← Quay lại trang sách

PHỤ LỤC Dân Chủ Và Quyền Lực Chính Trị:
Những Xu Hướng Chính Trong Thời Kỳ Hậu Chiến

Ghi chú với độc giả: Phụ lục này - do Mario Chacón, tiến sĩ Đại học Yale, chuẩn bị - được áp dụng riêng cho Chương 5.

ĐO ĐẾM SỰ TIẾN HÓA CỦA NỀN DÂN CHỦ VÀ NỀN ĐỘC TÀI

Tôi bắt đầu bằng cách xem xét số lượng các chế độ dân chủ đã thay đổi ra sao trong bốn thập kỷ qua. Để xác định quốc gia nào là dân chủ và quốc gia nào không, tôi dùng hai cách phân loại được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu học thuật. Cách phân loại các chế độ thứ nhất được cung cấp bởi cuộc thăm dò Freedom in the World do Freedom House tiến hành (2008). Trong cuộc thăm dò này, các chế độ được phân loại là “không tự do”, “tự do một phần” và “tự do”. Mỗi quốc gia được phân loại dựa trên một thang đo những quyền chính trị và tự do dân sự. Những phân nhóm trên thang đo gồm mức độ tự do của các quy trình bầu cử, sự đa nguyên chính trị, hoạt động của chính phủ, sự tự do bày tỏ ý kiến và niềm tin, sự tự do họp hội và tổ chức, pháp quyền và các quyền nhân thân. Vì mục đích phân tích, tôi xếp loại các nước “tự do” là dân chủ đầy đủ, các nước “không tự do” và “tự do một phần” là không dân chủ.

Nguồn thứ hai tôi sử dụng là cách phân loại chế độ của Przeworski và các cộng sự (2000), dựa trên một định nghĩa tối giản về dân chủ tương tự như định nghĩa được đề xuất bởi Schumpeter (1964). Trong cách phân loại này, một “nền dân chủ” là một chế độ mà trong đó chính quyền được lựa chọn thông qua bầu cử cạnh tranh. Như thế, theo cách phân loại này, bầu cử cạnh tranh công bằng và tự do là khía cạnh nền tảng của bất cứ chế độ dân chủ nào (xem Dahl 1971 để thấy một cách tiếp cận tương tự). Sử dụng hai cách phân loại này, tôi đã tính toán tỉ lệ phần trăm của tất cả các chế độ độc lập trên thế giới được phân loại là “dân chủ” (đối lập với “không dân chủ”) trong một năm cụ thể.

Hình A.l cho thấy sự tiến hóa của các chế độ dân chủ trên toàn thế giới kể từ năm 1972*.

Điểm khởi đầu 1972 tương ứng với thời điểm có dữ liệu. Chỉ số Freedom House cho giai đoạn từ 1972 tới 2008.

HÌNH A.1. TỈ LỆ PHẦN TRĂM CÁC CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ: 1972-2008

Như được thể hiện trong Hình A.l, tỉ lệ phần trăm những nền dân chủ trên toàn thế giới đã tăng đáng kể trong bốn thập kỷ qua. Theo Freedom House, vào năm 1972 chỉ hơn 28% của 140 chế độ độc lập được quan sát trên thế giới là dân chủ. Ba mươi năm sau đó, vào năm 2002, con số này là 45%. Sự gia tăng số lượng nền dân chủ trên toàn cầu này được xác nhận bởi dữ liệu của Przeworski. Trong cách phân loại này, từ 1972 tới 2002, tỉ lệ phần trăm những nền dân chủ đã tăng từ 27% năm 1972 lên 59% năm 2002. Có thể đoán được sự khác biệt giữa hai phép đo là do Freedom House sử dụng những điều kiện cho nền dân chủ theo nghĩa nào đó khắt khe hơn so với những điều kiện do Przeworski và các đồng tác giả của ông sử dụng. Tuy nhiên, chúng ta có thể kết luận từ sự xấp xỉ đầu tiên rằng đã có một khuynh hướng chung tích cực về số lượng các chế độ dân chủ trên toàn thế giới trong ba thập kỷ qua.

Liệu có những khác biệt mang tính khu vực trong sự tiến hóa của các chế độ dân chủ hay không? Nếu những nhân tố gây ra những thay đổi chế độ mạnh mẽ được tập hợp trong cùng một không gian, chúng ta hẳn phải quan sát được những hình mẫu khu vực trong sự tiến hóa của các chế độ dân chủ. Những hình mẫu khu vực này liên quan chặt chẽ tới ý tưởng “những làn sóng dân chủ hóa” ban đầu được mô tả bởi Huntington (1991). Để tìm hiểu khả năng này, trong Hình A.2 và A.3, tôi trình bày sự tiến hóa của các chế độ dân chủ (như tỉ lệ phần trăm của tất cả các chế độ) ở Mỹ Latin, châu Phi hạ Sahara, khối Liên Xô cũ, Bắc Mỹ và Trung Đông.*

Phân loại vùng được Ngân hàng Thế giới sử dụng.

Như được trình bày trong hai hình này, nhiều nước Mỹ Latin và Liên Xô cũ trải qua một sự chuyển giao dân chủ trong giai đoạn tù 1975 tới 1995. Sự chuyển giao này xảy ra chủ yếu vào cuối những năm 1970 với các nước Mỹ Latin và đầu 1990 với khối Liên Xô cũ (sau sự sụp đổ của bức tường Berlin năm 1989). Năm 2008, 54% các nước Mỹ Latin và 48% Liên Xô cũ, được xếp loại là tự do (dân chủ) bởi Freedom House. Cũng có một khuynh hướng dân chủ hóa tích cực ở châu Phi hạ Sahara, dù nó ít quyết liệt hơn so với xu hướng ở Mỹ Latin. Các nước A-rập ở Bắc Phi và Trung Đông ổn định một cách ấn tượng, không tới 10% các nước này được xếp loại là những nền dân chủ trong suốt các năm đó. Những mẫu này được xác nhận bởi dữ liệu của Przeworski vốn biểu diễn trên biểu đồ trong Hình A.3.

Tất nhiên, những khuynh hướng này chưa nắm bắt được tác động của Mùa xuân A-rập với các chế độ chính trị ở Bắc Phi và Trung Đông.

HÌNH A.2. NHỮNG XU HƯỚNG KHU VỰC (FREEDOM HOUSE 2010)

Các nước OECD không được trình bày ở đây vì các nước này không trải qua bất cứ thay đổi chế độ cực đoan nào trong suốt giai doạn nghiên cứu. Do tất cả các nước này đều là dân chủ từ đầu giai đoạn nghiên cứu, sự tiến hóa của họ mang đặc tính của một nền dân chủ ổn định (và được củng cố).

HÌNH A.3. NHỮNG KHUYNH HƯỚNG VÙNG VỀ DÂN CHỦ (PRZEWORSKI VÀ CÁC CỘNG SỰ, 2000)

CẢI CÁCH NHỎ VÀ SỰ TỰ DO HÓA

Những con số được trình bày ở đây tới giờ tập trung vào những chuyển đổi chính trị sâu sắc trong đó một thể chế chính trị trở thành (hay chấm dứt) một nền dân chủ. Những con số có thể che giấu những phong trào nhỏ hơn hướng tới dân chủ ở nhiều quốc gia không trải qua một sự chuyển đổi hoàn toàn. Những cải cách nhỏ có thể mang lại những thay đổi quan trọng trong sự phân bổ quyền lực chính trị và nhân quyền. Lấy ví dụ, nhiều chế độ không dân chủ giới thiệu và cho phép cạnh tranh bầu cử để bầu ra cơ quan lập pháp và các vị trí hành pháp cấp cao. Ngay cả nếu hầu hết các cuộc bầu cử trong những chế độ được coi là hoàn toàn dân chủ cũng không tuyệt đối công bằng, sự tự do hóa nhỏ có thể báo hiệu những thay đổi quan trọng trong sự phân phối quyền lực. Hơn nữa, nhiều sự chuyển đổi xảy ra từ từ, nên sự bắt đầu của cạnh tranh trong bầu cử có thể là dấu hiệu về sự dân chủ hóa trong tương lai.

Để tìm hiểu những thay đổi nhỏ, tôi đã sử dụng Điểm số Chính thể được phát triển trong Dự án Chính thể của Marshall và Laggers (2004). Cách đo này là một phép xấp xỉ liên tục cho phép chúng ta nắm bắt được những thay đổi chế độ nhỏ, dù chúng có kết thúc ở sự dân chủ hóa hay không. Một cách cụ thể, Điểm số Chính thể là một thang 20 điểm (trải từ -20, cho một chế độ độc tài tuyệt đối, tới 20, cho một nền dân chủ hoàn toàn) đo đạc nhiều khía cạnh khác nhau của dân chủ và toàn trị. Những yếu tố cấu thành thang điểm này bao gồm sự cạnh tranh và cởi mở trong việc tuyển mộ ở nhánh hành pháp, những hạn chế với hành pháp và sự cạnh tranh trong tham gia chính trị. Hình A.4 trình bày sự tiến hóa của Điểm số Chính thể trung bình trên thế giới.

HÌNH A.4. SỰ TIẾN HÓA CỦA DÂN CHỦ: 1970-2008

Hình A.4 hoàn toàn nhất quán với Hình A.l. Năm 1972, điểm trung bình của thế giới là -1,76 cho 130 nước; năm 2007, điểm số là 3,69 cho 159 nước.* Có lẽ việc còn thú vị hơn là tìm hiểu những khuynh hướng cụ thể cho khu vực bằng cách sử dụng Điểm số Chính thể. Hình A.5 trình bày cùng điểm số trung bình thế giới như thế nhưng theo khu vực (Lưu ý rằng các nước Đông Á và Thái Bình Dương cũng bao gồm ở đây). Hình A.5 tương ứng với các Hình A.2 và A.3, nhưng thay vì những cải cách sâu sắc, nó cho thấy những sự chuyển động trung bình trong điểm số về dân chủ theo vùng, dù cho chế độ đó đã trở thành (hay không còn là) dân chủ hay không.

Dự án Chính thể loại trừ các quốc gia với dân số ít hơn 100.000.

Như được minh họa trong Hình A.5, những khuynh hướng tích cực trong Điểm số Chính thể trong bốn thập kỷ qua - thể hiện các quốc gia nào trở nên dân chủ hơn theo thời gian - mang tính toàn cầu. Hình này cũng chỉ ra rằng tốc độ của sự phát triển dân chủ khác nhau theo khu vực. Các nước Mỹ Latin và hậu Liên Xô cho thấy sự cải thiện lớn nhất trong điểm số dân chủ của họ, các nước Đông Á cùng Thái Bình Dương và châu Phi hạ Sahara cho thấy sự cải thiện đáng kể, các nước Bắc Phi và Trung Đông ít cho thấy sự cải thiện nhất. Cả ba xu hướng này rõ rệt hơn trong giai đoạn sau 1990 so với trong giai đoạn trước.

HÌNH A.5. NHỮNG XU HƯỚNG KHU VỰC TRONG DÂN CHỦ: ĐIỂM SỐ CHÍNH THẾ

NHỮNG ĐẠI DIỆN CỦA TỰ DO HÓA VÀ DÂN CHỦ HÓA

Những chỉ số ở trên dựa vào các đặc điểm có thể định lượng của các chế độ được quan sát, trong khi ở phần này tôi đang tập trung vào những đặc điểm liên quan trực tiếp tới sự tự do hóa về chính trị (hay vào sự dân chủ hóa). Đầu tiên, tôi nhìn vào mức độ cạnh tranh chính trị. Với nhiều nhà lý thuyết chính trị, mức độ và kiểu cạnh tranh chính trị là những đặc điểm cơ bản của bất cứ chế độ dân chủ nào (xem Dahl 1971). Một sự ước lượng đơn giản mức độ cạnh tranh là tìm hiểu sự cấu thành đảng phái trong các cơ quan lập pháp ở các chế độ. Trong những chế độ độc đảng như Trung Quốc hay Cuba, đảng cầm quyền độc quyền hóa mọi ghế trong cơ quan lập pháp và các ứng cử viên đối lập không được phép tranh cử ở tầm mức quốc gia. Số ghế do các đảng đối lập nắm giữ trong cơ quan lập pháp có thể là một yếu tố đại diện tốt cho thấy quy trình bầu cử có tính cạnh tranh và dân chủ tới đâu. Hơn nữa, việc xuất hiện sự cạnh tranh đảng phái trong cơ quan lập pháp (trái ngược với cơ quan hành pháp) nói chung là bước đầu tiên trong quá trình dân chủ hóa hoàn toàn. Lấy ví dụ, sự chuyển đổi của Mexico năm 2000 đã bắt đầu vào đầu những năm 1980, khi đảng cầm quyền, Partido Revolucionario Institucional (PRI), cho phép các cuộc bầu cử quốc hội có mục đích diễn ra và để dành một số ghế nhất định cho các đảng đối lập ở những cơ quan dân biểu thấp hơn.

Tiếp theo, tôi đã tính toán tỉ lệ phần trăm số ghế trong nghị viện được nắm giữ bởi tất cả các đảng thiểu số và các nghị sĩ độc lập để làm đại diện cho sự cạnh tranh, như trong Vanhanen (2002). Trong những trường hợp mà dữ liệu về sự cấu thành đảng phái không có, tôi đã sử dụng tỉ lệ phiếu bầu của tất cả các đảng nhỏ, cũng giống như trong Vanhanen (2002). Để công thức hóa, việc đo sự cạnh tranh chính trị (political competitiveness, hay PC) được tính theo phương trình sau:

Trong cách tính toán này, sự cạnh tranh chính trị trải từ 0 (trường hợp đảng cầm quyền kiểm soát toàn bộ ghế ở quốc hội) tới các giá trị gần 1 (trường hợp trong đó các đảng lớn chiếm tỉ lệ rất nhỏ). Như thế giá trị thấp (hay cao) của PC gắn với sự cạnh tranh ít hơn (hay nhiều hơn). Để đơn giản hóa, các quốc gia không có cơ quan lập pháp được bầu cử trong một năm bất kỳ được gán giá trị 0. Chú ý rằng những dữ liệu này có trong cả giai đoạn hậu chiến để chúng ta có thể thấy được cả những khuynh hướng trung và dài hạn. Hình A.6 trình bày xu hướng trung bình của thế giới và Hình A.7 trình bày xu hướng trung bình khu vực.

Như chúng ta có thể thấy từ các hình này, những năm ngay sau chiến tranh và toàn bộ giai đoạn Chiến tranh Lạnh gắn với sự suy giảm nói chung trong cạnh tranh chính trị. Giai đoạn này tiếp tục tới cuối những năm 1970. Rồi vào những năm 1980, nó đảo ngược và chúng ta quan sát được một sự gia tăng trong xu hướng trung bình toàn cầu trong biến số của chúng ta: sự cạnh tranh chính trị. Xu hướng tích cực này vào những năm sau 1970 nhất quán với các Hình từ A.l tới A.4. Rõ ràng, sự dân chủ hóa có khuynh hướng thúc đẩy sự cạnh tranh đảng phái và chia rẽ chính trị (do những nhóm đối lập) trong co quan lập pháp.

Hình A.6. CẠNH TRANH CHÍNH TRỊ, TRUNG BÌNH TRÊN THẾ GIỚI: GIAI ĐOẠN HẬU CHIẾN

Hình A.7 giúp chúng ta hiểu về sự suy giảm chung của cạnh tranh chính trị trong giai đoạn 1945-1975 còn rõ hơn. Ở đây, tôi trình bày xu hướng trung bình của các khu vực giống như những khu vực đã được nêu trong các Hình A.2 và A.3 - Mỹ Latin, châu Phi hạ Sahara, Bắc Phi và Trung Đông - cũng như xu hướng trung bình của các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD).* Biểu đồ này cho thấy sự suy giảm toàn cầu của cạnh tranh chính trị gây ra bởi một sự suy giảm mạnh ở thế giới đang phát triển. Trong khi sự cạnh tranh ở các nước OECD được duy trì ổn định, Mỹ Latin và châu Phi trải qua một làn sóng toàn trị trong giai đoạn từ 1945 tới 1975. Tuy nhiên, khuynh hướng cạnh tranh chính trị tích cực ở những nước này sau những năm 1970 là nhất quán với những khuynh hướng dân chủ tích cực được trình bày trong phần trước.

Vì những mục đích của phân tích này, tôi chỉ đưa vào đây các nước ban đầu của OECD. Mexico, Chile, Thổ Nhĩ Kỳ, Hàn Quốc, Cộng hòa Czech và Ba Lan không được bao gồm trong nhóm OECD.

HÌNH A.7. CẠNH TRANH CHÍNH TRỊ, TRUNG BÌNH THEO KHU VỰC: GIAI ĐOẠN HẬU CHIẾN

Nguồn: Điều chỉnh từ Monty Marshall, K. Jaggers và T. R. Gurr, 2010. Polity IV Project, “Những sự chuyển đổi và các đặc điểm của chế độ chính trị, 1800-2010”,http://www.systemicpeace. org/polity4.htm.

THAM KHẢO

Dahl, Robert A. 1971. Polyarchy: Participation and Opposition. New Haven: Yale University Press.

Freedom House. 2010. Freedom in the World: Political Rights and Civil Liberties 2010. New York: Freedom House.

Huntington, Samuel p. 1991. The Third Wave: Democratization in the Late Twentieth Century. Normal: University of Oklahoma Press.

Marshall, Monty G., K. Laggers, và T. R. Gurr, 2010. ‘‘Những sự chuyển đổi và các đặc điểm của chế độ chính trị, 1800-2010”. Polity IV Project,http://www.systemicpeace.org/polity4.htm.

Przeworski, A., M. Alvarez, J. A. Cheibub, và F. Limongi. 2000. Democracy and Development: Political Institutions and Well-Being in the World, 1950-1990. New York: Cambridge University Press.

Schumpeter, Joseph. 1964. Capitalism, Socialism, and Democracy. New York: Harper & Brothers.

Vanhanen, Tatu. 2002. “Những phép đo sự dân chủ hóa 1999-2000”. Bản thảo chưa xuất bản. Đại học Tampere, Finland.