TÌNH HÌNH VÀ TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG VIỆT NAM CỘNG HÒA – BẮC CỘNG
Sau Hiệp Định Genève 1954, không ai tin Cộng Sản sẽ chịu ngồi yên ở phía Bắc vĩ tuyến 17 nhằm dồn nỗ lực lo cho dân miền Bắc Việt Nam được an cư lạc nghiệp. Lúc bấy giờ Việt Cộng đã không còn thèm dùng thủ đoạn lập lờ như từ Trận Điện Biên Phủ trở về trước, dối gạt lôi kéo người Việt không Cộng Sản góp tay chiến đấu chung với họ nữa. Họ công khai áp đặt xã hội chủ nghĩa lên miền Bắc Việt Nam. Hồ Chí Minh đã chấp nhận lộ nguyên hình cán bộ Cộng Sản Quốc Tế.
Dĩ nhiên đã là Cộng Sản thì phải bắt buộc xử dụng phương châm gối đầu “dùng bạo lực cách mạng cướp chính quyền”. Họ đã nắm được chính quyền của nửa nước, chắc chắn sẽ không để yên cho Chính Phủ Quốc Gia xây dựng Miền Nam Tự Do sau thời gian dài bị Pháp xâm lược.
Biết rằng chính quyền ở Miền Nam Tự Do còn quá mới, quá yếu, không đủ sức đối đầu lại với các thủ đoạn của Cộng Sản, Tổng Thống Ngô Đình Diệm cương quyết bác bỏ tham dự cuộc Tổng Tuyển Cử do Hiệp Định Genève quy định. Lý do của ông rất chính đáng: Chính Phủ Quốc Gia không ký vào Hiệp Định này.
Như vậy, phía Miền Nam Tự Do đã cương quyết không để cho cả nước Việt Nam bị Cộng Sản hóa. Còn với Hoa Kỳ, quốc gia chính yếu đem lại chiến thắng trong Trận Thế Chiến thứ Nhì, thì cũng có nhu cầu ngăn chặn “làn sóng đỏ” (Tầu Cộng) tràn xuống Đông Nam Á, mà Việt nam là đầu cầu. Có mẫu số chung, Hoa Kỳ bắt đầu lập mối quan hệ với miền Nam Việt Nam, gọi phần đất này là “Tiền Đồn Của Thế Giới Tự Do”!
Ngay từ năm 1950, Hoa Kỳ đã chính thức công nhận quốc gia Việt Nam (miền Nam) và đã gửi đoàn cố vấn quân sự đầu tiên sang Sài Gòn. (US Military Asistance Advisory Group, gọi tắt là MAAG).
Chính phủ Ngô Đình Diệm thấy rõ lắm, nhưng có lẽ những chính phủ sau cái gọi là “Cách Mạng 63” đã không còn nhớ đến thái độ lừng khừng của Chính Phủ Hoa Kỳ lúc ban đầu.Vậy xin được nhắc lại. Trong cuộc họp báo ngày 10 tháng 2 năm 1954, ký giả Marvin Arrowsmith của hang tin AP hỏi: “Đang có sự nghi ngại tại Quốc Hội, chẳng hạn như Thượng Nghị Sĩ Stennis nói rằng gửi chuyên viên sang Đông Dương sẽ dẫn đến việc Hoa Kỳ dính dấp vào cuộc chiến khốc liệt ở đó, Tổng Thống nghĩ sao? Tổng Thống trả lời: “ Không có ai chống đối mãnh liệt lại việc đưa Hoa Kỳ dính dấp vào cuộc chiến khốc liệt đó hơn cá nhân tôi đâu!”, nhưng tới ngày 17 tháng tư cùng năm, Phó Tổng Thống của Eisenhower là Nixon tuyên bố ngược lại, rằng để cho Á Châu và Đông Dương tránh khỏi họa Cộng Sản thì Hoa Kỳ phải chấp nhận may rủi đưa quân đến các khu vực mà Eisenhower đã nói không, phải chấp nhận làm một quyết định dù không được lòng dân, và phải bắt tay làm việc ngay.
Vì thấy sự lừng khừng, trống đánh xuôi kèn thổi ngược của Chính phủ Eisenhower, Chính phủ Ngô Đình Diệm đã quyết định chỉ muốn nhận viện trợ và cố vấn của phía Mỹ, nhưng đổ quân tác chiến Mỹ vào Việt Nam thì nhất định không. Bởi nó còn liên quan tới chính nghĩa của cuộc chiến đấu (đây là nột trong những nguyên nhân chính khiến anh em ông Tổng Thống Diệm bị đảo chánh, ám sát vào năm 1963). Anh em Tổng Thống Diệm bắt đầu áp dụng quốc sách Ấp Chiến Lược, Khu Trù Mật, Khu Dinh Điền, tức gom dân lại để cô lập hóa thành phần Việt Cộng nằm vùng. Đặc biệt Chính phủ Ngô Đình Diệm đã chọn những địa điểm gần biên giới, nằm chận trên đường xâm nhập và vận chuyển tiếp liệu sau này của Việt Cộng để xây dựng những Khu Trù Mật, Dinh Điền. Đó là những vị trí chiến lược chẳng hạn như Khu trù mật Vị Thanh, Hỏa Lựu thành tỉnh Chương Thiện, tỉnh Quảng Đức với Quận Đức Lập, v.v…Nếu Chính phủ Ngô Đình Diệm không bị nhóm tướng lãnh phản trắc i tờ rít chính trị theo Mỹ ám sát chết thì có lẽ lực lượng quân sự Việt Nam Cộng Hòa sẽ phát triển theo chiều hướng lấy Địa Phương Quân – Nghĩa Quân làm chính, song song với đà phát triển của chính sách quốc gia với Ấp Chiến Lược, Khu Trù Mật, Khu Dinh Điền. Nghĩa là chủ trương “chiến tranh theo kiểu nhà nghèo” ngay từ đầu, không quá lệ thuộc vào ngoại bang. Lật đổ Chính phủ Ngô Đình Diệm, giết hai anh em Tổng Thống Diệm xong, nhóm Tướng Lãnh “Cách Mạng 63” vội vàng bãi bỏ quốc sách của chính phủ trước, xóa sổ hơn chục ngàn Ấp Chiến Lược, Khu Trù Mật, Khu Dinh Điền, khiến tình hình trở nên tồi tệ nhanh chóng, tạo cớ cho quân tác chiến Mỹ rầm rộ kéo vào miền Nam Tự Do. Điều mỉa mai là sau này khi Mỹ muốn bỏ chạy thì họ cũng đã gợi ý cho nhóm Tướng Lãnh phản trắc i tờ rít chính trị kia phải trở lại với chủ trương “chiến tranh theo kiểu nhà nghèo” của Chính phủ Ngô Đình Diệm hồi trước. Nhưng đã quá muộn màng.
Quân tác chiến Mỹ vào miền Nam, nhóm Tướng Lãnh “Cách Mạng 63” hớn hở đón nhận không chút nghĩ ngợi gì đến tương lai, họ sướng lắm, vì cùng đi theo quân Mỹ còn có hơn 20 tỉ đô la đổ vào miền Nam mỗi năm. Họa mất nước trước mắt, nhưng thành phần lãnh đạo mới thì, rất tiếc, chỉ là mù sờ voi! Kể từ đó, quân đội Việt nam Cộng Hòa đã được huấn luyện để đánh giặc “ theo kiểu con nhà giàu”. Và cuối cùng khi Mỹ ù té chạy, cắt giảm – cúp viện trợ, thì Miền Nam Tự Do sụp đổ.
Sau khi Hiệp Định “không hòa bình” Paris 1973 đã được ký kết (Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ chịu ký vì bi áp lực nặng nề của Nixon- Kissinger), quân Mỹ lo hoàn tất cuộc rút quân… trong danh dự, Chính phủ Mỹ không tuân thủ lời hứa một-đổi-một vũ khí và quân cụ cho Việt Nam Cộng Hòa, còn Quốc Hội Mỹ thì cắt giảm viện trợ liên tục.
Phải dựa hoàn toàn vào sự giúp đỡ của siêu cường Hoa Kỳ để chiến đấu chống lại quân Bắc Cộng vốn luôn luôn có Khối Cộng Sản Thế Giới đoàn kết chặt chẽ yểm trợ phía sau, do vậy viện trợ Mỹ là một vấn đề sống chết của miền Nam Tự Do. Được viện trợ dồi dào liên tục sau Hiệp Định Paris, Bắc Cộng đã nhân cơ hội cán cân sức mạnh quân sự đang lệch hẳn về phía họ, họ kéo rốc hết lực lượng vào Nam chỉ chừa lại 1 Sư Đoàn phòng thủ miền Bắc.
“Tại sao chúng không chết phứt đi cho rồi. Điều tệ hại nhất có thể xảy ra là chúng cứ sống dai dẳng hoài”. (Trích sách “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” của tác giả Nguyễn Tiến Hưng).
Đó là lời nguyền rủa của Kissinger, Ngoại Trưởng Mỹ, ông ta nổi giận vì tuy bị Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ nhưng quân và dân Việt Nam Cộng Hòa vẫn kiên cường đối đầu với quân Bắc Cộng. Sau Hiệp định Paris 1973 cho tới tháng Giêng 1975, không có một thành phố miền Nam nào lọt vào tay quân Bắc Cộng.
“Sau khi quân Mỹ rút đi, Nam Việt Nam sẽ sụp đổ trong vòng 72 giờ đồng hồ”.
Tuyên bố kiểu nằm mơ giữa ban ngày nói trên đã được thốt ra từ miệng Thượng Nghị Sĩ Mc Govern, Ứng cử viên Tổng Thống Hoa Kỳ năm 1972, nói vào lúc tranh cử.
Còn Thượng Nghị Sĩ Kennedy, giữa nghị trường Thượng Viện Hoa Kỳ, khi đòi cúp viện trợ đã nói rằng “Viện trợ chỉ kéo dài thêm chiến tranh”.
Một ông Ngoại Trưởng nguyền rủa, chửi bới. Một ông Thượng Nghị Sĩ kiêm Ứng cử viên Tổng Thống nằm mơ giữa ban ngày. Đó là vì họ thèm muốn thấy đồng minh nhỏ bé của mình sụp đổ cho thật nhanh. Một ông Thượng Nghị Sĩ khác thực tế hơn, hãy chích “thuốc độc cúp viện trợ” cho chúng. Khi quân đội Việt Nam Cộng Hòa bị “thấm thuốc độc”, miền Nam Tự Do sẽ sụp đổ rất nhanh. Dĩ nhiên bên thắng trận là Bắc Cộng!
Hành pháp – Lập pháp Hoa Kỳ là vậy, đã thế còn có các lực lượng truyền thông Mỹ ( do nhóm Mỹ gốc Do Thái nắm giữ đa số) xúm nhau viết theo xu hướng trù dập, vì muốn Hoa Kỳ mang viện trợ dành cho Việt Nam Cộng Hòa đổ sang Do Thái (và đã xảy ra như vậy).
Vì vậy, diễn tả bằng câu “Bốn phía đều là địch” thì có lẽ đúng nhất cho tình hình Miền Nam Tự Do lúc bấy giờ!
Đại Tướng Mỹ Westmoreland nói vào lúc bấy giờ quân Bắc Cộng đã có đến 18 Sư đoàn tại miền Nam và đang chờ thêm 2 sư đoàn nữa, trong lúc phía quân đội Việt Nam Cộng Hòa vì bị cắt viện trợ nên mỗi người lính chỉ còn được xử dụng 85 viên đạn và một quả lựu đạn cho mỗi tháng. Nguy hiểm hơn, pháo binh bị giới hạn 4 quả đạn cho súng 105 ly – 2 quả cho súng 155 ly, 175 ly mỗi ngày.
George Veith, tác giả cuốn “Black April: The Fall of South Viêt Nam, 1973 – 1975”, trong cuộc phỏng vấn của Frontpage Mag sau khi cuốn sách ra đời, kể ông ta tìm gặp Tướng Lê Minh Đảo vào năm 2002, Tướng Đảo than phiền truyền thông Mỹ chỉ biết tố cáo cấp lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa là “một lũ tham nhũng hèn nhát” (a bunch of corrupt cowards) nhưng tránh né nêu ra những ưu điểm của họ. Veith đã dùng 7 năm liền để nghiên cứu viết sách, cuối cùng cuốn sách của ông đi đến kết luận là mặc dù bị cắt giảm viện trợ thê thảm, trong hai năm 1973 – 1974 quân đội Việt Nam Cộng Hòa vẫn thắng trận nhiều hơn thua, và rằng nếu được duy trì viện trợ hợp lý thì có lẽ quốc gia Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn tồn tại cho đến hôm nay! (George Veith cũng đã có hai lần tường trình trước Quốc Hội Hoa Kỳ về vấn đề MIA/POW).
Trong thời kỳ ồ ạt đổ quân sang tham chiến, từ 1970 trở về trước, Hoa Kỳ chi phí trung bình 25 tỉ đô la mỗi năm cho đạo quân của họ và viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa. Từ năm 1970 cho đến khi Hiệp Định Paris có hiệu lực, vì đang rút quân, Hoa Kỳ chỉ chi phí trung bình 12 tỷ đô la mỗi năm. Ngay sau đó viện trợ cắt xuống còn 2.1 tỉ (1/6), đến 1975 số tiền này chỉ còn 700 triệu đô la (1/3 của 1/6).
Chỉ còn như “muối bỏ biển”, vì trong khi đó phía Bắc Cộng vẫn đều đặn nhận được sự giúp đỡ từ Khối Cộng Sản, tăng chứ không suy giảm.
Giữa tháng Tư năm 2006, Cộng Sản Việt Nam tổ chức một cuộc hội thảo tổng kết cuộc chiến tại Sài Gòn, công khai hóa con số viện trợ nhận được từ các nước “Cộng Sản anh em”. Giai đoạn 1973 – 1975 (cho 3 năm), họ nhận 724,512 tấn vũ khí và tiếp liệu, không chênh lệch mấy so với giai đoạn 1969 – 1972 (cho 4 năm) là 1,000,796 tấn. Tuy nhiên, vì quân Mỹ đã rút khỏi Việt Nam, kể cả không lực hùng mạnh của họ,một mình Việt Nam Cộng Hòa không còn đủ khả năng để ngăn chặn hữu hiệu Bắc Cộng xây thêm đường đưa tiếp liệu và đổ quân xuống miền Nam, gấp nhiều lần so với giai đoạn trước Hiệp Định Paris 1973.
Nhưng cũng có những tài liệu khác nói rằng chỉ từ đầu năm1974 cho đến tháng Tư1975 quân viện Hà Nội nhận được từ Khối Cộng Sản bằng 160% tổng số quân viện mà họ nhận được trong suốt 13 năm trước đó.
Điểm qua những sách báo – tài liệu đã có từ sau tháng Tư 1975 cho đến hiện tại, có thể đưa ra tương quan lực lượng tổng quát như sau:
Việt Nam Cộng Hòa có 11 Sư đoàn Bộ Binh, 2 Sư đoàn Tổng trừ bị, cộng với Biệt Động Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh, là lực lượng luôn luôn có mặt tại chiến trường, Không Quân, Hải Quân được coi là lực lượng trợ chiến. Còn các lực lượng Địa Phương Quân – Nghĩa Quân thì được trang bị kém xa tiêu chuẩn chánh quy, mặc dù trong rất nhiều trường hợp họ chiến đấu ngang ngửa với quân Bắc Cộng chỉ bởi ý chí phải bảo vệ cho bằng được gia đình, thân quyến, láng giềng của chính mình.
Bắc Cộng có 22 Sư đoàn hiện diện tại miền Nam. Và đây là lần đầu tiên họ ồ ạt đưa đồng loạt thêm vào miền Nam một đoàn thiết giáp trên 700 xe, cùng 400 khẩu pháo lớn đủ hạng. Tàu Cộng lúc này cũng đã đưa vào miền Bắc khoảng 50,000 quân gọi là lính Công Binh, thật sự đám quân này có nhiệm vụ hợp đồng tác chiến với 1 Sư đoàn quân Bắc Cộng duy nhất còn lại ở miền Bắc, ngừa trường hợp có đột biến xảy ra.(Nhưng Bắc Cộng rất tự tin sẽ không xảy ra, và họ đã đoán đúng phản ứng của Hoa Kỳ).
Vận mạng “Tiền Đồn Của Thế Giới Tự Do” đã được “Đồng Minh Hoa Kỳ” quyết định. Điều đáng ngạc nhiên, mặc dù sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa đã được coi là không tránh khỏi, thế nhưng tại sao Hoa Kỳ lại muốn nó phải xảy ra thật nhanh?
Sau khi Tổng Thống Nixon phải từ chức, nhục nhã rời khỏi Tòa Bạch Ốc vì vụ Watergate, thái độ của Hành pháp – Lập pháp Hoa Kỳ trở nên gấp gáp hơn trong ý muốn miền Nam Tự Do phải sụp đổ. Phải chăng “khoảng cách thời gian hợp lý” (decent interval) tính từ ngày Hiệp Định Paris 1973 có hiệu lực cho đến ngày Việt Nam Cộng Hòa bắt buộc phải sụp đổ đã đáo hạn? (Frank Snepp là một chuyên viên phân tích tình báo ưu tú nhất của cơ sở trung ương CIA Saigòn, trở về Hoa Kỳ sau 30 tháng Tư 1975, anh đã từ nhiệm khỏi CIA để có quyền viết cuốn “Decent Interval” tố cáo Chính phủ Mỹ đã tính toán trước thời gian phải cáo chung).
Hai năm 1973 – 1974 đã đủ để Hoa Kỳ biện minh rằng việc họ cắt giảm viện trợ không phải là lý do khiến Miền Nam Tự Do tan rã trước đoàn quân Cộng sản từ miền Bác kéo xuống?
Tác giả tin rằng đối với Hoa Kỳ, “Tiền Đồn Của Thế Giới Tự Do” sụp đổ vẫn chưa đủ! Họ còn muốn phần lãnh thổ này lọt vào tay Cộng Sản bởi lý do quân đội Việt Nam Cộng Hòa thất trận trên chiến trường. Vì nếu đạo quân miền Nam phải bỏ súng đầu hàng do hết đạn dược – tiếp liệu, thì người Mỹ khó biện minh trước dư luận thế giới việc họ cắt giảm – cúp viện trợ là nguyên nhân khiến miền Nam Tự Do sụp đổ.
Đa số những người lính thất trận của quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã, đang và sẽ bị dằn vặt đến tận cuối đời vì câu hỏi tại sao một đạo quân được đánh giá là mạnh mẽ và thiện chiến nhất vùng Đông Nam Á thời bấy giờ lại tan rã trong vòng 55 ngày ngắn ngủi?
Đây mới chính là sự nhục nhã lớn gấp nhiều lần nỗi nhục nhã bị thất trận?!!!
TRẬN PHƯỚC LONGPhải nhắc đến trận Phước Long trước vì trận đánh này chính là nơi cả hai bên đối địch cùng chờ xem phản ứng của Hoa Kỳ sau khi hình thành Hiệp định “không hòa bình” Paris 1973.
Phước Long nằm cách Sài Gòn 120 cây số về hướng Tây Bắc, giáp ranh giới Quân Khu 3 và Quân Khu 2. Đây là điểm án ngữ quan trọng ngăn chặn con đường xâm nhập và vận chuyển tiếp liệu của quân Bắc Cộng từ Lào – Kăm Pu Chia đổ vào miền Đông Nam Bộ thuộc Việt Nam Cộng Hòa.
Lực lượng trấn thủ Phước Long có 5 Tiểu Đoàn Địa Phương Quân cùng 48 Trung Đội Nghĩa quân, và 1 Tiểu Đoàn Pháo Binh với 8 khẩu 105 ly cộng 4 khẩu 155 ly. Lực lượng tấn công của quân Bắc Cộng đông đảo hơn gấp nhiều lần, với tổng cọng 8 Trung đoàn Bộ Binh của 3 Sư Đoàn 3,7,9 CSBV cộng thêm Trung Đoàn Đặc Công 429; được trợ lực bởi một Trung Đoàn Pháo Binh, 1 Tiểu Đoàn Xe Tăng, 1 Tiểu Đoàn Phòng Không, 1 Trung Đoàn Công Binh, và 2 đoàn Hậu Cần tương đương 1 Trung Đoàn.
Với tương quan lực lượng chênh lệch trầm trọng như vậy, trận Phước Long mở màn vào ngày12/12/1974. Chỉ sau 2 tuần lễ, Phước Long bị cô lập hoàn toàn với các vùng trực thuộc Quân Khu 3. Mỗi ngày phải chịu đựng hơn 3,000 quả pháo của quân Bắc Cộng rót vào. Nhưng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã không đồng ý với kế hoạch giải cứu Phước Long của Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn III Dư Quốc Đống.
Các lực lượng Việt Nam Cộng Hòa trực thuộc Quân Đoàn III có thể được xử dụng để yểm trợ, giải vây là các Sư Đoàn 5, 18,25 và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù. Còn có Lữ Đoàn 3 Thiết Giáp với 7 Thiết Đoàn. Không yểm có Sư Đoàn 3 Không Quân ở Biên Hòa, Sư Đoàn 5 Không Quân đóng tại Tân Sơn Nhất. Nhưng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ bằng lòng trực thăng vận 2 Đại Đội của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù xuống Phước Long ngày 4/01/1975. Đã quá trễ!!
Ngày 6/01/1975 Phước Long thất thủ. Chỉ có 850 người thoát ra được trong tổng số
5,400 quân trấn thủ Phước Long. Quân Bắc Cộng khoe họ thu được 5,000 vũ khí đủ loại và một kho đạn đại bác hơn 10,000 viên.
Phản ứng của Hoa Kỳ?
Tấn công Phước Long bằng một lực lượng quy mô như kể trên, rõ ràng Bắc Cộng đã bất chấp, trắng trợn xé bỏ Hiệp định “không hòa bình” Paris 1973. Tổng Thống Nixon từng hứa với Tổng Thống Thiệu là Hoa Kỳ sẽ can thiệp mạnh mẽ bằng quân sự nếu có trường hợp vi phạm rõ ràng xảy ra. Vậy Hoa Kỳ đã làm gì trong trường hợp quá trắng trợn như vậy?? Trận Phước Long vừa mở màn, Chính phủ Hoa Kỳ lên tiếng hù dọa sẽ mang Hàng Không Mẫu Hạm Enterprise vào vùng biển Việt Nam, đồng thời ra lệnh cho lực lượng Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đang đóng ở Okinawa, Nhật Bản, phải chuẩn bị sẵn sàng.
Nhưng cho tới sau khi Phước Long thất thủ, sự hù dọa của Hoa Kỳ cứ là …hù vẫn hoàn hù! Lối xỏ xiên của Tầu Cộng gọi Mỹ là con cọp giấy bỗng dưng trở thành “xỏ xiên đúng đắn”, từ thời điểm này cho đến ngày 30/4/1975.
Giờ đây quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã thấy rõ hai tay mình càng lúc càng bị trói chặt thêm. Phía Bắc Cộng, sau trận Phước Long họ dư tự tin đến dám mang hết lực lượng chiến đấu của mình vào Nam, chỉ còn chừa lại vỏn vẹn 1 Sư đoàn phòng thủ miền Bắc. Thật khó tưởng tượng được, vào lúc đó mà Kisinger vẫn đủ trâng tráo “bình luận” rằng Bắc Cộng đã vi phạm Hiệp định Paris 1973 quá rõ ràng và rằng chỉ cần đổ 1 Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến vào thì có thể thanh toán cả miền Bắc??
Vậy thì tại sao không đổ 1 Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến đang trú đóng tại Okinawa, Nhật Bản vào miền Bắc? Có phải vì “khoảng cách thời gian hợp lý” chỉ là sự tính toán về thời gian buộc Việt Nam Cộng Hòa phải sụp đổ, nhưng không chừa bất cứ cơ hội nào cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa lật ngược thế cờ?
Qua Trận Phước Long, người Mỹ đã có câu trả lời rất rõ ràng cho cả hai phía người Việt: Mỹ không còn can thiệp vào cuộc chiến Việt Nam nữa!Với câu trả lời như thế, phía Bắc Cộng “hồ hởi” chuẩn bị ngay Chiến Dịch Tây Nguyên 2/75 đánh vào Cao Nguyên Vùng 2 Chiến Thuật bắt đầu từ ngày 4 tháng Ba 1975. Về phần Việt Nam Cộng Hòa, ý tưởng cắt bỏ Vùng 1 Vùng 2 Chiến Thuật của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sẽ được đem ra thực hiện ngay. Có khá nhiều người thắc mắc: Không gửi quân giải cứu, cũng không đưa quân tái chiếm Phước Long sau khi tỉnh này lọt vào tay Cộng Sản; vậy mà ba tháng sau Tổng Thống lại đòi rút cả Quân Đoàn II về Nha Trang để tái chiếm Ban Mê Thuột là Tổng Thống nói giỡn hay nói chơi?!