← Quay lại trang sách

Sĩ Quan Việt Cố Vấn Mỹ

Khác với các binh chủng bạn, Lực Lượng Đặc Biệt Việt Nam Cộng Hòa hoạt động song song và thường xuyên phối hợp với Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ. Ngay cả đơn vị nhỏ nhất là Toán A Lực Lượng Đặc Biệt Việt Nam cũng có cố vấn Mỹ đi theo hành quân.Nói chung, Sĩ quan Việt thường có thâm niên tác chiến và rành địa hình chiến trường hơn, còn phía cố vấn Mỹ thì làu thông lý thuyết chiến đấu và có khả năng gọi và điều hợp hỏa lực yểm trợ hơn. Những ưu điểm của hai bên, tuy vậy, sẽ biến thành khuyết điểm nếu hai phía không hiểu nhau nẩy sinh bất hợp tác. Tướng Tất phân tích về phía Sĩ quan Việt. Trường hợp đầu tiên là mình cứ chạy theo cái người Mỹ muốn làm, mà không đưa ra được sáng kiến gì, mãi như vậy thì khiến phía Cố vấn Mỹ nghĩ Sĩ quan Việt yếu kém, thiếu khả năng. Thứ nhì là, mình cứ làm theo cách của mình, không thèm đếm xỉa đến cách làm, cách nghĩ của Cố vấn Mỹ, không thèm phối hợp chặt chẽ, lâu ngày sinh bất hòa, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Là công dân của một trong hai siêu cường thời bấy giờ, quân nhân Mỹ có tính kiêu ngạo; là một công dân của một tiểu quốc đang trông cậy vào Hoa Kỳ, quân nhân Việt mang mặc cảm coi thường ngược lại. Còn nhiều, còn rất nhiều những trường hợp khác nữa, mà tựu trung vì thiếu hiểu biết lẫn nhau, khiến cho kế hoạch thất bại hay ít nhất cũng không thể thành công mỹ mãn.

Ông Tất kể, có thời gian tôi làm việc chung với Cố vấn Mỹ rất dài, có lúc với cả nhân viên CIA, nhưng thường là với thành viên của Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ. Tôi với họ cộng tác nhau rất chặt chẽ, vì tôi biết họ có những ý kiến hay, kế hoạch cũng tốt nhưng đại đa số là làm theo sách vở học được ở các trung tâm huấn luyện, còn kinh nghiệm thực tế thì họ chưa có. Tuy vậy, nhưng họ cũng chịu khó học hỏi, và đặc biệt còn rất mù mờ đối với chiến trường Việt Nam. Tôi chọn cách là mình luôn luôn chủ động đi trước Cố vấn Mỹ một bước trong việc thảo kế hoạch, chọn mục tiêu, cách hành động thích ứng, cách xử dụng quân phù hợp với mục tiêu hai bên đã cùng đề ra. Thông thường thì Cố vấn Mỹ sẽ hợp tác ngay khi thấy hợp lý, thành ra họ thường cứ theo mình vì họ cũng cần hoàn thành công tác của họ. Cũng có trường hợp gặp vài tay ngang ngược, kiêu ngạo, tôi sẽ trình bày sau. Tôi lặng lẽ nhưng không bao giờ để họ lấn áp mình. Nói vậy không có nghĩa là mình không lắng nghe các ý kiến hợp lý của phía họ.Thường như vậy thì kết quả bao giờ cũng đạt đến kết quả tối đa vì sự yểm trợ của Mỹ sẽ tối đa, hết mình. Và khi báo cáo lên cấp trên của họ, nếu có cơ hội họ sẽ báo cáo tốt về mình để phù hợp với báo cáo tốt cho chính họ. Những cuộc hành quân Delta tôi đã kể với anh, có thể lấy đó làm thí dụ.Hành quân Delta tôi chưa bao giờ bị họ phản đối điều gì khi tôi khoanh vùng hành quân, đưa ra kế hoạch, cũng như cách xử dụng quân, kể cả lúc tôi thực hành kế hoạch Toán kết hợp với Trung Đội, Đại Đội Biệt Cách Dù. Vì sao? Vì những thành quả sau đó họ sẽ dùng để báo cáo là công lao của họ cũng có trong đó.

Chỉ có một lần, tôi đụng phải anh chàng Thiếu Tá Charlie Beckwith, anh ta đi theo tôi trong trận Pleime. Là gốc Phòng 2, anh chàng này rất tự cao, tự đại, đã có vài ý kiến ngược lại với tôi, nhưng so thấy cũng hợp lý, tôi ưng thuận thì xẩy ra chuyện khoảng 10 nhà báo đủ mọi quốc tịch bị thương, chết. Đến cuộc hành quân ở thung lũng An Lão, chúng tôi không truy tìm được tung tích của đơn vị quân Bắc Cộng, hết thời hạn hành quân tôi cho lệnh rút về, thì Thiếu Tá Charlie Beckwith phản đối, đòi phải tiếp tục. Dĩ nhiên là tôi vẫn rút quân, nhưng Beckwith nhất định buộc quân Mỹ phải ở lại kéo dài cuộc hành quân. Tôi biết thế nào cũng có chuyện, nhưng anh chàng này cần có một bài học để chừa. Hậu quả là anh ta vừa thả xuống “lift” đầu đã có địch chờ sẵn phía dưới, Beckwith thoát chết trong gang tấc, được trực thăng bốc về Bệnh viện Quy Nhơn. Anh ta kể Toán anh ta bị du kích bu vào làm thịt, suýt nữa anh ta mất mạng tại chỗ nếu Toán giải cứu không đến kịp lúc. Tôi hành quân ghét nhất là bị du kích bám theo, họ không nhiều, không thiện chiến nên không đáng đánh, nhưng ngược lại dễ làm mình bị lộ và bị thiệt hại. Mà mục tiêu chính của các cuộc hành quân Delta là truy tìm tung tích các Đại đơn vị địch quân. Những điều như vậy rất khó giải thích với các tay như Charlie Beckwith, chỉ còn cách để cho anh ta tự lãnh lấy một bài học. Nhưng tôi nghĩ cho tới bây giờ Mỹ vẫn chưa rút ra được bài học đó cho chiến trường A Phú Hãn. Mặc dù tôi thấy Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ đã dựa vào kinh nghiệm từ lực lượng Delta, họ cũng dùng danh từ “Delta Team”, Đơn vị Ranger cho các toán, các cuộc hành quân, và cũng đã áp dụng cách phối hợp các toán hành quân với Trung Đội, Đại Đội, Tiểu Đoàn... Theo cá nhân tôi, xuyên qua cuộc chiến, mình có học từ người Mỹ, thì người Mỹ cũng có học từ mình. Chỉ có điều, nếu Mỹ chịu khó huấn luyện quân cho nhiều về cách xử sự trước khi đến giúp một quốc gia khác, thì họ sẽ được quý trọng, thay vì giúp mà vẫn bị ghét bỏ như thường xảy ra.

Tác giả thì đặc biệt chú trọng đến đoạn nói “... Tôi luôn luôn chủ động đi trước Cố vấn Mỹ một bước trong việc chuẩn bị kế hoạch...” của Tướng Tất. Nếu Bộ Tham Mưu cũng chủ động như vậy thì đỡ quá!

Chỉ Huy Trưởng C3 Lực Lượng Đặc Biệt

Tuy rời khỏi lực lượng Delta mà tiếc, nhưng Trung Tá Phạm Duy Tất cũng công nhận việc chỉ huy C3 Lực Lượng Đặc Biệt là dịp cho ông học hỏi, phát huy thêm khả năng chỉ huy của mình. Ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, Trung Tá Tất thân với Tướng Nguyễn Thanh Hoàng, Tư lệnh Phó Quân Đoàn, đặc biệt ông mừng rỡ vì được gặp lại Trung Tá John G. Hayes từng là cố vấn Delta của ông, nay đang là Chỉ Huy Trưởng Đại Đội D Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ thuộc Vùng 3 Chiến Thuật. (Ngang cấp với Chỉ Huy Trưởng C của Lực Lượng Đặc Biệt Việt Nam).

Nhờ những năm tháng chỉ huy hành quân Delta khắp các Vùng Chiến Thuật, Trung Tá Tất đã có cái nhìn rất chính xác về các trại Lực Lượng Đặc Biệt / Dân Sự Chiến Đấu Biên Phòng dọc theo biên giới, các đơn vị Mike Force ( Biệt kích Quân Tiếp Ứng). Trại Lực Lượng Đặc Biệt /Dân Sự Chiến Đấu Biên Phòng có quân số cấp Tiểu Đoàn gồm 3 đến 4 Đại Đội Biệt kích Quân, do một toán A Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ và Việt Nam chỉ huy, nhiệm vụ của họ là theo dõi mọi hoạt động xâm nhập của Cộng Sản trong vùng lãnh thổ trách nhiệm. Tổ chức thám sát, phục kích, đánh tiêu diệt nếu hoàn cảnh và khả năng cho phép, sau đó báo cáo tin tức lên cấp trên. Nhiệm vụ như vậy thì các Trại đã hoàn thành tốt đẹp, nhưng không ngăn chận được triệt để các cuộc xâm nhập. Địa thế các Vùng Chiến Thuật 1, 2, 3 đều là núi rừng, quân của các Trại Biên Phòng tuy có gây tổn thất đáng kể cho các lực lượng xâm nhập của đối phương, nhưng khi những toán thuộc đoàn xâm nhập này đã thoát qua khỏi khu vực trách nhiệm của Trại, thì kể như đã an toàn. Trại không có trách nhiệm, cũng không có khả năng hành quân ra ngoài khu vực để truy đuổi, tiêu diệt bộ phận xâm nhập. Trách nhiệm của Trại là báo cáo lên trên, việc kế tiếp là trách nhiệm của Quân Đoàn – Quân Khu, nhưng tới lúc đó thì việc tìm diệt địch đã trở nên khó khăn, không còn kịp thời.

Lực Lượng Đặc Biệt Việt – Mỹ có tổ chức mỗi Vùng Chiến Thuật 1 đơn vị Mike Force gọi là Lực Lượng Quân Tiếp Ứng, cấp Liên Đoàn. Tại Nha Trang, nơi Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt Việt Nam và Bộ chỉ huy Liên Đoàn 5 Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ đồn trú còn có 1 Liên Đoàn Biệt kích Quân Tiếp Ứng Tổng Trừ Bị. Quan niệm lập ra những Lực Lượng Tiếp Ứng và Tổng Trừ Bị nầy không phải là để hành quân khai thác tin tức của các Trại thu thập được nhằm tiêu diệt địch. Mục đích chỉ để sẵn sàng tiếp ứng, giải vây cho các Trại nếu bị địch tấn công, trong lúc Quân Đoàn / Quân Khu hay các Đại đơn vị Mỹ không thể phản ứng kịp thời. Chính Lực Lượng Đặc Biệt phải tự cứu nhau trước. Quan niệm này đã được thực nghiệm tốt đẹp khi Trại Dak San ở Vùng 2 Chiến Thuật bị quân Bắc Cộng tấn công, Liên Đoàn Mike Force Tổng Trừ Bị tại Nha Trang đã kịp thời cứu viện, đánh tan lực lượng Cộng Sản tấn công. Liên Đoàn Tiếp Ứng (Mike Force) tại Nha Trang được tổ chức chặt chẽ, trang bị và huấn luyện đầy đủ, binh sĩ đều được huấn luyện nhảy dù, không thua kém bất cứ đơn vị nào, nhất là những Tiểu Đoàn tham chiến có quân số từ 500 đến 700. Liên Đoàn này nhờ tham dự hành quân thường xuyên nên có kinh nghiệm tác chiến. Trái lại, các Liên Đoàn Tiếp Ứng (Mike Force) của các Quân Đoàn / Quân Khu thì ít hoạt động, không tổ chức hành quân nên không có kinh nghiệm tác chiến.

Nhìn thấy những hạn chế này, có một lực lượng trong tay mà để nằm không, hay đã làm quá ít, Trung Tá Tất khi về nhận chức vụ chỉ huy C3 Lực Lượng Đặc Biệt đã hình thành trong đầu một quan niệm khác về phòng thủ biên giới và ngăn chặn xâm nhập của Cộng Sản. Tình hình chiến sự đã và đang thay đổi, nhưng nhiệm vụ biên phòng của các Toán A, B, C của các Vùng Chiến Thuật vẫn duy trì như cũ. Ông Tất cho rằng thời kỳ xâm nhập lẻ tẻ của Cộng sản không còn nữa. Tuy bị tổn thất nặng nề trong thời kỳ này nhưng Cộng Sản không vì thế mà chùn bước, họ tiếp tục mạnh hơn, những cuộc xâm nhập nay được tổ chức thành đoàn, thành đơn vị, thành đại đơn vị.Ông Tất tự hỏi, ta phải làm gì để được hữu hiệu hơn, đáp ứng với tình hình mới? Ta có quân nhưng các Trại vẫn đánh kiểu lẻ tẻ, không tác chiến được cấp Đại Đội, Tiểu Đoàn, đừng nói chi đến tác chiến cấp Chiến Đoàn. Chưa ai đưa ra sáng kiến tận dụng các Trại (tuơng đương cấp Tiểu Đoàn) để hỗ trợ nhau trong thế liên hoàn, lực lượng tiếp ứng cũng phải được xử dụng đắc lực hơn. Trung Tá Tất liền bắt tay vào việc rèn luyện cho đơn vị tiếp ứng cơ hữu của Lực Lượng Đặc Biệt Vùng 3 Chiến Thuật để có thể xủ dụng hữu hiệu.

Do vậy, Trung Tá Tất và Trung Tá Hayes hợp tác tổ chức ngay những cuộc hành quân cơ động Lực Lượng Đặc Biệt, xử dụng quân của 3 Tiểu Đoàn Biệt kích Quân Tiếp Ứng đóng tại Long Hải, Vũng Tàu. Nhưng không có trận nào lớn, chỉ đụng lẻ tẻ, mục đích là rèn luyện quân. Ông Tất và Cố Vấn còn tung 1 Đại Đội Biệt kích Quân Tiếp Ứng di chuyển xuyên qua Chiến Khu Dương Minh Châu, Chiến Khu D. Phát xuất từ Sóc Con Trăng, Trại Tống Lê Chân, di chuyển băng rừng và sẽ được đón tại Trảng Sụp, Tây Ninh. Đại Đội này tuyệt đối tránh chạm địch vì dễ bị tiêu diệt, mục đích là rèn luyện cho đơn vị tự tin, và làm quen với rừng núi. Không ngờ anh Đại Đội Trưởng lại là em vợ của Trung Tá Tất. Ba tuần lễ trôi qua trong hồi hộp, cuối cùng Đại Đội cũng đã đến được Trảng Sụp, Tây Ninh an toàn. Khi Ông Tất thuyên chuyển về Vùng 4 Chiến Thuật nhưng người em vẫn ở lại Vùng 3, không bao lâu sau nghe tin người em đã tử trận. Ông Tất về nhận xác em mà nghẹn ngào không biết nói thế nào với gia đình bên vợ.

Thời gian ở C3 chỉ là mới bắt đầu thực nghiệm quan niệm mới của mình, thì đã có thay đổi, tất cả chỉ để lại trong trí nhớ ông Tất một cách sâu đậm là khả năng và sự tận tụy của một vị Bác Sĩ người Mỹ.

Trong một cuộc hành quân chạm địch, phía mình có vài Biệt Kích Quân bị thương, trong đó có anh Biệt Kích Quân bị trúng đạn B40 nát cả khuôn mặt. Vì Biệt Kích Quân là Dân Sự Chiến Đấu nên không thể vào Tổng Y Viện Cộng Hòa chữa trị, Trung Tá Tất phải đưa anh Biệt Kích Quân mà ông cứ tưởng thế nào cũng phải chết về Bệnh xá cơ hữu của C3. Ở đây có một Bác Sĩ Mỹ, Y Tá là các Biệt Kích Quân đã được huấn luyện cứu thương.Sáng nào ông Tất cũng ghé thăm anh Biệt Kích Quân, chỉ khoảng một tháng sau thì anh ta đã khỏe mạnh, gương mặt còn có vẻ đẹp trai ra thêm, chỉ cái mũi xẹp nguyên thủy thì chưa được Bác Sĩ Mc Donald làm... giải phẫu thẩm mỹ. Trung Tá Tất khen, ông Bác Sĩ này vừa giỏi, lại rất tận tâm, đã đắp vá gương mặt anh Biệt Kích Quân thật tỉ mỉ, hoàn chỉnh.

Cũng ông ta đã cứu Đại Úy Phan Văn Ninh, Trưởng Trại Trảng Sụp, Tây Ninh. Ông Ninh thuộc khóa 17 Đà Lạt, trước đó cũng là Trưởng Toán Delta thuộc quyền ông Tất. Đại Úy Phan Văn Ninh đưa quân Trại Trảng Sụp đánh vào Chiến Khu D, bị trúng đạn bể xương chậu. Đại Úy Bác Sĩ Mc Donald kiên nhẫn gọi hết các bệnh viện của Mỹ tại Việt Nam và cả bên Hoa Kỳ để tìm cho ra bằng được khung sắt thích hợp ráp, gắn xương cho Đại Úy Ninh. Nếu không, có lẽ Đại Úy Phan Văn Ninh sẽ phải nằm một chỗ suốt đời.

Sau Tết Mậu Thân, Tướng Đỗ Cao Trí về thay Tướng Lê Nguyên Khang làm Tư Lệnh Quân Đoàn III. Trung Tá Phạm Duy Tất bèn có cảm tưởng số phận long đong sẽ tiếp tục bám theo mình, nghĩ rằng Tướng Trí vẫn có thành kiến xấu với mình, tuy vậy ông vẫn giữ bình thản, vẫn tổ chức hành quân và báo cáo đầy đủ cho Quân Đoàn. Một hôm, Tướng Trí gọi Trung Tá Tất trình diện, ông tiếp ông Tất rất vui vẻ. Ông Tất nói, ông không bao giờ quên câu nói cuối cùng của Tướng Trí với ông: Anh hành quân tốt lắm, tôi không ghét bỏ gì anh hết, nhưng tôi muốn hoán đổi anh với anh Chuẩn (Chỉ Huy Trưởng C4) để anh Chuẩn về làm việc với tôi. Tôi quen biết anh Chuẩn lâu rồi, từng làm việc với nhau nên muốn để anh Chuẩn về gần bên tôi cho vui. Nghe Sếp lớn nói vậy, Trung Tá Tất “Yes, Sir” lẹ. Vả lại, ông Tướng đã rất thẳng thắn, ông không phủ nhận khả năng của ông Tất, mà chỉ muốn có ông Chuẩn về kế bên... cho vui thôi.

Vậy là Trung Tá Phạm Duy Tất một lần nữa khăn gói bọc bị lên đường. Đi về Vùng 4 Chiến Thuật. Kỳ vọng trở thành một vị Tướng Việt Nam Cộng Hòa càng lúc càng lớn, càng mạnh mẽ hơn trong ông.

Chỉ Huy Trưởng C4 Lực Lượng Đặc Biệt

Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân

Quân Khu 4

Một lần nữa, “trong cái rủi có cái may”, Trung Tá Nguyễn Thành Chuẩn đổi lên Vùng 3 gặp Tướng Trí thì Trung Tá Phạm Duy Tất đổi xuống Vùng 4 gặp Tướng Nguyễn Viết Thanh, rồi cũng sẽ gặp lại ông Phú, sắp làm Tư Lệnh Biệt Khu 44 và sắp được thăng Chuẩn Tướng. Trung Tá Tất khi còn mang lon Đại Úy vào những năm 1961 – 1962 đã có cơ hội gặp và quen biết với Trung Tá Thanh khi đó là Tỉnh Trưởng Long An. Trung Tá Tất tới thời điểm này vẫn chỉ quen thuộc tác chiến với các địa thế rừng, núi; sẽ có dịp khám phá vùng đồng bằng sình lầy cũng là nơi ông ta có thể vùng vẫy ngang dọc. Lực Lượng Đặc Biệt Vùng 4 chủ yếu tập trung vào các Trại Lực Lượng Đặc Biệt / Dân Sự Chiến Đấu nằm dọc biên giới Việt – Miên. Cũng có vài trại nằm sâu trong nội địa như Trại Kinh Quận 2, nhưng cũng là nằm chận trên trục xâm nhập của Cộng Sản.

Tổ chức lãnh thổ thì có Biệt Khu 44 chịu trách nhiệm 3 tỉnh Kiến Tường, Kiến Phong và Châu Đốc. Nói về tổ chức Biệt Khu thì các Vùng khác cũng có Biệt Khu, như Vùng 1 có Biệt Khu Quảng Đà chịu trách nhiệm tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, Vùng 2 có Biệt Khu 24 chịu trách nhiệm 2 tỉnh Pleiku – Kontum. Các Biệt Khu được thành lập, rôi giải tán, rồi thành lập lại tùy theo tình hình chiến sự. Chỉ riêng Biệt Khu 44 của Vùng 4 là được duy trì mãi, lâu nhất. Nhưng Biệt Khu thì không có quân cơ hữu. Trung Tá Phạm Duy Tất chỉ huy Bộ Chỉ Huy C4 Lực Lượng Đặc Biệt trú đóng tại Cần Thơ. Trực thuộc có B19 là lực lượng Mike Force (Biệt Kích Quân Tiếp Ứng) cũng đóng quân ở Cần Thơ, B18 đóng tại Mộc Hóa, Kiến Tường chỉ huy các Trại Dân Sự Chiến Đấu trong 2 tỉnh Kiến Tường, Kiến Phong, B20 đóng tại Chi Lăng, Thất Sơn chỉ huy các Trại trong 2 tỉnh Châu Đốc, Hà Tiên.

Tuy vậy, trên nguyên tắc Bộ Chỉ Huy C4 ở Cần Thơ trực thuộc thẳng Quân Đoàn – Quân Khu, không có liên quan gì đến Bộ Tư Lệnh Biệt Khu 44. Các Bộ Chỉ Huy B và các Trại A đều có trách nhiệm rõ ràng. Mỗi Trại đều đã được giao cho một khu vực riêng, chịu trách nhiệm theo dõi hoạt động xâm nhập của Cộng Sản từ Miên qua, sau đó báo cáo về Biệt Khu 44 để Biệt Khu có những biện pháp kế tiếp. Các Trại tung quân ra phục kích, do thám, hành quân trong phạm vi trách nhiệm. Chủ trương khi chạm địch là gây tiêu hao, gây khó khăn cho địch, nhưng không thể chận đứng triệt để. Nhiệm vụ biên phòng không khác gì với các Quân Khu khác. Còn với các đoàn xâm nhập của Cộng Sản thì nếu có lỡ chạm trán các toán này, họ cũng không muốn đánh, mà rút cho nhanh về an toàn khu. Chính ở chỗ này Trung Tá Tất nhận ra là sau khi các Trại báo cáo về Biệt Khu hay Quân Đoàn thì lực lượng xâm nhập của Cộng Sản đã di chuyển đi mất rồi, chẳng kịp khai thác được kết quả phát hiện. Chuyện như thế đã kéo dài nhiều năm, chưa ai thấy để thay đổi. Nhiệm vụ này được giao trong những năm CSBV còn xâm nhập với những bộ phận nhỏ. Tình hình chiến sự đổi thay mà nhiệm vụ biên phòng vẫn giữ nguyên.

Trung Tá Tất, nhờ những kinh nghiệm hành quân Delta biết rằng Cộng Sản đã không còn xâm nhập bằng những toán nhỏ, khởi đầu là để bổ sung cán bộ, tiếp liệu, vũ khí. Sau trận Mậu Thân thì họ xâm nhập từng đoàn gồm cả 100 người nhằm bổ sung quân số. Họ đã và sẽ mang cả Đại đơn vị vào miền Nam. Thí dụ như Sư Đoàn 320 CSBV đã xâm nhập Vùng 2 hay Sư Đoàn 7 ở Vùng 3 như đã kể. Theo Trung Tá Tất, ở Vùng 4 phía Tây Nam với con kinh Vĩnh Tế chạy dài từ Châu Đốc đến Hà Tiên, quân Bắc Cộng có 3 đường xâm nhập chính. Từ bên Miên vượt được Trại Tô Châu, Hà Tiên rồi kéo thẳng xuống U Minh, nhưng con đường nầy phải xuyên qua nhiều khu vực đông dân cư, nên không phải ưu tiên một cho Cộng Sản chọn. Trái lại, ở phía Châu Đốc, chỉ cân vượt qua được bờ kinh Vĩnh Tế, vượt qua Trại Vĩnh Gia hay Trại Ba Xoài thì họ đã nhanh chóng lọt được vào vùng núi Thất Sơn, hoặc rừng Tràm Trà Tiên, thì coi như phía mình đã mất dấu họ. Vì vậy, tuy đã về đến vùng đồng bằng sình lầy, trận đầu tiên Trung Tá Phạm Duy Tất thử lửa lại là một trận đánh trên núi.

Núi Cô Tô.

Châu Đốc có Thất Sơn vẫn được coi là một vùng huyền bí, nên dân chúng Vùng 4 khi nhắc đến, họ thường gọi nhập chung là Thất Sơn Huyền Bí. Huyền bí nhất của Thất Sơn là núi Cô Tô, nơi có đồi và hang Tức Chụp được coi như bất khả xâm phạm, vì do một nhân vật huyền bí không kém là Châu Kem trấn thủ, anh này là Việt gốc Miên, vốn được dân địa phương “phong thần” với các phép tàng hình, đạn bắn không lủng, v.v...Từ lúc Cộng Sản nổi lên ở Miền Nam Tự Do cho đến đầu năm 1969, quân Việt Nam Cộng Hòa tiến lên Cô Tô nhiều lần, đánh tới đánh lui mãi, nhưng vẫn không chiếm được ngọn đồi này, đồi và hang Tức Chụp với Châu Kem vẫn tiếp tục là bất khả xâm phạm.

Bây giờ... cuối mùa Xuân 1969, Phạm Duy Tất đụng Châu Kem.

Trận Núi Cô Tô, Hang Tức Chụp.

Ghế Chỉ Huy Trưởng C4 ngồi chưa kịp nóng, với nhận định tình hình như kể trên, Trung Tá Tất vội vã mang là lực lượng B19 Mike Force của Thiếu Tá Từ Hải Phượng lên Thất Sơn.

Con đường xâm nhập của Cộng Sản vào Vùng 4, xuống mật khu U Minh, thì dãy núi Thất Sơn là nơi dừng chân nhanh nhất, an toàn nhất, lại có hang Tức Chụp trên núi Cô Tô có thể tạm cất giấu vũ khí, tiếp liệu kiên cố. Chiếm và bình định khu vực này, Trung Tá Tất có thể cô lập và hạn chế đường xâm nhập của địch, sau đó có thể tổ chức hành quân diệt lực lượng xâm nhập của Cộng Sản một cách triệt để. Mặc dù biết Liên Đoàn Mike Force của mình còn yếu, chưa có kinh nghiệm chiến trường, nhưng Trung Tá Phạm Duy Tất cũng quyết xử dụng họ để lấy kinh nghiệm, đồng thời chiếm lĩnh Thất Sơn. Mục tiêu đầu tiên là núi Dài với hang Ma Thiên Lãnh, cũng nổi tiếng huyền bí không kém hang Tức Chụp bên Cô Tô, nhưng không hiểm trở bằng. Có một hẻm núi ở giữa chia núi Dài ra làm hai, hang Ma Thiên Lãnh nằm lưng chừng trên triền phía Tây, hướng Bắc của hẻm núi, với độ dốc đứng khó lòng bò lên bò xuống, miễn nói đến đi thẳng người. B19 vào trận 1 tuần lễ, đã chiếm giữ gần hết cả núi Dài, nhưng dùng đủ cách, kể cả chong súng 105 ly bắn trực xạ vào miệng hang Ma Thiên Lãnh, cũng chẳng nhằm nhò gì. Miệng hang được che chở một cách tự nhiên bởi những tảng đá khổng lồ, “chê” cả đạn pháo binh.

Trung Tá Tất thấy không cần phải chiếm giữ hoàn toàn núi Dài, sau khi đã yêu cầu Cố Vấn Mỹ trải bom bi lên khắp sườn núi phía Bắc, đối diện với kinh Vĩnh Tế, ngăn chặn không cho quân Bắc Cộng dùng làm đường xâm nhập nữa, quân Việt Cộng cũng không thể xử dụng được núi Dài, phải dồn hết về Cô Tô. Một đơn vị Biệt kích Quân được để lại án ngữ ở khu vực này. Liên Đoàn Mike Force được tung sang núi Cô Tô, là vị trí chính của Thất Sơn. Nhiệm vụ: Thanh toán hang Tức Chụp. Địa thế tại đây khó khăn hơn bên núi Dài, núi tuy nhỏ nhưng đầy những tảng đá lớn, không có cây cối, khiến đồi và hang Tức Chụp kiên cố một cách tự nhiên. Lực lượng Mike Force gồm 2 Tiểu Đoàn quần thảo với quân Bắc Cộng cả tuần lễ vẫn chưa thể tiến lên đồi, chiếm hang để tiêu diệt địch.

Vào lúc đó thì Đại Tá Micheal Healey, Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 5 Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ, đáo trực thăng xuống thăm Trung Tá Tất. Là “bồ bịch” lâu năm với nhau trong Lực Lượng Đặc Biệt, Đại Tá Healey muốn tăng phái quân của ông ta cho Trung Tá Tất “đánh chơi một trận”, trở thành nhân vật đầu tiên chiếm được hang Tức Chụp. Lực lượng tăng phái của Đại Tá Healey là một Liên Đoàn Biệt Kích Quân Mike Force Tổng Trừ Bị gồm 3 Tiểu Đoàn, mỗi Tiểu Đoàn tham chiến tới 700 quân được trang bị “tới tận răng”, do Thiếu Tá Trần Kim Đại chỉ huy ((sau này là Đại Tá Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 1 Biệt Động Quân). Là đơn vị thiện chiến, có kinh nghiệm chiến trường, nhất là đang sung sức, thèm lâm trận.

Hai bên Phạm Duy Tất – Micheal Healey bèn thỏa thuận lập kế hoạch mới, dàn đội hình hàng ngang mà tiến. Tiểu Đoàn dàn hàng ngang phía trước có Không quân yểm trợ, trải bom Napalm, binh sĩ tiến lên phải nhìn thấy nhau, chiếm từng tảng đá một, không được bỏ trống khoảng nào để cho Việt Cộng có thể len lỏi qua. Chiếm tới đâu thì “ bàn giao đá” lại cho Tiểu đoàn phía sau chiếm lĩnh vị trí, không cho quân Bắc Cộng luồn lách bọc ra phía sau bắn vào lưng quân ta.Tiểu Đoàn sau cùng có nhiệm vụ làm an ninh, tiếp tế, tản thương. Cứ như thế Biệt Kích Quân đã đẩy lui quân Việt Cộng vào hang, chiếm toàn bộ hòn núi không bỏ sót một tảng đá, ngóc ngách nào. Dự tính lúc đó là chừa một khoảng trống phẳng trước miệng hang để cho chúng có một “lối thoát ”(giăng bẫy chận bắt lỏng). Cuộc chiến tới đây đã kéo dài một tuần lễ. Cuối cùng, Biệt kích Quân được lệnh chiếm luôn khoảng phẳng trước miệng hang. Quân Việt Cộng bên trong không thể nhô ra bắn vào quân ta, nhưng ngược lại quân ta cũng không thể xông lên tiến vào hang.

Hai bên ghìm nhau như vậy trong một ngày trời thì viên Cố Vấn Mỹ của Thiếu Tá Trần Kim Đại đã nản.Trời sẫm tối, Trung Tá Tất lên thăm Thiếu Tá Đại đang đặt Bộ Chỉ Huy ở...dưới gầm cầu, cách miệng hang chừng 300 thuớc. Ông Đại với lối chọn địa điểm đóng Bộ Chỉ Huy kiểu này nên khi lên Trung Tá thì anh em dưới quyền tặng luôn cho biệt hiệu “Anh Năm Ruộng”, tức ông quan năm chuyên đóng ngoài ruộng. Thiếu Tá Đại cho Trung Tá Tất biết ý nghĩ của Cố Vấn Mỹ, đòi rút quân vào sáng hôm sau. Nghe tin, Trung Tá Tất đâm hoảng, bao nhiêu công sức đã đổ vào, không lẽ thành “dã tràng xe cát biển Đông”? Trung Tá Tất bàn riêng với Thiếu Tá Đại, đêm nay anh cứ làm “vầy nè vầy nè”...Ông Tất kể, hổm rày cứ đánh theo kiểu quy ước mãi không được, bây giờ tôi quyết định chuyển sang lối đánh kiểu “du kích trị du kích” của Lực Lượng Đặc Biệt!

Đêm đó Thiếu Tá Đại chia Biệt Kích Quân thành nhiều toán nhỏ, trang bị toàn lựu đạn, không súng ống chi cả, lợi dụng lúc Việt Cộng đang mệt mỏi, đang ngủ, bò từ từ lên sát miệng hang tung lựu đạn tới tấp vào hang, càng nhiều càng tốt, và xúm nhau hô xung phong cho thiệt to. Tờ mờ sáng, ông Đại gọi cho ông Tất báo cáo, tôi đã lọt vào trong hang rồi, tụi nó “ăn” lựu đạn máu me tùm lum, thần “Châu Kem” chắc chắn đã được mời “quy tiên” luôn rồi! Đây là lần đầu tiên quân mình đặt chân được vào hang Tức Chụp. Nó quá to, mát mẻ, ngoài sự kiên cố còn có một dòng suối nước ngọt ngào mát rượi chảy quanh năm suốt tháng. Súng – đạn – thuốc men – lương khô chất đầy ắp. Chính Việt Cộng khoe rằng họ vẫn dùng nó làm hội trường rất an toàn, tiện nghi, dư sức chứa 150 đảng viên về tham dự. Sẵn trớn, Trung Tá Tất, Thiếu Tá Đại dẫn quân sang “chơi luôn” Núi Két, ngọn núi thấp nằm cạnh khoảng giữa con đường đất (độc đạo cho xe cộ) nối liền Châu Đốc – Chi Lăng. Dân chúng mừng quá trời quá đất, và kể từ đó người dân quanh Chợ Nhà Bàng mới có thể yên ổn “mần ăn”. Toàn vùng Thất Sơn không còn bóng dáng Việt Cộng, dân chúng tha hồ đi lại đêm ngày không còn lo sợ phục kích, gài mìn trên đường nữa. Ông Tất về trình diện, báo cáo với Tướng Thanh, ông Thanh liền nói đề nghị cho ông Tất lên Đại Tá. Rất tiếc, lúc đó Trung Tá Tất chỉ mới nhiệm chức, chỉ xin huy chương thôi.

Tướng Nguyễn Viết Thanh nghe tin cũng mừng không thua gì dân chúng, tháp tùng phái đoàn Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa bay liền vào Thất Sơn, nhưng người đứng ra thuyết trình trận chiến lại là...Đại Tá Võ Hữu Hạnh, Tư Lệnh Biệt Khu 44. Tới đây thì tác giả há hốc nhìn Tướng Tất, trời đất, vừa phải thôi nghen. Nhưng ổng bình thản lắc đầu nói, không sao đâu mà. Tướng Tất kể, ông ngồi nghe thuyết trình mà cứ thấy Đại Tướng Cao Văn Viên tủm tỉm cười nhìn qua Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, còn Tướng Thanh thì cứ nhìn vào Trung Tá Tất lắc đầu. Cái “Không sao” của Trung Tá Tất là việc ngay sau đó thì Đại Tá Phạm Văn Phú đã về thay Đại Tá Võ Hữu Hạnh làm Tư Lệnh Biệt Khu 44. Trận Cô Tô vừa xong nhưng chưa chấm dứt... Chỉ là màn mở đầu thực hiện quan niệm phòng thủ biên giới và dùng quân trong phạm vi mình có sao cho hữu hiệu của Trung Tá Phạm Duy Tất. Vì vậy, từ ngày ông Tất tới Vùng 4 cho đến lúc ông ra đi, tình hình biên giới Việt – Miên đã từng bước thay đổi trông rất rõ, các vị Tư Lệnh Quân Đoàn IV và Tư Lệnh Biệt Khu đã không còn phải lo lắng nhiều về vấn đề địch xâm nhập.

Trận Rừng Tràm Trà Tiên.

Được gắn huy chương nhưng đồng thời Trung Tá Tất cũng được Tư Lệnh Quân Đoàn IV gắn thêm cho một tin tình báo mới toanh: Đoàn xâm nhập lớn của Cộng Sản gồm 1 Tiểu Đoàn Đặc Công và 1 Tiểu Đoàn Phòng Không, gọi chung là Đơn vị G16, đang từ Vùng 3 di chuyển xuống Vùng 4. Trung Tá Tất lật đật bay trở lại Thất Sơn. Sáng sớm đang ở căn cứ B20 Lực Lượng Đặc Biệt của Thiếu Tá Ngô Hữu Âu tại Chi Lăng thì trực thăng của Đại Tá Phạm Văn Phú, tân Tư Lệnh Biệt Khu 44 cũng đáp xuống. Chỉ vừa xong màn tay bắt mặt mừng ông Phú đã lập tức yêu cầu ông Tất phải truy lùng cho bằng được tung tích của thằng G16. Từ chức vụ Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Lực Lượng Đặc Biệt Vùng, không có nhiệm vụ tác chiến, Trung Tá Phạm Duy Tất đã tự đặt mình vào vai trò chỉ huy một đơn vị có quân nhiều (như một đại đơn vị), chấp nhận phối hợp chặt chẽ với Biệt Khu 44 để thực hành quan niệm mới của mình.

Trung Tá Tất thấy đây là một cơ hội tốt, dãy Thất Sơn đã không còn là nơi trú chân của các đơn vị xâm nhập Bắc Cộng nữa, nếu địa điểm cuối cùng họ muốn tới là mật khu U Minh thì chỉ còn một con đường duy nhất Trung Tá Tất đã “chừa lại” cho họ là chui luôn vào Rừng Tràm Trà Tiên sau khi đã vượt qua con kinh Vĩnh Tế (khu vực Trại Vĩnh Gia). Lệnh của Trung Tá Tất: Thiếu Tá Âu phải ra lệnh lập tức cho Trại Vĩnh Gia tung ngay nhiều toán phục kích nằm đợi. Thiếu Tá Từ Hải Phượng cho Liên Đoàn B19 Tiếp Ứng ứng trực. Chính cá nhân ông thì liên lạc với Cố Vấn Mỹ yêu cầu chuẩn bị sẵn sàng yểm trợ Không Quân. Hai ngày sau, nửa đêm ở Cần Thơ Trung Tá Tất nhận tin cấp báo: Quân phục kích của Trại Vĩnh Gia đã chạm súng với một toán quân lớn nói toàn tiếng Bắc. Ông ta ra lệnh phải bám chắc trận địa, nhất định không nhả toán nói tiếng Bắc ra, đưa thêm quân tăng cường chận ngang kinh Vĩnh Tế, chẳng những vậy, sẽ có thêm quân tăng cường khác được đưa tới quyết bám đánh tới cùng.

Đơn vị Cộng Sản này vẫn coi thường, như thường lệ, cho rằng đã vượt qua được quân trú phòng là an toàn di chuyển, không cần phải gấp gáp. Hơn nữa Rừng Tràm Trà Tiên sình lầy, đơn vị của họ lại đông, di chuyển tập trung không thể đi nhanh được. Giữa bầu trời tờ mờ sáng, đoàn trực thăng của Trung Tá Tất gồm cả trực thăng chuyển quân và trực thăng võ trang yểm trợ, xoành xoạch bay về hướng Thất Sơn, nơi Thiếu Tá Âu, Chỉ Huy Trưởng B20 đang đi tới đi lui chờ đợi. Thiếu Tá Âu trình bày, đúng y chang là thằng em đã vượt Trại Vĩnh Gia, lọt vào được Rừng Tràm Trà Tiên nhưng đã đụng quân phục kích và vì sình lầy nên chỉ loay hoay chưa đi xa, cũng không dám đâm vào dãy Thất Sơn vì núi Cô Tô đã lọt vào tay quân Việt Nam Cộng Hòa. Không kịp gọi báo cáo với Đại Tá Phạm Văn Phú, Trung Tá Tất lập tức thảy một Tiểu Đoàn Biệt Kích Quân Tiếp Ứng xuống phía Nam Rừng Tràm Trà Tiên, nơi đây là một khu vực khô ráo. Đồng thời ra lệnh toàn quân Trại Vĩnh Gia xuất trại dàn trận ở phía Bắc nhất quyết không cho đơn vị G16 CSBV có cơ hội rút ngược về đất Miên. Hai chiếc trực thăng LOH (loại giống như con nòng nọc) được lệnh bay sát ngọn, thổi rạp những cây tràm xuống đồng thời thả lựu đạn khói màu đánh dấu, sau đó là các phi đoàn Cobra xạ kích, bắn rocket, kế đến là các phi đoàn oanh tạc liên tiếp ập tới. Phía dưới G16 chỉ còn biết trân mình chịu trận.

Rừng Tràm Trà Tiên rộng lớn, cây tràm thấp, quân CSBV phân tán ra trốn tránh nhưng không thể thoát khỏi sự tìm kiếm của hai trực thăng LOH. Trung Tá Tất quyết định không cho quân bộ vào xáp chiến vì không quân hữu hiệu hơn, lại tránh được tổn thất. Suốt một ngày không quân quân thảo không ngừng nghỉ. Ngày hôm sau lại tiếp tục lùng sục, oanh tạc, xạ kích. Chuẩn Tướng Tất bây giờ đã tuổi 80, chớp chớp mắt khi kể đến đây, giờ nghĩ lại sao chiến tranh lại tàn nhẫn, tàn khốc quá, 2 chiếc nòng nọc liên tục báo cáo xác người phía dưới nổi lềnh bềnh, chỗ nào cũng thấy, súng ống vương vãi khắp mọi nơi.Ông Tất lắc đầu, bấy giờ mình quá hăng, nhất quyết không cho hai lực lượng của mình ở hai phía Bắc – Nam nhả gọng kìm ra.

Hệ thống truyền tin của Lực Lượng Đặc Biệt Việt – Mỹ hoạt động rất nhanh chóng. Chỉ sang ngày hôm sau Đại Tá Micheal Healey đã nhận được tin, ông ta xách máy bay bay một mạch tới Thất Sơn kiếm ông Tất. Trong lúc Biệt kích Quân được tung vào thu dọn chiến trường, Đại Tá Micheal Healey lên trực thăng C&C (chỉ huy) của Trung Tá Tất bay phía trên quan sát. Phía 2 chiếc LOH vẫn tiếp tục lùng sục, chiếc L-19 vẫn tiếp tục hướng dẫn các phi tuần oanh tạc nếu tìm ra dấu tích địch. (Sau này, Healey thăng cấp Thiếu Tướng, Chỉ Huy Trưởng Trường John Kennedy Institude For Special Warfare ở Hoa Kỳ). Chuẩn Tướng Tất nói, không hiểu lúc đó Healey nghĩ gì, riêng ông nhìn xuống phía dưới im lìm không một chuyển động sao mà thê lương quá, một ý nghĩ chợt bật lên... ôi, họ cũng là người Việt Nam như mình... Nhưng chiến tranh mà, sao CSBV đang tâm đẩy thanh niên Việt Nam vào đây “sinh Bắc tử Nam”? Còn phía mình phục vụ đâu phải là phía gây chiến.

Hai chiếc LOH chuyển hướng, quần sang khu núi Cô Tô, theo linh tính “nghề” Lực Lượng Đặc Biệt, xem có đám quân nào cố sống chết chạy thoát sang đấy trong đêm không? Đúng như dự đoán, một toán thuộc G-16 đã chạy dạt được sang cuối phía Nam ngọn núi, họ đã đào xong hầm trú ẩn, tự tin (hoặc cùng đường) bắn luôn lên trực thăng. Hai chiếc LOH đã dùng đại liên, rồi cả lựu đạn tộng xuống, khi 2 chiếc này phải bay đi nhận thêm nhiên liệu ở phi trường Chi Lăng thì trực thăng C&C của Trung Tá Tất và Đại Tá Healey vào vùng ném lựu đạn khói cho L-19 hướng dẫn các phi tuần, vì phi công L-19 không thể bay sát xuống quan sát được. Tiếng súng đã hoàn toàn im bặt, hâm hố trốc lên hết. Trận chiến đã thật sự tàn. Trước đó không bao lâu, Trung Tá Tất suýt mất mạng một lần nữa. Lúc chiếc C&C của ông Tất trở về phi trường Chi Lăng đổ xăng, ông Tất thừa dịp nhảy xuống kiếm chỗ giải tỏa cái bụng đầy ắp nước, khi trở lại thì thấy một anh chàng Mỹ xách máy PRC-25 chui vào trước. Đằng sau phi công là hai ghế đâu lưng vào nhau, dành cho cấp chỉ huy ngồi nhìn ra ngang hông rất dễ quan sát trận địa phía dưới khi phi công cho trực thăng lắc nghiêng sang một bên. Anh chàng này là Ban 3 của Toán B Mỹ, hăng quá cũng muốn nhào lên trực thăng bay đi xem. Vốn quen lầm lỳ, ông Tất bỏ mặc, lên ngồi hàng ghế ngang phía sau. Lúc toán tàn quân G16 ở cuối phía Nam núi Cô Tô khai hỏa, một tràng AK ghim thẳng vào anh chàng Mỹ này, 1 viên chui đúng vào tim. Chở người chết thay mình về Bệnh viện Châu Đốc, bay trở lại thì có 1 chiếc L-19 bất ngờ rớt xuống Rừng Tràm Trà Tiên, không rõ bị hư máy hay bị bắn. Nhưng chiếc C&C của tôi đã kịp thời nhào xuống cứu thoát viên phi công.

Chuẩn Tướng Tất kể xong, lắc đầu chơi một câu lính Cộng Hòa vẫn thường dùng để tự trấn an mình, “Ôi, đạn nó... tránh mình, chớ mình làm sao mà tránh nó, hả Đỗ Sơn”? Tác giả chỉ biết cười trừ, đâu có câu trả lời nào “chỉnh” được cái câu “huề tiền” đó. Chỉ có anh Đại Úy Mỹ này là người duy nhất tử trận. Vài tháng sau Phòng 2 Quân Đoàn 4 cho biết 1 tù binh đã khai đơn vị G-16 bị tiêu diệt hoàn toàn, chỉ còn lại 7 người sống sót trong đó đã có 4 bị thương. Phía Mỹ trao tặng Trung Tá Tất huy chương Silver Star. Chiến thắng lớn, thật lớn nên đích thân Phó Tổng Thống Trần Văn Hương bay xuống Cao Lãnh, nơi đặt Bộ Tư lệnh Biệt Khu 44, cũng là nơi đang triển lãm hàng đống đống cao hơi đầu người số vũ khí tịch thu được trong trận Rừng Tràm Trà Tiên, kể cả đại liên phòng không, đủ thứ đại liên, súng cối 82 ly...Có Tướng Nguyễn Viết Thanh, Tư Lệnh Quân Đoàn IV tháp tùng.

Không biết đã dự định trước hay vì choáng váng trước chiến thắng quá lớn, Cụ Hương đột nhiên ra lệnh gắn sao Chuẩn Tướng cho Đại Tá Phạm Văn Phú.Sao đâu giữa lúc này? Tướng Thanh như sợ mất dịp thăng cấp đặc cách của thuộc cấp, vội vã lột lon của mình là 2 sao, bẻ đôi ra giao cho Cụ Hương gắn lên hai bên cổ áo tân Chuẩn Tướng Phạm Văn Phú. Dĩ nhiên ông Tất cũng mừng rơn lên cho người bạn nối khố của mình. Nhưng kể tới đây thì đột nhiên Chuẩn Tướng Tất đâm ra... dị đoan ngang xương, ông trầm ngâm có lẽ vì cái vụ “bẻ sao” là... điểm rụng sao, nên Tướng Thanh không bao lâu thì tử trận giữa lúc chỉ huy hành quân. Tác giả hỏi ông Tất: “Nếu Tướng Thanh chưa mất thì tương lai của Trung Tá Tất sẽ như thế nào? Có thể được thăng cấp, thay ông Phú sau khi ổng rời Biệt Khu 44 đi làm Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt không? Ông Tất chép miệng, trả lời không do dự: Tướng Thanh chứng kiến những cuộc thắng trận của tôi, ổng đang ưu ái tôi, tôi thường xuyên gặp ổng trong thời kỳ này. Những chuyện Đỗ Sơn hỏi rất có khả năng xảy tới lắm.

Tới đây, tác giả phải nhìn nhận một điều: Tác giả vốn phục vụ 3 năm liền ở Thất Sơn, quen địa thế, lại làm việc với Ban 3 nên có cơ hội theo dõi diễn tiến những trận đánh đã xảy ra. nhưng theo dõi diễn tiến này chỉ là theo dõi suông, mà không nhìn ra điều gì, chỉ thấy biết sau khi nghe Tướng Tất kể chuyện: Mở ra trận Cô Tô là nhằm chuẩn bị cho Trận Rừng Tràm Trà Tiên, là lùa địch vào chiến trường do Trung Tá Tất chọn sẵn. Lệnh cho quân Trại Vĩnh Gia phải quyết bám sát địch là tạo cho địch một bất ngờ lớn. Vì trước đây theo thói quen các tổ phục kích của trại mỗi khi chạm địch, diệt được vài tên, lấy được vài khẩu súng đã cho là lập được chiến công rồi rút về báo cáo tin tức, nghỉ ngơi, chưa bao giờ bám theo địch đánh tiếp hay truy kích tiếp. Ở trận này mọi chuyện ngược lại hết, còn bung quân ra thêm để chận địch khiến họ không dám nghĩ tới chuyện rút ngược về đất Miên.

Sở dĩ có thắng lớn là do đã tạo được sự bất ngờ đối với lực lượng xâm nhập G16 CSBV. Cắt đứt con đường xâm nhập an toàn nhất của quân Bắc Cộng (dãy Thất Sơn), đổ thêm quân cấp kỳ, chận họ ở cả hai đầu và tạo ra một mặt trận tiêu diệt là những sự kiện họ không thể ngờ tới. Ông Tất là một Sĩ quan thiện chiến vừa là một Sĩ quan rất giỏi về tham mưu! Đồng thời tác giả cũng nhớ lại nhận định chung của phía Sĩ quan cao cấp Mỹ tham chiến Việt Nam trong khoảng thời gian này: lúc các Sĩ quan VNCH cấp Trung Đoàn Trưởng đã gia nhập được vào hàng ngũ chỉ huy cao cấp quân đội thì chiến cuộc sẽ thay đổi theo chiều hướng thuận lợi về phía họ. Chẳng bao lâu sau, Trung Tá Phạm Duy Tất vinh thăng Đại Tá.