← Quay lại trang sách

TRẬN BAN MÊ THUỘT Tình Báo Chiến Trường

Có lẽ muốn trình bày về tình báo chiến trường của phía Việt Nam Cộng Hòa trong Trận Ban Mê Thuột 1975 thì không có gì hơn là trích lại một số đoạn trong bài “Thiếu Tướng Phạm Văn Phú Và Quân Đoàn II” do Đại Tá Trịnh Tiếu viết ở Hoa Kỳ vào khoảng năm 2004. Ba thập niên trước, Đại Tá Trịnh Tiếu là Trưởng Phòng 2 Quân Đoàn II, tức là nhân vật cầm đầu ngành tình báo chiến trường của cả Vùng 2 Chiến Thuật.

Theo bài này:

Tin tình báo dồn dập đầu tháng 2/1975

Đầu tháng 2.1975, tôi nhận được các báo cáo dồn dập.

Bộ phận tình báo kỹ thuật gửi cho tôi một bản báo cáo của cộng quân thông báo ngày 1.2.1975 có triệu tập một cuộc họp quan trọng tại vùng biên giới Viêt Nam-Cambodge (Tây Đức Cơ) gồm các Tư lịnh Sư đoàn 320, sư đoàn 10, sư đoàn 968 để triển khai chiến dịch 275. Ở dưới báo cáo ký tên Tuấn là bí thư của ai? Sau này, tôi mới biết Tuấn là bí danh của Văn Tiến Dũng.

Một bản báo cáo khác cho biết một nữ du kích hồi chánh tại Ban Mê Thuột cho biết Trung đoàn 25 địa phương được lệnh ăn Tết trước và sẽ chuyển quân về hướng Đông để hoạt động trên địa bàn Khánh Dương, tỉnh Khánh Hòa dọc theo Quốc lộ 21. Đương sự còn cho biết chi tiết thêm đã nhìn thấy nhiều toán binh sĩ của Sư đoàn 10 di chuyển về hướng quận Đức Lập, tỉnh Quảng Đức.

Ngày 5.2.1975 một Nghĩa Quân của ta tại Tỉnh Quảng Đức ngồi trên xe Lambretta chở hành khách đã nhặt được một lá thư viết toàn chữ số. Phòng 2 Tiểu Khu Quảng Đức dịch ra nguyên văn như sau: “Gửi đồng chí….(lâu ngày tôi quên tên). Kế hoạch đánh chiếm thị xã Ban Mê Thuột đã được Hà Nội chấp thuận. Báo cho đồng chí biết để chuẩn bị đầy đủ mọi mặt.Thời gian sẽ thông báo cho đồng chí sau”.

Tỉnh Quảng Đức là tỉnh mới, do Tổng Thống Ngô Đình Diệm lập ra khi có chính sách dinh điền.Cộng quân vẫn coi Tỉnh này thuộc lãnh thổ Tỉnh Đắc Lắc (Ban Mê Thuột).

Một tù binh đang làm nhiệm vụ giăng dây điện thoại dã chiến cho các Trung đoàn, thuộc Sư đoàn 320 cho biết, sư đoàn đang di chuyển quân về hướng thị xã Ban Mê Thuột. Các Đại đội trưởng đều được học cách tác chiến trong Thành phố và mỗi người được phát một tấm bản đồ Thị Xã Ban Mê Thuột. Các loại máy truyền tin lớn của Sư đoàn 320 được lệnh để nguyên tại vị trí cũ (Tây Pleiku) không được mang theo.

Các thợ làm rừng cũng báo cáo thấy nhiều Cộng quân di chuyển về hướng Nam.Các toán Biệt Kích hoạt động vùng ranh giới Pleiku và Ban Mê Thuột đã phá hủy và đem về một đoạn ống dẫn dầu của Cộng quân. Tổng hợp các tin tức trên, tôi làm bản “Ước tính tình báo” trình lên Tướng Phú và nhận định: Cộng quân sẽ tấn công vào thị xã Ban Mê Thuột với sư đoàn 320 và sư đoàn 10, có chiến xa yểm trợ, trong một thời gian rất gần. Địch giữ nguyên truyền tin của sư đoàn 320 lại phía Tây Pleiku và Kon Tum không phải là mục tiêu chính của cộng quân trong chiến dịch này.

Trước Tết 5 ngày, Tổng Thống Thiệu lên Quân Đoàn II để ủy lạo binh sĩ. Tôi đích thân thuyết trình về tình hình cộng quân tại Quân Khu II và khẳng định rằng: Địch sẽ tấn công Ban Mê Thuột thời gian sau Tết. Sau khi thuyết trình xong, Tổng Thống Thiệu thay vì lên KonTum vui Xuân với Biệt Động Quân, ông thay đổi lộ trình đi thăm Ban Mê Thuột và Quảng Đức. Ông đến ủy lạo nhiều đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân tại đây và nhắc nhở nhiều binh sĩ phải cố gắng chiến đấu đẩy lui cuộc tấn công của cộng quân sắp đến. Trước khi trở lại Sài Gòn, Tổng Thống Thiệu đã chỉ thị Tướng Phú đem Sư đoàn 23Bộ Binh về phòng thủ Ban Mê Thuột.

Tướng Phú vẫn nghi ngờ, không chịu thi hành lệnh.

Một tuần lễ sau, tôi vẫn chưa thấy Tướng Phú chuyển quân tăng cường Ban Mê Thuột như chỉ thị của Tổng Thống Thiệu, trong lúc đó các vụ chạm súng lẻ tẻ của Địa Phương Quân và Nghĩa Quân tại Quận Đức Lập( giáp ranh Cambodge và Việt Nam), ta tịch thu trên người tử thi nhiều tài liệu và nhật ký binh sĩ thuộc đơn vị sư đoàn 316 Bắc Việt, điều này chứng tỏ sư đoàn 316 cũng có mặt tại chiến trường Cao Nguyên. Tôi làm một phúc trình đặc biệt trình về Bộ Tổng Tham Mưu, để sau này nếu mất Ban Mê Thuột, Lãnh đạo Sài Gòn không thể quy trách về Tình Báo.

Thậm chí các sách vở – tài liệu sau này đã trích đăng lời kể của Đại Tá Tiếu là:

Ngày 2.3.1975, Chi Trưởng CIA ở Quân Khu 2 tại Nha Trang đã lên Ban Mê Thuột báo cho Đại Tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh Trưởng, biết Cộng quân đang chuẩn bị đánh Ban Mê Thuột và yêu cầu Đại Tá Luật phải đề phòng. Đại Tá Luật thông báo cho Quân Đoàn thì ở đây cho biết cũng đã nhận được công điện của CIA vào buổi sáng.

Có bài vở còn ghi rõ, nhân viên CIA thuộc chi nhánh Nha Trang đến Ban Mê Thuột báo động cho Đại Tá Nguyễn Trọng Luật tên là Howard Arche.

Về phía Mỹ, mặc dù đã rút hết quân, nhưng cơ quan tình báo CIA vẫn để lại các chi nhánh của mình trên toàn miền Nam. Chi nhánh trung ương đặt tại Sài Gòn, chi nhánh Vùng 2 đặt tại Nha Trang,v.v…

Ngôi sao sáng nhất của CIA tại chi nhánh trung ương Sài Gòn lúc đó là Frank Snepp (tác giả cuốn sách Decent Interval tức Khoảng cách Thời Gian Hợp Lý) sau này kể rằng:

Do những phán đoán sai lầm từ cơ quan tình báo CIA tại Sài Gòn về việc “ cộng sản chỉ có ý định bao vây và cắt đứt các đường giao thông” nên tại Ban Mê Thuột, QLVNCH không có một phương án khả thi nào để phòng thủ Ban Mê Thuột.

Và:

Trong khi đó ở Sài Gòn, tôi làm xong một bản nhận định về chiến lược của quân đội Bắc Việt Nam. Tôi dự kiến ít nhất sẽ có 4 sư đoàn Bắc Việt Nam định cô lập Huế và Đà Nẵng trong những tuần tới, còn những đơn vị khác sẽ đánh lấn vùng bờ biển phía nam Quân khu 1. Có thể đồng thời họ sẽ tấn công Quân khu 3 vào hệ thống đường xá phía Nam, phía đông các thị xã Pleiku,Kon Tum và chung quanh Ban Mê Thuột. Và tôi đã hoàn toàn lầm lẫn. Tôi đã không dự kiến được Cộng Sản sẽ đánh vào nơi nào đầu tiên. Ở Sứ quán Mỹ tại Sài Gòn, chúng tôi không hề biết tướng Văn Tiến Dũng đang ở miền Nam Việt Nam, lại càng không biết ông ta đặt sở chỉ huy phía Tây Nam Ban Mê Thuột để chuẩn bị tiến công thị xã. Quân tiếp viện của cộng sản kéo vào vùng này cũng không hề có ai biết.

Alan Dawson, Phóng viên chiến trường của UPI tại Vùng II( tác giả cuốn “55 Days:The Fall of South Vietnam”) cũng xác nhận:

Mặc dù có lúc Tướng Phú đã định điều động Sư đoàn 23 về Ban Mê Thuột nhưng các chi nhánh CIA tại Quân khu 2 và phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH đều khẳng định Sư đoàn 10 và sư đoàn 320 Bắc Cộng vẫn ở nguyên chỗ cũ. Trên bản đồ tình báo của Phủ Đặc Ủy Tình Báo VNCH, của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, của Đại Sứ Quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn và Bộ Tư Lệnh Quân đoàn II đều cho thấy một cụm quân rất lớn gồm 2 đến 3 sư đoàn có trang bị mạnh của Bắc quân đang chiếm lĩnh vị trí quanh Kon Tum và cả Pleiku cách đó hơn 20 km.

So sánh các bài viết trên, tất cả đều viết sau này tại Hoa Kỳ của Đại Tá Trịnh Tiếu – CIA Frank Snepp – Journalist Alan Dawson, tác giả nhận định:

CIA Frank Snepp thú nhận vì nhận định sai lầm của chi nhánh trung ương CIA Sài Gòn nên phía quân đội Việt Nam Cộng Hòa (Quân đoàn II) đã không có kế hoạch phòng thủ khả thi cho Ban Mê Thuột.

Journalist Alan Dawson thì kể vào lúc quân Bắc Cộng sắp tiến đánh Ban Mê Thuột, bản đồ của các phía Việt – Mỹ từ trung ương cho đến Vùng II đều cho thấy đại quân Bắc Cộng tập trung xung quanh Kon Tum và Pleiku. Và mặc dù có lúc Tướng Phú đã định điều động Sư đoàn 23 về Ban Mê Thuột, nhưng các chi nhánh CIA tại Quân Khu 2 và phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH đều khẳng định Sư đoàn 10 CSBV và Sư đoàn 320 vẫn ở nguyên chỗ cũ.

Chỉ một mình Đại Tá Trịnh Tiếu kể rằng trưởng chi nhánh CIA ở Nha Trang là Howard Arche đã đến Ban Mê Thuột ngày 2/3/1975 trực tiếp báo cáo cho Đại Tá Tỉnh Trưởng Nguyễn Trọng Luật biết Bắc Cộng sẽ đánh Ban Mê Thuột, Đại Tá Luật báo động cho Quân đoàn thì được trả lời Quân Đoàn đã nhận được công điện do chi nhánh CIA Nha Trang gửi đến cùng với nội dung.

Điều này không tin được!

Nếu Howard Arche và chi nhánh CIA Nha Trang có đủ thời gian để trực tiếp đến Ban Mê Thuột và thảo công điện gửi cho Quân Đoàn II, thì lẽ nào họ không có thì giờ gửi công điện cho chi nhánh trung ương CIA Sài Gòn để đến nổi Frank Snepp phải vướng vào sai lầm như kể trên?!

Nhưng “tiếng nói của người trong cuộc” không chỉ có bài viết của Đại Tá Trịnh Tiếu, mà còn có bài “Nhìn lại Trận Ban Mê Thuột” do chính Đại Tá Nguyễn Trọng Luật (Tỉnh Trưởng Ban Mê Thuột) viết và đăng trong cuốn “Thép và Máu” của Đại Tá Thiết Giáp Hà Mai Việt. Đại Tá Luật cũng có kể về một người Mỹ đã đến Ban Mê Thuột, nhưng đó là vào ngày Chủ Nhật 9/3/1975, tên ông ta không phải là Howard Arche, nghề nghiệp không phải CIA, người ông ta đến tìm cũng không phải là Đại Tá Tỉnh Trưởng Ban Mê Thuột Nguyễn Trọng Luật.Rồi mục đích cũng không phải mang tin đến mà là … đến hỏi tin!

Nguyên văn như sau: “ Khi về đến Ban Mê Thuột, tôi lại phải đến nhà Tướng Lê Trung Tường để đưa tướng này về Pleiku bằng trực thăng. Bước vào nhà, tôi thấy Tướng Tường đang nói chuyện với gia đình và sau đó tôi cùng Tướng Tường ra phi trường L-19, đây cũng là phi trường trực thăng. Trong lúc chờ đợi trực thăng đến, ông Paul Struharick, đại diện Tổng Lãnh Sự Mỹ tại Nha Trang, đến hỏi Tướng Tường về tình hình Việt Cộng xung quanh Ban Mê Thuột ra sao. Tướng Tường cười hí hí, có vẻ tự tin tự đắc, cầm cây gậy tướng lãnh đánh vào mông đít mình bộp bộp, rồi trả lời bằng tiếng Anh: “Don’t worry about that”.

Không có đoạn nào ông Đại Tá Tỉnh Trưởng Nguyễn Trọng Luật, vốn rất tin rằng quân Bắc Cộng sẽ tấn công vào tỉnh mình trước nhất, viết kể về một ông CIA mang tên Howard Arche từ Nha Trang đến tìm gặp ông để báo động cả.

Đại Tá Trịnh Tiếu trình bày rằng ông có những tin tình báo chính xác, dựa vào đó ông đã đưa ra nhận định rất đúng về mục tiêu của địch, nhưng Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn II Phạm Văn Phú vì không tin ông mà bị vướng kế nghi binh khiến Ban Mê Thuột lọt vào tay Cộng Sản.

Ông Tiếu chỉ nói ra một nửa sự thật, và khác với nửa ổ bánh mì, một nửa sự thật không bao giờ là sự thật được. Đại Tá Tiếu quả là có được những tin tình báo chính xác, nhưng ông chưa bao giờ có can đảm chính mình kết luận rằng Ban Mê Thuột là mục tiêu của quân Bắc Cộng chứ không phải Pleiku! Ông sợ trách nhiệm. Dễ hiểu thôi, ông không dám đi ngược lại nhận định của tình báo Mỹ.

Vẫn với bài viết vừa nêu trên, Đại Tá Nguyễn Trọng Luật đã vô tình làm lộ ra “phân nửa sự thật” còn lại của Đại Tá Trịnh Tiếu, chỉ với 3 dòng chữ. Ở phần đầu Đại Tá Luật kể về những hoạt động của ông trong ngày Chủ Nhật 9/3/1975 rồi đóng lại bằng kết luận:

Tôi như người có miệng phải câm, nhìn đồi núi chập chùng của Cao Nguyên mà lòng héo hắt. Vận mệnh của cả đất nước đang bị cấp chỉ huy lượng giá sai và chiến thắng sẽ đến chỉ là may mắn. Tôi phải đương đầu thử thách này đến bao giờ? Nghĩ đến câu dặn dò của Tướng Phú để dối lòng:“Hãy coi chừng tụi nó đánh nghe”, như một câu nói thông thường. Rồi “Don’t worry about that” của Tướng Tường nói một cách kiêu hãnhvới ông Paul. Cộng thêm lời tường trình của Trung Tá Trưởng Phòng Nhì Quân Đoàn: “Cộng quân vẫn còn lẩn quẩn tại Pleiku, Kon Tum kể cả những đơn vị Thiết Giáp” làm tôi cũng bớt lo âu đi phần nào. Và tự an ủi mình, nếu Cộng quâncó tiến chiếm Ban Mê Thuột, mình còn cầm cự được đôi ba ngày. Khó khăn lắm tôi mới chợp mắt qua đêm với những lo âu.

Thì ra qua lời kể của Đại Tá Tỉnh Trưởng Ban Mê Thuột, chính Đại Tá Trưởng Phòng 2 Quân Đoàn Trịnh Tiếu vào thời điểm kề cận quân Bắc Cộng tiến đánh Ban Mê Thuột cũng lầm như chuyên viên tình báo Hoa Kỳ Frank Snepp (đã can đảm thú nhận), và như ký giả UPI Alan Dawson đã ghi nhận (trung thực). Đại Tá Trịnh Tiếu cũng vướng kế nghi binh của địch, như Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn II Phạm Văn Phú, như Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Lê Trung Tường, như phía tình báo chiến trường Hoa Kỳ (giả vờ lầm?).

Điểm khác biệt là, nếu có lầm kế nghi binh thì Tướng Phú – Tướng Tường đã lầm do bởi cái sự lầm của …. Đại Tá Trưởng Phòng 2 Quân Đoàn Trịnh Tiếu!

Câu chuyện Ông Đại Sứ Anh

Đề cập vấn đề tình báo chiến trường trong Trận Ban Mê Thuột, còn có một chi tiết chưa từng được tiết lộ, từ Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất, Tư Lệnh mặt Trận Kon Tum – Pleiku.

Tác giả gặp lại Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất vào năm 2010 khi ông về Orange County, California, tham dự Đại Hội Biệt Động Quân được tổ chức tại đây. Trong lúc cùng ăn trưa trong một nhà hàng trên đường Westminster gồm có Tướng Tất, Trung Tá Trần Duy Hòe là cựu Trưởng Phòng 2 Biệt Động Quân Quân Khu 2, và tác giả; Tướng Tất tình cờ kể về chuyến viếng thăm của Đại Sứ Anh John Bushell vào cuối tháng Hai năm 1975 (không nhớ rõ ngày).

Theo Tướng Tất, sau khi Tướng Phú trở thành Tư Lệnh Quân Đoàn II, ông tiếp tục tập trung các Liên Đoàn Biệt Động Quân thành một khối tương đương cấp Sư Đoàn và cũng tiếp tục giao cho Đại Tá Phạm Duy Tất, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Vùng 2 Chiến Tuật chỉ huy trực tiếp. Có vùng trách nhiệm hẳn hoi, thay vì phân tán Biệt Động Quân tăng phái hết chỗ này đến chỗ khác. Làm được như thế, Tướng Toàn – Tướng Phú đã tận quân một cách triệt để hơn.Vừa sau khi Đại Tá Tất được Tướng Phú chính thức bổ nhiệm làm Tư Lệnh Mặt Trận Kon Tum – Pleiku với 4 Liên Đoàn Biệt Động Quân cơ hữu, thì ông Đại Sứ Anh John Bushell đáp trực thăng xuống thăm viếng. Đây là cuộc viếng thăm không chánh thức nên Tướng Tất chỉ tổ chức một buổi ăn trưa giản dị giữa ông – ông John Bushell – và người Tùy Viên của Đại Sứ. Không có thuyết trình, chỉ là câu chuyện xã giao xuyên qua buổi ăn trưa.

Đầu năm 2013, khi bắt tay vào viết cuốn sách này, tác giả lập tức hỏi Tướng Tất những chi tiết vụ ông Đại Sứ Anh John Bushell đáp trực thăng xuốngKon Tum vào khoảng cuối tháng Hai 1975. Tác giả thắc mắc, lý do gì ông Đại Sứ nước Anh lại bất ngờ đến thăm một đơn vị Việt Nam Cộng Hòa tại chiến trường, mà đây là chiến trường Cao Nguyên xa xôi, nơi sẽ xảy ra hai biến cố trọng đại liên quan đến vận mạng quốc gia Việt Nam Cộng Hòa? Chuyến viếng thăm này hình như là chưa từng có tiền lệ.

Tướng Tất kể, trong bữa cơm trưa Đại Sứ Anh John Bushell hỏi thăm về tình hình chung vùng Cao Nguyên, cũng như tình hình Kon Tum. Tướng Tất trả lời đang theo dõi rất sát truyền tin và điện đàm của Sư Đoàn 10 CSBV, nhưng họ tiếp tục giữ im lặng vô tuyến. Ông Đại Sứ Anh hỏi thêm, có thể chống giữ KonTum nếu quân Bắc Cộng tấn công không, Tướng Tất trả lời đánh tới cùng để chống giữ là chắc chắn rồi, tuy nhiên ông cũng sẽ bị ảnh hưởng vì đạn dược, tiếp liệu giới hạn. Ông John Bushell bèn nói, đừng lo sẽ có đủ những thứ đó cho Tướng Tất.

Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất kể rằng lúc bấy giờ ông chỉ nghĩ đây là một cuộc viếng thăm bình thường của ộng Đại Sứ có một số kiều dân cư ngụ trên khắp lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, trong đó có vùng Cao Nguyên. Ông ta vốn có trách nhiệm phải lo liệu cho họ kịp thời. Còn chuyện hứa hẹn về đạn dược – tiếp liệu thì cũng chỉ là câu nói trấn an, xã giao mà thôi. Mặc dù vậy, Tướng Tất cũng thú nhận, cuộc viếng thăm của Đại Sứ Anh khiến ông mang cảm giác như quân Bắc Cộng có thể tấn công KonTum hoặc Pleiku. Sau khi ông Đại Sứ Anh ra về, Tướng Tất gọi điện trình bày tất cả câu chuyện cho Tướng Phú.

Tác giả thì không nghĩ giản dị như thế, và đặt vài câu hỏi cho chuyến viếng thăm này. Rồi tự thử giải thích:

1/ Anh được coi là đồng minh thân thiết nhất của Mỹ. Nếu đây là cuộc viếng thăm có “hậu ý gì đó” thì Đại Sứ Anh đóng vai khách thăm viếng là có ý nghĩa nhất. Phía Việt Nam Cộng Hòa sẽ rất dễ dàng hiểu ngầm ông John Bushell chính là tiếng nói không chính thức của Mỹ.

2/ Đến gặp Tướng Tất thay vì gặp người khác (chẳng hạn như Tướng Tường, Tư Lệnh Sư Đoàn 23) bởi Tướng Tất được coi là thân thiết nhất và được Tướng Phú tin cẩn nhất. Họ nói gì với Tướng Tất thì chắc chắn Tướng Phú cũng sẽ được biết một cách trung thực nhất.

3/ Người Mỹ gián tiếp hứa hẹn sẽ có đầy đủ đạn dược, tiếp liệu cho Tướng Tất giữ Kon Tum, chứ Đại Sứ Anh lấy đâu ra những thứ đó mà hứa?

Đây chính là một trong những lý do khiến tác giả nhất quyết đeo đuổi việc viết cuốn “Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất Và Sự Thật Cuộc Triệt Thoái Quân Đoàn II” này. Và chính Tướng Tất cũng đã chịu từ bỏ quan niệm cá nhân “ là bại tướng thì nói gì cũng là bại tướng” như ông từng tuyên bố với các đài Truyền hình Việt Ngữ ở nam California khi về tham dự Đại Hội Biệt Động Quân năm 2010, để kể chuyện cho tác giả viết. Cũng như tác giả, Tướng Tất bắt đầu chịu kể chuyện vụ Ban Mê Thuột và vụ Triệt Thoái Quân Đoàn II bởi có những câu hỏi rất lớn về ông Đại Sứ Anh.

Bị cúp hẳn viện trợ, Việt Nam Cộng Hòa không thể sống sót. Nhưng phải chăng ông Đại Sứ Anh John Bushell đã giúp người bạn Mỹ “giải quyết” quân đội Việt Nam Cộng Hòa cho sớm, và phải là trên chiến trường; thay vì Quân Đoàn II chỉ buông súng khi không còn vũ khí – tiếp liệu nữa? Nhằm tránh tiếng cho siêu cường Hoa Kỳ!

Điều này khiến tác giả đâm ra …..băn khoăn không ít! Người Mỹ….Người Mỹ …