← Quay lại trang sách

Chương 4

Trong sáu giờ lái xe tôi có thể làm nhiều việc. Nghe lại lần thứ sáu mươi đĩa nhạc của Bohemian Rhapsody. Gọi điện tám với cô bạn Natalie sau hơn sáu tháng trời không liên lạc. Thỉnh thoảng chúng tôi vẫn nhắn tin, nhưng nói chuyện trực tiếp thú vị hơn nhiều. Hoặc suy nghĩ cách giữ mình tránh xa Jeremy Crawford lúc ở nhà anh ấy. Cuối cùng tôi quyết định mở sách nói – tập đầu tiên trong bộ truyện của Verity Crawford để nghe thử.

Câu chuyện kết thúc. Tay tôi trắng bệch vì nắm chặt vô lăng. Miệng tôi khô khốc.

Cô ấy viết rất hay. Quá hay.

Tôi bỗng sợ vì đã trót ký hợp đồng. Tôi không chắc mình có khả năng sáng tác như cô ấy. Cô ấy đã viết sáu tập, nhân vật chính phản diện. Làm sao cô ấy có thể sáng tạo như vậy?

Tôi mong năm tập kia dở hơn. Như vậy độc giả sẽ không quá kỳ vọng ba tập cuối.

Nhưng tôi biết rõ là không có chuyện đó. Sách nào của Verity cũng giữ vị trí số một trên tờ Thời báo.

Nỗi lo lắng của tôi tăng gấp đôi so với lúc ở Manhattan.

Tôi nghĩ đến việc muối mặt quay lại New York. Rồi sau khi cân nhắc, tôi gạt bỏ ý tưởng đó và quyết định chấp nhận thử thách. Vấn đề của tôi là thiếu tự tin. Lúc nào tôi cũng nghi ngờ khả năng của mình. Tôi đề ra ba bước để hoàn thành mỗi tập sách:

1) Bắt đầu viết và ghét mọi thứ tôi viết.

2) Tiếp tục viết mặc dù ghét tất cả những gì đã viết.

3) Hoàn thành tập sách và giả vờ hài lòng với nó.

Tôi không bao giờ tự tin sách của mình sẽ được mọi người chào đón. Nhiều tác giả dễ dàng tuyên bố “Đây chính là quyển sách tuyệt vời nhất của tôi! Bạn nhất định phải đọc nó!” Còn tôi chỉ có thể đăng hình cuốn sách với ghi chú, “Quyển sách này đọc được. Có nội dung. Hãy đọc nó nếu bạn muốn”.

Càng ít độc giả, càng ít đánh giá tiêu cực. Nếu sách đồng tác giả với Verity, nó sẽ có lượng độc giả khổng lồ với kỳ vọng tương đương các tập sách trước đó. Và nếu tôi thất bại, Corey sẽ biết tôi thất bại. Nhà xuất bản sẽ biết tôi thất bại. Jeremy sẽ biết tôi thất bại. Và Verity cũng có thể biết tôi thất bại.

Jeremy không nói rõ mức độ bệnh tình của Verity, vì vậy tôi không biết cô ấy có thể giao tiếp hay không. Có rất ít thông tin về vụ tai nạn xe hơi của cô ấy ngoài một vài bài viết ngắn gọn. Nhà xuất bản thì chỉ thông báo Verity gặp một tai nạn không đe dọa đến tính mạng. Hai tuần trước, họ tuyên bố cô ấy đang trong quá trình hồi phục tại nhà. Nhưng biên tập viên của cô ấy, Amanda, đã nói họ không muốn tiết lộ mức độ thương tích của cô ấy với truyền thông. Vì vậy, có khả năng tất cả thông tin đó đều không chính xác.

Có thể sau tất cả những đau khổ trong hai năm qua, cô ấy không muốn cầm bút nữa.

Đương nhiên nhà xuất bản muốn hoàn thành bộ sách. Họ không muốn mất đi khoản thu nhập lớn. Còn tôi tuy đồng ý ký hợp đồng, tôi không muốn nổi tiếng. Đó không phải là mục tiêu của tôi. Tôi chỉ mong có một lượng độc giả vừa phải để trang trải cuộc sống.

Tôi biết nếu dùng tên mình gắn với loạt sách của Verity sẽ giúp nâng cao doanh số những cuốn sách trước và đem lại cho tôi nhiều cơ hội lớn trong tương lai. Nhưng đổi lại tôi sẽ bị chú ý, việc mà cả đời tôi luôn sợ hãi.

Tôi không muốn bị chú ý. Tôi chỉ cần tiền.

Phải mất một thời gian nữa tôi mới nhận được khoản ứng trước. Phần lớn số tiền còn lại của tôi đã được dùng để thuê chiếc xe này và thuê kho để chứa đồ đạc. Tôi đã đặt cọc thuê một căn hộ nhưng tuần sau hoặc tuần sau nữa mới có, có nghĩa là tôi sẽ phải ở tạm trong khách sạn sau khi rời khỏi nhà Crawford.

Đó là cuộc sống của tôi. Một tuần rưỡi sau khi người thân cuối cùng qua đời, vô gia cư, chỉ có một chiếc vali. Còn gì khủng khiếp hơn thế?

Nếu kết hôn với Amos, cuộc sống còn tồi tệ hơn.

Có chuyện gì xảy ra với tôi vậy? Vô số tác giả khác sẽ ao ước có được cơ hội như tôi, vậy mà tôi lại nghĩ cuộc sống của mình đã xuống đáy.

Tôi thật là điên.

Tôi không được tiếp tục nhìn cuộc đời bi quan như mẹ tôi. Chỉ cần lần này thành công, mọi việc sẽ tốt đẹp. Tôi sẽ không phải chạy loanh quanh giữa các căn hộ nữa.

Theo chỉ dẫn của hệ thống định vị tôi lái xe vào đường rẽ đến nhà Crawford cách đó một vài dặm. Con đường dài trồng đầy cây giác mộc với những ngôi nhà san sát nằm hai bên.

Đến nơi tôi dừng xe trước cổng quan sát. Hai cột gạch cao sừng sững chắn trước con đường dài như vô tận dẫn vào nhà. Tôi nghển cổ cố tìm điểm kết thúc nhưng cây cối và bóng tối che khuất tầm nhìn. Đâu đó trong kia là ngôi nhà, và Verity Crawford ở trong ngôi nhà đó. Cô ấy có biết tôi đến không? Quá hồi hộp, tay tôi ướt đẫm mồ hôi nên phải hong trước quạt gió trong xe cho khô.

Chiếc cổng có hệ thống khóa an ninh từ từ mở ra cho tôi lái xe vào. Tôi cố không sợ hãi khi ngước thấy những họa tiết trên cánh cổng sắt chằng chịt như mạng nhện. Khi cây cối hai bên đường bắt đầu rậm rạp hơn, ngôi nhà bắt đầu hiện ra. Đầu tiên là mái nhà màu xám như một đám mây bão hung dữ trên cao. Vài giây sau là cả ngôi nhà. Toàn bộ mặt tiền là đá đen, cánh cửa màu đỏ như máu là điểm nhấn duy nhất. Cây thường xuân che phủ bờ tường hai bên đem lại một vẻ đẹp đe dọa hơn là quyến rũ.

Căn hộ của tôi với bốn bức tường cũ và nhà bếp nhỏ xíu chỉ để vừa chiếc tủ lạnh màu xanh ô liu sản xuất năm 1970, có lẽ chỉ to bằng sảnh vào của ngôi nhà này. Mẹ tôi thường nói ngôi nhà nào cũng có hồn. Nếu mẹ tôi đúng thì ngôi nhà của Verity Crawford u ám như vẻ bề ngoài của nó.

Theo thông tin trên một trang web bất động sản, căn nhà được mua năm năm trước với giá hai triệu rưỡi. Bây giờ nó có giá hơn ba triệu.

Nó hoành tráng và riêng tư nhưng thiếu sinh khí.

Tôi tiếp tục lái xe vì không biết phải đỗ ở đâu. Bãi cỏ quanh nhà xanh tươi được cắt tỉa cẩn thận rộng ít nhất ba mẫu. Một hồ nước trong xanh trải dài phía sau ngôi nhà. Dãy núi xa xa vẽ nên một khung cảnh đẹp như tranh vẽ. Thật khó mà tin rằng gia chủ đã trải qua những thảm kịch khủng khiếp nơi đây.

Tôi mừng rỡ khi nhìn thấy bãi đậu xe bê tông cạnh nhà xe. Tôi lái vào và tắt máy.

Chiếc xe của tôi hoàn toàn lạc lõng. Tôi đã chọn chiếc xe rẻ nhất. Ba mươi đô la một ngày. Chắc Verity chưa bao giờ ngồi lên chiếc Kia Soul. Bài báo nói cô ấy gặp nạn với chiếc Range Rover.

Tôi với chiếc điện thoại để trên ghế kế bên nhắn tin cho Corey báo là tôi đã đến nơi. Khi vừa để tay lên tay nắm định mở cửa xe bước ra ngoài, tôi hoảng hốt kêu lên.“Chết tiệt!”

Cái quái gì vậy.

Tôi ôm ngực nhìn khuôn mặt áp sát ngoài cửa kính. Khi nhận ra đó chỉ là một đứa bé, tôi vội bụm miệng mong nó không nghe thấy tiếng chửi thề của tôi. Nó vẫn nhìn tôi chằm chằm.

Nó giống hệt Jeremy. Cùng một khuôn miệng và đôi mắt xanh. Báo nói rằng Verity và Jeremy có ba đứa con. Đây chắc là con trai của họ.

Tôi mở cửa và nó lùi lại một bước tránh đường.

“Chào cháu”. Nó không trả lời. “Cháu sống ở đây phải không?”

“Dạ”.

Tôi nhìn ngôi nhà âm u kia, tự hỏi một đứa trẻ lớn lên ở đây sẽ như thế nào. “Tốt lắm”, tôi lẩm bẩm.

“Lúc trước ạ”. Nó quay người đi vào nhà. Tôi thấy tội cho nó. Nó chỉ khoảng năm tuổi mà đã mất hai người chị. Người mẹ chắc rất đau lòng. Còn Jeremy, tôi đã thấy rõ anh buồn khổ như thế nào.

Tôi đóng cửa xe, không xách vali theo mà tay không đi theo đứa bé. Tôi đi ngay phía sau, nhưng nó đã nhanh chân biến vào nhà rồi đóng sầm cánh cửa trước mặt tôi.

Tôi kiên nhẫn đứng chờ, không biết có phải nó đang đùa hay không. Nhưng qua khung cửa sổ, tôi thấy nó đi thẳng lên lầu và không hề có ý định mở cửa cho tôi vào.

Nó cư xử thật quá quắt.

Tôi đành bấm chuông.

Chờ đợi.

Và chờ đợi.

Tôi bấm chuông lần nữa nhưng vẫn không thấy gì. Jeremy có cho tôi số điện thoại, tôi liền nhắn tin. “Lowen đây. Tôi đang đứng trước nhà anh”.

Tôi gửi tin nhắn và chờ đợi.

Vài giây sau có tiếng bước chân xuống cầu thang. Bóng Jeremy thấp thoáng sau khung cửa sổ. Anh đứng trước cánh cửa một lúc trước khi mở ra. Có vẻ tôi không phải là người duy nhất bối rối trước cuộc gặp gỡ này.

Tự nhiên tôi nhẹ hẳn người.

Trông anh khác hẳn lúc gặp tôi vài ngày trước. Không áo vét và cà vạt, không có vẻ xa cách. Anh mặc quần thể thao và áo thun màu xanh da trời. Chỉ có vớ, không giày.

Tôi cố kìm cảm giác phấn chấn khi gặp lại anh. “Chào anh”.

Anh tránh sang một bên để tôi vào. “Xin lỗi, tôi đang ở trên lầu. Tôi đã bảo Crew mở cửa. Chắc là nó không nghe thấy”.

Tôi bước vào sảnh chờ rộng rãi và sang trọng.

“Hành lý của cô đâu?” Jeremy hỏi.

“Tôi để ngoài xe, tôi sẽ ra lấy sau”.

“Xe mở khóa chứ?”

Tôi gật đầu.

“Tôi quay lại ngay”.

Anh mang giày vào và đi ra ngoài. Tôi chậm rãi quan sát căn nhà. Không có nhiều khác biệt so với hình ảnh tôi thấy trên web. Tôi đã xem qua tất cả các phòng, biết rõ cách bố trí trong nhà.

Nhà bếp ở bên phải, phòng khách ở bên trái lối vào dẫn đến cầu thang lên lầu. Hệ thống kệ tủ trong bếp chụp trên web là gỗ anh đào tối màu, bây giờ được thay bằng gỗ màu vàng.

Có hai lò nướng, một tủ lạnh cửa kính. Đứa bé lúc nãy chạy ào xuống cầu thang đến mở tủ lạnh, lấy ra một chai Dr. Pepper. Tôi nhìn nó vật lộn với cái nắp chai.

“Cháu có cần cô giúp không?” Tôi hỏi nó.

“Có ạ”, nó nhìn tôi với đôi mắt to xanh thẳm. Nó không thể là một đứa trẻ hư với giọng nói nhỏ nhẹ, bàn tay nhỏ bé chưa mở được chai soda. Tôi mở nắp chai đưa cho nó.

Cửa bật mở, Jeremy bước vào và nheo mắt nhìn Crew. “Cha đã nói là không được uống soda”. Anh để chiếc vali sát tường, đến gần Crew tước chai soda khỏi tay nó. “Chuẩn bị đi tắm. Cha đợi con một phút nữa thôi”.

Crew phụng phịu chạy lên lầu.

Jeremy cau mày. “Đừng tưởng nó hiền. Nó thông minh hơn hai chúng ta cộng lại”. Anh nhấp một ngụm soda rồi để lại vào tủ lạnh. “Cô muốn uống gì?”

“Dạ không, cảm ơn anh”.

Jeremy xách vali lên. “Cô đừng ngạc nhiên vì tôi sắp xếp cô ở phòng ngủ chính. Hiện nay chúng tôi đều ở trên lầu, và phòng này lại sát bên phòng làm việc của cô ấy”.

“Chưa chắc tôi sẽ ở lại”. Tốt nhất là tôi thuê khách sạn. “Tôi sẽ xem phòng làm việc của cô ấy trước rồi tính sau”.

Anh cười và mở cửa phòng. “Tin tôi đi. Ít nhất hai ngày cô mới xong. Có thể lâu hơn”. Anh mở tủ quần áo. “Cô có thể treo quần áo vào đây”. Anh chỉ phòng tắm. “Đây là phòng tắm của cô. Tôi không biết có đủ đồ vệ sinh cá nhân chưa, nếu cô cần thêm gì cứ báo tôi”.

“Cảm ơn anh”. Tôi bối rối nhìn quanh căn phòng. Tôi sẽ ngủ trên chiếc giường của vợ chồng họ. Ánh mắt tôi dừng lại ở chiếc nệm đầu giường đầy những vết răng. Tôi lập tức nhìn đi chỗ khác vì sợ Jeremy bắt gặp. Tôi sợ anh biết tôi đang tự hỏi ai đã phải cắn vào đầu giường để không thét lên trong khi làm tình. Tôi đã bao giờ có cảm giác mãnh liệt như vậy chưa nhỉ?

“Cô có muốn xem các phòng trên lầu không?” Jeremy hỏi.

“Dạ được”. Tôi nhìn cánh cửa phòng. “Cửa này có khóa không ạ?”

Anh nghĩ một lúc. “Chúng tôi thường không dùng khóa cửa”. Anh cầm tay nắm cửa lắc nhẹ. “Sẽ có nếu cô muốn”.

Tôi có thói quen khóa cửa phòng ngủ từ lúc lên mười. Tuy vậy tôi không muốn làm nghiêm trọng vấn đề.

“Không sao đâu ạ”.

Anh đi ra cầu thang. “Cô sẽ lấy bút danh là gì?”

Tôi đã không nghĩ về việc đó.

Tôi nhún vai. “Tôi chưa nghĩ ra”.

“Tôi định giới thiệu cô với y tá của Verity bằng bút danh của cô, để không ai biết tên thật của cô”.

Cô ấy phải có y tá riêng để chăm sóc ư.

“Vâng. Tên là….” Trong đầu tôi không có cái tên nào.

“Cô sống ở đường nào?” Jeremy hỏi.

“Laura Lane”.

“Tên vật nuôi đầu tiên của cô là gì?”

“Chase. Nó thuộc giống chó Yorkie”.

“Laura Chase”, anh nói. “Tôi thích cái tên đó”.

Một trò ghép chữ quen thuộc trên Facebook. “Đó có phải là cách các ngôi sao khiêu dâm chọn nghệ danh cho mình không?”

Anh cười lớn, lắc đầu. “Bút danh và nghệ danh sao khiêu dâm có liên quan sao?”

Anh ra hiệu tôi đi theo. “Hãy đến gặp Verity trước, sau đó đến xem phòng làm việc của cô ấy”.

Jeremy bước lên cầu thang hai bậc một. Một cái thang máy dường như mới được lắp đặt ngay cạnh nhà bếp. Chẳng lẽ Verity ngồi xe lăn. Chúa ơi, cô ấy thật tội nghiệp.

Lên đến lầu một, hành lang tách ra hai hướng, ba phòng ở bên trái và hai phòng bên phải. Anh rẽ trái. “Đây là phòng ngủ của Crew”, anh chỉ phòng đầu tiên, rồi sang phòng bên cạnh. “Phòng tôi ở đây”.

Anh gõ cửa trước khi mở cửa căn phòng đối diện.

Tôi sững người.

Cô ấy nằm bất động trên giường, mắt dán lên trần nhà, mái tóc vàng xõa tung trên gối. Một cô y tá mặc bộ đồ màu xanh đứng ở chân giường lúi húi mang vớ cho cô ấy. Crew nằm cạnh Verity, tay nó cầm chiếc iPad. Cặp mắt Verity vô hồn, tách biệt khỏi thế giới xung quanh. Cô ấy không có dấu hiệu nào nhận biết sự hiện diện của cô y tá. Của tôi. Của Crew. Của Jeremy, ngay cả khi anh cúi xuống cô để vén những sợi tóc rũ trên trán. Cô ấy chỉ chớp mắt. Không nhận ra người đàn ông đã có với cô ba đứa con.

Cô y tá nói với Jeremy. “Tối nay cô ấy có vẻ mệt nên tôi cho cô ấy đi ngủ sớm”, và kéo tấm chăn lên đắp cho Verity.

Jeremy đóng rèm cửa sổ lại. “Cô ấy đã uống thuốc cữ tối chưa?”

“Dạ rồi”.

Tóc cô ấy đỏ và ngắn, lớn tuổi hơn Jeremy, khoảng trên năm mươi. Cô ấy liếc qua tôi rồi nhìn Jeremy chờ anh giới thiệu.

Jeremy chỉ tôi. “Đây là Laura Chase, là nhà văn mà tôi đã nói với cô. Laura, cô April, y tá của Verity”.

Tôi bắt tay April, gai người trước ánh mắt sắc như dao lướt trên người mình. “Tôi nghĩ cô lớn tuổi hơn”, cô ấy nói.

Cùng với cách cô ấy nhìn tôi, lời nhận xét nghe như một lời chỉ trích cay nghiệt. Hoặc một lời buộc tội. Tôi phớt lờ, khẽ mỉm cười. “Rất vui được gặp cô, April”.

“Tôi cũng vậy”. Cô ấy cầm lấy chiếc túi xách trong tủ và nói với Jeremy. “Sáng mai tôi sẽ đến. Chúc ngủ ngon”. Cô ấy khẽ vỗ vào đùi Crew. Nó cười ré lên và nhảy ra xa. Tôi bước sang một bên để tránh chỗ cho April.

Tôi liếc sang chiếc giường. Verity vẫn mở to mắt nằm im. Cô ấy có chút nhận thức nào không? Tôi thấy thương Crew, thương Jeremy, Thương Verity.

Nếu là tôi, không biết tôi có chịu đựng nổi không. Và biết Jeremy bị trói chặt bởi hoàn cảnh. Thật là đáng buồn. Ngôi nhà này, bi kịch đã xảy ra, nỗ lực vùng vẫy tiếp tục cuộc sống.

“Crew, đừng bắt cha phải phạt con. Cha đã nói con phải đi tắm ngay”.

Crew chỉ cười nhìn Jeremy, không nhúc nhích.

“Cha đếm đến ba”.

Crew để chiếc iPad xuống, vẫn nằm im thách thức Jeremy.

“Ba, hai…” Ngay khi đếm đến một, Jeremy nắm chân Crew kéo nó lên. “Đêm nay cha phạt con trồng cây chuối!”

Crew sợ hãi. “Con không dám nữa đâu!”

Jeremy nhìn tôi. “Laura, trẻ con lộn đầu xuống đất trong bao lâu thì bộ óc bị đảo lộn rồi nói ngược?”

Tôi cười. “Tôi nhớ là hai mươi giây. Hoặc là mười lăm”.

Crew hét lên “Không cha ơi, con sẽ đi tắm! Con không muốn óc con bị đảo lộn!”

“Và tai con nữa chứ? Con đã không nghe thấy cha bảo con đi tắm”.

“Con hứa mà!”

Jeremy nhấc nó vắt ngang vai anh trước khi đặt nó xuống đất. Anh xoa đầu nó, “Đi ngay”.

Crew lao ra khỏi phòng. Tôi không nhịn được cười trước màn đối thoại hài hước giữa hai cha con. “Nó dễ thương quá. Nó mấy tuổi ạ?”

“Năm”, Jeremy nâng đầu giường Verity cao lên một chút. Anh lấy chiếc điều khiển trên chiếc tủ đầu giường bật ti vi lên.

Chúng tôi ra khỏi phòng, anh khép cửa lại và quay lại nhìn tôi thở dài.

“Crew rất sợ ngủ một mình. Nó vô cùng nghịch ngợm nhưng lại sợ bóng tối. Nó muốn ở gần mẹ, nên chúng tôi chuyển hết lên đây”. Jeremy đi dọc hành lang. “Có nghĩa là chỉ có một mình cô ở dưới đó vào ban đêm”. Anh tắt đèn hành lang. “Cô muốn xem phòng làm việc của cô ấy không?”

“Dạ có”.

Tôi đi theo anh xuống nhà, đến căn phòng có cánh cửa đôi gần cầu thang. Anh đẩy cửa bước vào.

Phòng làm việc của cô ấy

Cảm giác khi bước vào phòng như thể tôi sắp lục lọi ngăn đựng đồ lót của cô ấy. Tôi nhìn xung quanh. Những chiếc kệ chất đầy sách cao đụng trần. Nhiều hộp giấy chồng sát bức tường. Chiếc bàn làm việc… chúa ơi, nó dài suốt chiều ngang căn phòng. Các ô cửa sổ trên bức tường sau chiếc bàn nhìn bao quát ra toàn bộ sân vườn. Trên bàn xếp đầy giấy tờ.

“Cô ấy không phải là người ngăn nắp”, Jeremy nói.

Tôi mỉm cười. “Hầu hết chúng tôi đều như vậy”

“Cô sẽ mất nhiều thời gian. Tôi đã thử nhưng nó khó như tiếng Hy Lạp ấy”.

Tôi lướt qua vài quyển sách trên chiếc kệ gần nhất. Toàn bộ là sách của cô ấy được dịch ra tiếng nước ngoài. Tôi cầm một quyển bằng tiếng Đức lên xem.

“Cô ấy có máy tính xách tay và máy tính để bàn. Tôi đã dán mật khẩu lên đó cho cô”.

Anh cầm quyển sổ bên cạnh máy tính. “Cô ấy ghi chép rất nhiều. Viết ra mọi suy nghĩ. Cô ấy viết ý tưởng ra khăn ăn. Ghi âm trong phòng tắm”. Jeremy để quyển sổ lại chỗ cũ. “Cô ấy đã từng dùng bút Sharpie viết tên nhân vật lên tã của Crew. Chúng tôi đang ở sở thú và cô ấy không đem theo sổ”.

Anh chầm chậm đi một vòng căn phòng. “Thế giới chính là bản thảo của cô ấy. Không có gì là không thể sáng tạo”.

Rõ ràng anh đánh giá cao cách làm việc của cô ấy. Tôi nhìn khắp căn phòng. “Tôi không biết mình phải bắt đầu từ đâu”.

“Bởi vậy tôi chết cười khi cô nói sẽ không cần ở lại. Cô sẽ phải mất hơn hai ngày. Cô cứ thoải mái ở lại đây đến lúc nào cũng được. Chẳng thà cô mất thời gian ở đây để có mọi thứ cô cần còn hơn quay lại New York sớm mà không tìm được gì”.

Tôi tìm chiếc kệ chứa sê ri sách mà tôi phải viết tiếp. Có chín tập tất cả. Sáu tập đã được xuất bản và ba tập nữa phải hoàn thành. Tựa của nó là Đức tính cao đẹp, mỗi tập nói về một đức tính. Ba tập còn lại của tôi là Can đảm, Chân thành và Danh dự.

Tất cả sáu tập sách đầu đều nằm trên kệ, và tôi phần nào nhẹ nhõm khi tìm thấy rất nhiều ghi chú bổ sung. Tôi mở bản thảo tập thứ hai ra khỏi kệ đọc lướt qua.

“Cô đã đọc sê ri này chưa?” Jeremy hỏi.

Tôi lắc đầu vì không muốn anh ấy hỏi thêm. “Dạ chưa. Tôi không rảnh từ lúc ký hợp đồng đến giờ”. Tôi đặt cuốn sách trở lại trên kệ. “Anh thích tập nào nhất?”

“Tôi chưa đọc quyển nào hết. Kể từ khi cô ấy bắt đầu viết sách”.

Tôi ngạc nhiên. “Có thật không?”

“Tôi không muốn đi vào thế giới riêng của cô ấy”.

Anh giống Corey. Không thể tách biệt giữa thế giới ảo trên những trang sách và thực tại. Nhưng Jeremy khác Corey ở chỗ anh nhận thức rõ điều đó.

Tôi bối rối vì Jeremy đang đứng quá gần, hoặc vì đống giấy tờ khổng lồ mà tôi sẽ phải xem hết. Tôi không biết bắt đầu từ đâu.

“Tôi sẽ để cô lại đây một mình”. Jeremy chỉ ra ngoài. “Tôi phải đi xem Crew thế nào. Cô cứ tự nhiên. Nước uống, thức ăn,… tất cả mọi thứ”.

“Cảm ơn anh”.

Sau khi Jeremy đóng cửa phòng, tôi ngồi vào bàn. Chiếc ghế này còn đắt hơn một tháng tiền thuê căn hộ của tôi. Đối với người giàu, mọi việc có vẻ dễ dàng hơn người nghèo. Nội thất tiện nghi phục vụ công việc, tiền bạc dư dả để phục hồi sức khỏe, máy tính sử dụng những hai cái. Máy tính xách tay của tôi bị hư một phím và wi-fi thì phải xài ké người hàng xóm nhân lúc họ quên cài mật khẩu. Nơi làm việc của tôi là một chiếc bàn gấp bằng nhựa đặt mua của Amazon với giá hai mươi lăm đô la đặt tạm trong phòng ăn.

Tôi hầu như không có tiền để mua mực máy in và giấy máy tính.

Làm việc ở đây trong vài ngày tới sẽ chứng minh tôi đúng hay sai. Bạn càng giàu, bạn càng sáng tạo.

Tôi lấy tập hai trong sê ri khỏi kệ. Tôi mở ra, định liếc sơ qua. Xem cô ấy bắt đầu như thế nào sau khi kết thúc tập một.

Tôi đọc trong suốt ba giờ đồng hồ.

Thậm chí tôi không cử động. Chương sau nối tiếp chương trước đầy hấp dẫn với nhân vật điên rồ. Cực kỳ điên rồ. Tôi sẽ phải mất nhiều thời gian để sống và suy nghĩ theo những nhân vật khác thường. Không có gì lạ khi Jeremy không đọc sách của cô ấy. Trong tất cả sách của cô ấy nhân vật chính đều là phản diện, một thử thách mà tôi chưa từng trải nghiệm. Đáng lẽ tôi phải đọc trọn sê ri trước khi đến đây.

Tôi đứng lên duỗi người. Cái ghế này là một món đồ êm ái nhất mà mông tôi từng đặt lên. Tôi phân vân không biết nên xem máy tính hay giấy tờ trước.

Tôi quyết định mở máy tính để bàn. Tôi lướt qua một số tập tin lưu trong Microsoft Word. Chúng đều liên quan đến những tập sách đã xuất bản. Đó không phải là thứ tôi tìm kiếm. Tôi muốn tìm những thứ liên quan đến những tập sách chưa viết. Hầu hết các tập tin trong máy tính xách tay đều giống như trong máy tính để bàn.

Có thể Verity viết tay bản thảo chăng? Tôi nhìn chồng hộp giấy xếp cạnh bức tường gần tủ quần áo. Chúng bị che phủ bằng một lớp bụi mờ. Tôi mở vài hộp xem thử nhưng cũng là các tập sách đã viết xong. Không có gì khác.

Tôi mở hộp giấy thứ sáu ra và nhìn thấy một bản thảo có tựa đề Đành Vậy Thôi. Tôi lướt qua vài trang đầu tiên. Gần như ngay lập tức tôi biết là không phải. Nó có vẻ … riêng tư. Tôi lật trang đầu tiên, chương một, và đọc dòng đầu tiên.

Đôi khi nhớ lại cái đêm gặp gỡ Jeremy, tôi tự hỏi nếu chúng tôi không nhìn thấy nhau, cuộc đời tôi sẽ đi về đâu?

Ngay khi thấy tên Jeremy, tôi lật xem vài trang nữa. Đó là một quyển tự truyện.

Nó không phải là thứ tôi tìm kiếm. Tôi được trả tiền không phải để đọc quyển tự truyện này, và tôi không nên tò mò đọc nó. Tôi nhìn ra cánh cửa đóng kín, không có ai ở đây. Tôi phải tìm hiểu cách Verity suy nghĩ. Đó là lý do chính đáng nhất mà tôi có thể nghĩ ra.

Tôi cầm tập bản thảo đến ghế ngồi và bắt đầu đọc.