trẻ và có động cơ cao sẵn sàng hy sinh cho tổ chức và sứ mệnh của nó là một kỹ năng mang tính tổ chức đã trở nên phổ biến trong các NGO hơn là các đảng chính trị.

Khi các NGO theo đuổi những vấn đề đơn lẻ của họ với lòng hăng hái thống nhất vì một mục tiêu, các đảng chính trị theo đuổi một loạt các mục tiêu khác nhau, thậm chí là mâu thuẫn nhau, và chỉ có vẻ thống nhất vì một mục tiêu khi mưu cầu những đóng góp cho các chiến dịch tranh cử. Ở những nước mà các đảng chính trị vẫn bị cấm hay bị kiềm kẹp, các NGO đã trở thành kênh duy nhất cho chủ nghĩa tích cực chính trị và xã hội. Ở hầu hết các nước khác, những NGO tăng trưởng nhanh chóng vì chúng ít bị vấy bẩn bởi tham nhũng, thường thuộc về một mạng lưới quốc tế rộng lớn hơn, và nói chung có những lý tưởng rõ ràng, một cấu trúc ít tính thứ bậc hơn và mối quan hệ gần gũi hơn với các thành viên. Các NGO cũng có lợi thế của việc có một tầm nhìn rõ ràng. Dù là tận tụy bảo vệ quyền con người, cứu môi trường, giảm nghèo đói hay kiểm soát tăng trưởng dân số, các thành viên của chúng hiếm khi để mất tầm nhìn về những gì mà tổ chức của mình đại diện. Tất cả các yếu tố này dẫn tới hàng loạt những nhà hoạt động chính trị mới, những người mà trong quá khứ sẽ bị lôi kéo về phía các đảng chính trị, nay có khuynh hướng tới với các NGO nhiều hơn.

Nói chung, sự tăng trưởng của các NGO là một khuynh hướng đáng chào đón. Điều ít đáng chào đón hơn, và thật ra phải dè chừng, là sự xói mòn vị thế của các đảng chính trị trong công chúng, điều mà ở nhiều nước - Ý, Nga, Venezuela và vân vân - đã dân tới sự biến mất và thay thế bằng những cỗ máy chỉ để phục vụ cho bầu cử.

Chìa khóa cho sự nổi lên trở lại và gia tăng hiệu quả của các đảng chính trị là đạt được khả năng truyền cảm hứng, tạo năng lượng và vận động mọi người - đặc biệt là những người trẻ - những người mà nếu không thì sẽ căm ghét chính trị, hay chuyển bất cứ năng lượng chính trị nào mà họ có vào các tổ chức chỉ có một mục tiêu đơn lẻ hay thậm chí là những nhóm bên rìa.

Các đảng chính trị do đó phải sẵn sàng điều chỉnh cấu trúc và phương pháp của họ phù hợp với một thế giới đã được kết nối hơn. Cũng như những cấu trúc tương đối phẳng, ít thứ bậc đã cho phép các NGO nhanh nhẹn hơn, thích nghi tốt hơn và hòa hợp hơn với những yêu cầu cùng kỳ vọng từ các thành viên của nó, chúng cũng có thể giúp các đảng chính trị tìm kiếm những thành viên mới, trở nên nhanh nhẹn hơn, thúc đẩy những nghị trình của họ và hy vọng, trở nên tốt hơn trong cuộc chiến chống lại những kẻ đơn giản hóa tồi tệ đang tìm kiếm quyền lực bên trong và bên ngoài đảng.

Các NGO giành được sự tin tưởng từ những người ủng hộ họ bằng cách khiến các thành viền cảm thấy họ đang tạo ra ảnh hưởng trực tiếp, rằng những nỗ lực của họ là không thể thiếu, rằng các nhà lãnh đạo của họ có trách nhiệm giải trình, minh bạch và không bị cầm giữ trong những lợi ích đen tối hay không ai hay biết. Các đảng chính trị cần gợi ra cảm xúc tương tự từ những giai tầng lớn hơn trong xã hội và phải được chiêu mộ thành viên từ trong só những nhà hoạt động tích cực nhất ở bên ngoài cơ sở nhỏ hẹp, truyền thống.

Chỉ khi đó họ mới có thể khôi phục lại kiểu quyền lực mà họ cần để cai trị thật tốt chúng ta.

TĂNG SỰ THAM GIA CHÍNH TRỊ

Nói dễ hơn làm. Ai có thời gian chứ? Và ai có sự kiên nhẫn để tham gia mọi cuộc gặp và hoạt động nhóm đi kèm khi tham gia vào bất cứ công việc tập thể nào - nhất là một đảng chính trị? Điều này và những nguyên nhân hợp lý khác giải thích tại sao hiếm khi mọi người tích cực tham dự vào các đảng phái chính trị hay sứ mệnh xã hội, ngoài việc thỉnh thoảng cho đi một khoản đóng góp và lâu lâu mới tham dự một cuộc họp hay một cuộc tuần hành. Trong hoàn cảnh thông thường, việc tham gia chính trị và chủ nghĩa tích cực xã hội là dành cho những người thiểu số.

Nhưng trong những năm gần đây, chúng ta đã ngạc nhiên bởi sự quan tâm tới những vấn đề chung gia tăng đột ngột, những công dân thường không quan tâm, hay thậm chí là lãnh đạm, có thể được huy động với số lượng lớn, và sự gắn bó của hàng chục nghìn người trong các hoạt động chính trị đòi hỏi nhiều hơn (và ở một số quốc gia nguy hiểm hơn) là tham dự một cuộc gặp mặt của đảng chính trị.

Ở Mỹ chẳng hạn, Barack Obama và chiến dịch tranh cử tổng thống của ông năm 2008 đã có thể huy động một số lớn những người mê chính trị mới vào nghề và người trẻ vốn thường không quan tâm hay gắn bó với các hoạt động bầu cử của một trong hai đảng. Ngoài nền tảng và sắc tộc của ứng viên, nhiều điều đã xảy ra trong chiến dịch năm 2008 là chưa có tiền lệ: từ những sự sáng tạo trên mạng xã hội được sử dụng để nhắm các quảng cáo bầu cử tới những cử tri cụ thể, đến việc sử dụng và chiêu mộ tình nguyện viên, sang cách tiếp cận gây quỹ thật khó tin. Những ngạc nhiên về sự nổi lên đột ngột của chủ nghĩa tích cực chính trị, ở những nhóm vốn tỏ ra chậm chạp, không dừng lại với những kẻ mới gia nhập chính trị trong chiến dịch của ông Obama. Được tạo năng lượng, hay đúng hơn, bị chọc giận bởi những cuộc khủng hoảng tài chính và quan niệm về sự bất công trong phân phối những gánh nặng của cuộc khủng hoảng, phong trào Chiếm Phố Wall và hàng nghìn chiến dịch tương tự ở các thành phố trên toàn thế giới cũng làm kinh ngạc các chính phủ và đảng phái chính trị, vốn chật vật trong việc tìm hiểu bản chất và hoạt động của chúng, trong khi tìm cách để thu hút năng lượng chính trị từ những phong trào hoàn toàn đột ngột đó.

Tuyên ngôn ngạc nhiên nhất và gây nhiều hậu quả nhất của xu hướng hoạt động rộng lớn hơn này bắt đầu với một vụ lộn xộn ở một thị trấn nhỏ tại Tunisia vào tháng 12 năm 2010. Nó dẫn tới việc lật đổ chính phủ ở đó và rốt cuộc trở thành một làn sóng lây lan những cuộc phản đối và biểu tình khắp Trung Đông - Mùa xuân A-rập. Hàng triệu người dân một thời từng thụ động - và bị đàn áp - đã trở thành những nhân tố chính trị sẵn sàng hy sinh lớn lao, không chỉ mạo hiểm sinh mạng của chính mình mà còn của cả gia đình. Ngược lại với những phong trào ‘‘Chiếm Phố Wall”, cho tới giờ vẫn không thể chuyển năng lượng chính trị thành quyền lực chính trị, trong Mùa xuân A-rập, sự thức tỉnh chính trị đã thật sự dẫn tới những chuyển đổi quyền lực quan trọng.

Như thế, ở những nơi mà dưới các tình huống thông thường, sự tham gia chính trị là dành cho những nhóm nhỏ các nhà hoạt động gắn kết, trong những tình huống khác, chẳng hạn như các cuộc cách mạng, chủ nghĩa tích cực chính trị trở thành sự tập trung ám ảnh của toàn xã hội. Nhưng giá của những cuộc cách mạng thường quá đắt, kết quả của chúng quá thiếu chắc chắn và sự tiến bộ không hề được bảo đảm. Vì thế, thách thức ở đây là tránh những cuộc cách mạng tốn kém và rủi ro trong khi tạo và phân bổ năng lượng chính trị tiềm tàng ở tất cả các xã hội để tạo ra những thay đổi như mong muốn. Cách tốt nhất để làm điều đó là thông qua những đảng chính trị có khả năng cạnh tranh tốt hơn.

Tư duy lại các đảng chính trị, hiện đại hóa phương pháp tuyển mộ của chúng, trang bị lại cách tổ chức và hoạt động của chúng có thể nâng cao sức hút và khiến chúng đáng tin cậy hơn trong mắt những xã hội mà chúng muốn cai trị. Một cách lý tưởng, chúng cũng có thể trở thành những phòng thí nghiệm hiệu quả hơn cho sự cách tân chính trị. Chỉ khi chúng ta khôi phục lòng tin vào hệ thống chính trị ở quốc nội - qua đó trao cho những nhà lãnh đạo của mình năng lực hạn chế sự suy tàn của quyền lực, giúp họ đưa ra những quyết định khó và tránh tình trạng bế tắc - khi đó chúng ta mới có thể xử lý những thách thức khẩn cấp nhất trên toàn cầu. Và để làm được điều này, chúng ta cần những đảng chính trị mạnh mẽ hơn, hiện đại hơn và dân chủ hơn thúc đẩy và tạo điều kiện cho sự tham gia chính trị.

SỰ NỔI LÊN CỦA NHỮNG CÁCH TÂN CHÍNH TRỊ TRONG TƯƠNG LAI GẦN

Khôi phục lòng tin, tái tạo lại các đảng chính trị, tìm những cách mới trong đó các công dân bình thường có thể tham gia một cách có ý nghĩa vào quy trình chính trị, tạo ra những cơ chế quản trị hiệu quả, hạn chế những ảnh hưởng tồi tệ nhất của việc kiểm tra và giám sát trong khi ngăn ngừa sự tập trung thái quá quyền lực không thể kiểm soát, tăng cường năng lực của quốc gia-nhà nước trong việc hợp tác với nhau phải là những mục tiêu chính trị trọng tâm trong thời đại chúng ta.

Không có những thay đổi này, không thể có sự tiến bộ bền vững trong cuộc chiến chống lại những mối đe dọa ở trong và ngoài nước đang âm mưu gây tổn hại an ninh và sự phồn vinh của chúng ta.

Trong thời đại của những thay đổi cách mạng này, khi mà gần như không điều gì chúng ta làm hay trải nghiệm trong cuộc sống hàng ngày là không bị ảnh hưởng, đáng ngạc nhiên là một lĩnh vực trọng yếu vẫn còn chưa được đụng tới: cách chúng ta cai trị chính bản thân cùng cộng đồng, quốc gia và hệ thống quốc tế của mình. Hay những cách mà qua đó, chúng ta tham gia vào quá trình chính trị với tư cách cá nhân. Những ý thức hệ tới rồi đi, những đảng phái nổi lên rồi tan rã và một số hoạt động của chính phủ đã được cải thiện bằng những cải cách và công nghệ thông tin. Các chiến dịch bầu cử giờ dựa nhiều hơn vào những phương pháp thuyết phục tinh vi - và tất nhiên, nhiều người hơn bao giờ hết đang được cai trị bởi một nhà lãnh đạo mà họ bầu lên, chứ không phải bởi một nhà độc tài. Trong khi được chào đón, những thay đổi này chẳng là gì khi so sánh với những sự chuyển đổi phi thường về thông tin liên lạc, y tế, kinh doanh và chiến tranh.

Nói ngắn gọn, sự sáng tạo mang tính phá vỡ đã không xảy ra trong chính trị, quản trị nhà nước và sự tham gia chính trị.

Nhưng nó sẽ xảy ra. Chúng ta đang ở bên bờ của một làn sóng cách mạng những cách tân chính trị và thể chế tích cực. Như cuốn sách này đã cho thấy, quyền lực đang thay đổi trong quá nhiều lĩnh vực, tới mức sẽ không thể để tránh né những chuyển đổi quan trọng trong cách các tổ chức tự mình đưa ra những quyết định mà chúng cần để sinh tồn và tiến bộ. Sự nổi lên của những sáng tạo sâu sắc và tích cực trong chính quyền từng xảy ra trước kia. Nền dân chủ Hy Lạp và làn sóng cách tân chính trị được giải phóng bởi cuộc Cách mạng Pháp chỉ là hai trong số những ví dụ nổi tiếng nhất. Chúng ta đã quá chậm chạp cho một cuộc cách tân khác. Như sử gia Henry Steele Commager đã nhận xét về thế kỷ XVIII:

Chúng ta đã phát minh ra dựa trên thực tế mọi định chế chính trị lớn mà chúng ta có, và chúng ta đã không phát minh ra thêm định chế nào nữa từ đó. Chúng ta đã phát minh ra đảng chính trị và nền dân chủ và chính phủ đại diện. Chúng ta đã phát minh ra hệ thống tư pháp độc lập đầu tiên trong lịch sử... Chúng ta đã phát minh ra sự giám sát của hệ thống tư pháp. Chúng ta đã phát minh ra việc quyền lực dân sự đứng trên quân sự. Chúng ta đã phát minh ra tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, Luật về các quyền - chúng ta có thể cứ kể mãi... Quả là một di sản lớn. Nhưng chúng ta đã phát minh ra được thêm điều gì cũng quan trọng tương đương như thế kể từ đó? [9]

Sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai, chúng ta quả có trải qua một sự nổi lên khác của những cách tân chính trị được thiết kế để ngăn ngừa một cuộc xung đột toàn cầu nữa. Điều đó dẫn tới việc thành lập Liên Hiệp Quốc cùng hàng loạt các tổ chức quốc tế chuyên biệt khác như Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế, điều này đã làm thay đổi bối cảnh của các định chế trên thế giới.

Một làn sóng khác, thậm chí còn sâu rộng hơn, của sự cách tân đang được hình thành - một làn sóng hứa hẹn sẽ thay đổi thế giới nhiều như các cuộc cách mạng công nghệ của hai thập kỷ qua đã làm được. Nó sẽ không diễn ra từ trên xuống, một cách có trật tự hay nhanh chóng, không phải là sản phẩm của các cuộc gặp thượng đỉnh hay hội họp, mà sẽ hỗn loạn, lộn xộn, và lúc chạy lúc chững. Nhưng nó là không thể tránh khỏi. Được thúc đẩy bởi sự chuyển đổi trong việc giành lấy, sử dụng và nắm giữ quyền lực, loài người phải, và sẽ, tìm ra cách mới để cai trị chính mình.

⚝ ✽ ⚝

[1] Một vài tác giả nhiều ảnh hưởng tranh luận rằng dù có sự nổi lên của các cường quốc khác trong bối cảnh quốc tế, Mỹ sẽ tiếp tục đóng vai trò dẫn dắt vì hàng loạt yếu tố: tầm với của quân đội nước này kết hợp với việc thiếu tham vọng lãnh thổ ( Monsoon của Robert D. Kaplan), sự kết hợp quyền lực “mềm” và “thông minh” của nước này ( The Tuture of Poiver của Joseph Nye), và sự cộng hưởng và tiến hóa nội bộ của nó thông qua các tổ chức, sự nhập cư và tự do ngôn luận (như một tranh luận khác của Robert Kaplan trong The World America Made). Trái lại, Fareed Zakaria, tác giả cuốn The Post-American World, cho rằng Mỹ không còn là siêu cường độc tôn ngay cả khi nó vẫn nắm quyền chỉ huy trong một thế giới đa cực, nhờ vào những xếp hạng cao của nước này, như có một trong những nền kinh tế cạnh tranh nhất, số trường đại học tốt nhất nhiều nhất thế giới, và các tài sản độc nhất vô nhị khác. Tại sao? Một phần vì thế hệ các chính trị gia hiện giờ sẽ không thể thực hiện đúng như lời hứa của họ (Xem thêm Fareed Zakaria, “The Rise of the Rest (tạm dịch: Sự Nổi Lên Của Phần Còn Lại)”, Newsweek, ngày 12 tháng 5 năm 2008).

[2] Kupchan, No One’s World: The West, the Rising Rest, and the Corning Global Turn.

[3] Bremmer, Every Nation for Itself Winners and Losers in a G-Zero World, trang 1.

[4] Brzezinski, Strategic Vision: America and the Crisis of Global Poioer.

[5] Francis Fukuyama, “Oh for a Democratic Dictatorship and Not a Vetocracy (tạm dịch: Ôi Cho Một Nhà Nước Độc Tài Dân Chủ Và Không Phải Một Nền Dân Chủ Phủ Quyết)”, Financial Times, ngày 22 tháng 11 năm 2011.

[6] Sáng kiến đa phương gần đây nhất được bảo trợ thành công bởi một nhóm lớn các quốc gia là vào năm 2000, khi 192 quốc gia ký Tuyên bố Thiên niên kỷ của Liên Hiệp Quốc, một bộ tám mục tiêu tham vọng trải từ giảm một nửa nghèo đói cùng cực trên thế giới tới ngăn chặn sự lây lan của HIV/AIDS và phổ cập giáo dục tiểu học toàn cầu - tất cả đều tới năm 2015. Hiệp định thương mại gần nhất bao gồm sự tham gia của nhiều nước là từ năm 1994, khi 123 quốc gia tập hợp lại để thương lượng việc thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới và nhất trí một bộ quy tắc mới cho thương mại quốc tế. Từ đó tới nay, tất cả những nỗ lực khác để đạt được một thỏa thuận thương mại toàn cầu đã đổ vỡ. Điều tương tự cũng đúng với những nỗ lực đa phương trong việc ngăn chặn phổ biến vũ khí hạt nhân: hiệp ước chống phổ biến vũ khí hạt nhân quan trọng ở quy mô quốc tế gần nhất là vào năm 1995, khi 185 nước đồng ý áp dụng vĩnh viễn một hiệp ước chống phổ biến hiện có lúc đó. Trong một thập kỷ rưỡi sau đó, những sáng kiến đa phương không chỉ thất bại mà Ấn Độ, Pakistan, và Bắc Triều Tiên đã cho thấy địa vị chắc chắn của họ như những cường quốc hạt nhân, về môi trường, Nghị định thư Kyoto, một thỏa thuận toàn cầu nhắm tới việc giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính, đã được phê chuẩn bởi 184 nước kể từ khi nó được áp dụng năm 1997, nhưng Mỹ, quốc gia gây ô nhiễm không khí lớn thứ hai thế giới sau Trung Quốc, đã không phê chuẩn, và nhiều nước ký đã bỏ lỡ các mục tiêu của họ. Để xem thêm thảo luận về những vấn đề này, xem bài báo của tôi “Minilateralism: The Magic Number to Get Real International Action (tạm dịch: Chủ Nghĩa Đa Phương Thu Nhỏ: Con Số Ma Thuật Để Có Hành Động Quốc Tế Thực Sự)”, Poreign Policy, tháng 7-8 năm 2009.

[7] Mathews, “Saving America (tạm dịch: Cứu Lấy Nước Mỹ)”.

[8] Gallup Inc., The World Poll (nhiều năm); Trung tâm Nghiên cứu Pew, http://pewresearch.org/topics/publicopinion/, Chương trình Thái độ Chính sách Quốc tế, Đại học Maryland; Eurobarometer, http://ec.europa.eu/public_opinion/index_en.htm; LatinoBarometro, http://www.latinobarometro.org/latino/latinobarometro.jsp.

[9] Henry Steele Commager, được trích dẫn trong Moyers, A World of Ideas: Conversations with Thoughtful Men and Women About American Life Today and the Ideas Shaping Our Future , trang 232.