TÌNH HÌNH VÀ TƯƠNG QUAN LỰC LƯỢNG VÙNG 2 CHIẾN THUẬT
Vùng 2 Chiến thuật của Việt Nam Cộng Hòa là vùng cao nguyên Trung phần, núi rừng trùng điệp. Đó là một vùng lãnh thổ quá rộng lớn thuộc trách nhiệm bảo vệ của Quân Đoàn II. Thủ phủ các tỉnh cách nhau quá xa, được nối liền bằng những trục lộ xuyên rừng, núi, đèo, dễ dàng bị địch quân cắt đứt, đóng chốt. Phía Đông giáp biển. Quân Đoàn II được chia thành hai vùng trách nhiệm: Vùng Cao Nguyên và Vùng Duyên Hải.
Các sĩ quan cao cấp trong Bộ tham mưu Quân Đoàn II ở bất cứ thời kỳ nào cũng có một nhận xét chung: Quân Đoàn không đủ quân để phòng thủ tất cả lãnh thổ trách nhiệm của mình.
Vì địa dư và quân số như kể trên, Quân Đoàn II phải dựa nặng nề về không thám – bộ thám – do thám kỹ thuật để kịp thời khám phá ra địa điểm đóng quân, sự di chuyển của các đơn vị Bắc Cộng, hầu kịp thời tung ra phản ứng chuyển quân cấp kỳ và hữu hiệu. Nhưng vào thời điểm cuối 1974 đầu 1975, khi mà những phương tiện không yểm – không vận đã tuột xuống mức thiếu hụt thê thảm, phản ứng hữu hiệu như những năm trước thật không dễ thực hiện được nữa.
Tương quan lực lượng lúc bấy giờ:
Bắc Cộng:
5 Sư Đoàn Bộ Binh (3 Sao Vàng – 10 – 316 – 320A – 968).
4 Trung Đoàn độc lập (25 – 271 – 95A – 95B).
1 Trung Đoàn Đặc công (198) cộng 2 tiểu đoàn đặc công độc lập (14 – 10).
1 Trung Đoàn Thiết Giáp (273) với 57 xe.
2 Trung Đoàn Pháo Binh (40 – 675) với 88 khẩu pháo lớn từ 105 ly đến 130 ly. Cùng hơn 100 khẩu cối 80 ly – 120 ly – 160 ly, và 6 dàn phóng hỏa tiễn chống tăng B72. Các đơn vị bộ binh có 1,561 phóng lựu B40–B41.
3 Trung Đoàn phòng không (232 – 234 – 593) với 343 súng phòng không đủ loại.
2 Trung Đoàn công binh (7 – 575).
1 Trung Đoàn truyền tin (29).
1 Trung Đoàn vận tải với 679 xe.
Đạn dược, xăng dầu đủ xử dụng trong 3 tháng với tình trạng phải chiến đấu liên tục…….
Việt Nam Cộng Hòa: Quân Đoàn II phải chia hai lực lượng vì có 2 vùng lãnh thổ trách nhiệm phải phòng thủ:
Vùng Cao Nguyên (nơi xảy ra Trận Ban Mê Thuột và Cuộc Triệt Thoái Quân Đoàn II)
1 Sư Đoàn Bộ Binh (23)
5 Liên đoàn Biệt Động Quân ( 21 – 22 –23 –24 –25)
36 Tiểu đoàn Địa phương quân, Nghĩa quân.
3 Thiết đoàn (3 – 19 –21) gồm 371 xe.
Không quân gồm 1 phi đoàn chiến đấu với 32 chiếc – 2 phi đoàn trực thăng với 86 chiếc – 1 phi đoàn vận tải, trinh sát với 32 chiếc.
1 Liên đoàn Công Binh (20)
Vùng Duyên Hải:
1 Sư Đoàn Bộ Binh (22)
45 Tiểu đoàn Địa phương quân, Nghĩa quân.
1 Thiết đoàn và 8 Chi đội gồm 117 xe.
Không quân: 12 phi đoàn (102 chiếc chiến đấu – 164 trực thăng – 69 vận tải,trinh sát).
Hải quân: 2 Hải đoàn – 2 Giang đội trên sông.
Đạn dược, xăng dầu đủ xử dụng trong 2 tháng với tình trạng phải chiến đấu liên tục.
Theo lời kể của Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất, trước khi được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Quân Đoàn II, Tướng Phú có lên Pleiku thăm ông. Tướng Phú hỏi ý kiến Tướng Tất về chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn II, ông Tất cản ông Phú không nên nhận, vì làm Tư Lệnh vùng này rất “khó nuốt”. Tây Nguyên đất rộng, quân ít, phía ta đang ở thế bị động, giữ thế thủ thì khó lắm. Với lực lượng hiện hữu làm sao thủ cho kín được.
Tháng 12/1974, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú chính thức thay thế Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn nắm chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn II. Tướng Phú tuy đã từng làm Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, cũng ở vùng rừng núi, nhưng địa thế Vùng 2 đối với ông thật quá mới mẻ, xa lạ, có thể nói là ông chưa biết gì nhiều.
Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất, được coi là thân cận nhất với Tướng Phú, kể rằng người thương mến Tướng Phú nhất là Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, chính cụ Hương là người gắn lon Chuẩn Tướng cho Đại Tá Phú bằng chiếc lon hai sao của Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh bẻ đôi ra. Ngoài ra Tướng Phú còn được sự hậu thuẫn từ Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm. Tướng Tất nói rằng ông không biết nhân vật nào đã đề bạt Tướng Phú vào chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn, nhưng theo Tướng Phú tiết lộ thì ông được đề nghị làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV, cuối cùng Tổng Thống chỉ chấp thuận cho ông nắm Tư Lệnh Quân Đoàn II. Lẽ nào Tổng Thống Thiệu với tính đa nghi vẫn chưa quên vụ Tướng Quảng tố cáo ông Phú có ý định bắt Tổng Thống khi Tổng Thống trốn Tướng Nguyễn Khánh bay ra Nha Trang (sẽ kể rõ hơn vụ này ở phần sau).Nếu không có ý đốt cháy thì Tổng Thống cũng phải đẩy đi càng xa càng tốt. Ai cho rằng đã là Tướng thì vai trò nào cũng thích hợp? Điều này không chính xác. Ai cũng có sở trường, sở đoản. Bổ nhiệm đúng vị trí thì hiệu quả thành công càng cao. Khả năng có thể khai thác được tối đa từ Tướng Phú là trong chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn IV. Vùng đồng bằng mới chính là sở trường của ông.
Đứng đầu quân đội Việt Nam Cộng Hòa, mặc dù có Bộ Tổng Tham Mưu với Đại Tướng Cao Văn Viên là Tổng Tham Mưu Trưởng, nhưng Tổng Thống Thiệu với tư cách là Tổng Tư Lệnh tối cao đã dành hết quyền điều hành trực tiếp chiến trường. Từ Dinh Độc Lập, Tổng Thống Thiệu ra lệnh và nhận báo cáo trực tiếp từ các vị Tướng cấp Quân Đoàn. Do vậy các Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn liên lạc trực tiếp với Dinh Độc Lập, không màng thông qua Bộ Tổng Tham Mưu. Với tình trạng này, Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Cao Văn Viên phản ứng lại bằng cách thờ ơ với chức vụ của mình, ông ngồi lỳ trong văn phòng, lại dùng nhiều thì giờ để ngồi thiền hay đi học đại học. Thậm chí đã nhiều lần đệ đơn xin từ chức. Nhưng có vẻ như Tổng Thống Thiệu “khoái” duy trì tình trạng như vậy, ông Thiệu lần nào cũng bác đơn Tướng Viên.
Vẫn theo lời kể của Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất, Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn II thì khác. Tướng Phú tuân thủ nguyên tắc, luôn thủ phận của một thuộc cấp, đàn em. Ông vẫn thông qua mọi việc trước hoặc sau khi trực tiếp nhận lệnh hay đưa ý kiến với Dinh Độc Lập. Điều đáng buồn là cách cư xử của Tướng Phú lại bị một vị Tướng đàn anh tại Bộ Tổng Tham Mưu đánh giá là “yếu”, một Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn“yếu”. Trung Tướng Đồng Văn Khuyên đã làm áp lực với Tướng Phú về việc bổ nhiệm chức vụ Tham Mưu Trưởng, kể cả một số các chức vụ Trưởng phòng của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II.
Tướng Tất nhìn nhận rằng trong thời gian đó tin đồn thổi rất nhiều, gây chia rẽ trong nội bộ không ít. Ngoài ra, “tật” bị chi phối nặng bởi tình cảm, “tật” thích “dĩ hòa vi quý” cũng đã ảnh hưởng lớn đến sự quyết đoán cần thiết trong giai đoạn những tháng đầu tiên vừa nhận chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn II.
Vì vậy, sẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi sau này ở hải ngoại đã có những vị cựu thuộc cấp trực tiếp của Tướng Phú lên tiếng chỉ trích gay gắt vị cựu Tư Lệnh của mình trước công luận, mặc dù Thiếu Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn II Phạm Văn Phú đã trở thành một trong năm vị Tướng Anh Hùng tuẫn tiết của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, ngay sau ngày Miền Nam Tự Do sụp đổ.