← Quay lại trang sách

Trận Mộc Hóa

Thời gian cuối năm 1969, Phòng 2 Quân Đoàn IV báo tin có một Sư Đoàn CSBV đang lảng vãng bên phần đất Miên đối diện với Trại Thạnh Trị, có thể chuẩn bị xâm nhập. Trung Tá Tất ra lệnh cho Thiếu Tá Vũ Dương Kiểm, Chỉ Huy Trưởng B18 Lực Lượng Đặc Biệt tại Mộc Hóa phải tích cực theo dõi, tổ chức phục kích ngày đêm.

Đường xâm nhập của Cộng Sản qua vùng này để đưa quân và vũ khí xuống Tiền Giang và không giống như đường xâm nhập xuống mật khu U Minh. Con đường này dân cư nhiều, địa thế tuy khô ráo nhưng phải di chuyển rất xa và không có những trạm dừng quân an toàn. Họ chỉ lợi dụng những con kinh rậm rạp để ẩn náu, khi họ đã lọt qua được biên giới và di chuyển thì bên ta cũng mất nhiều thời gian để phát hiện được họ đang ở khúc sông, rạch vùng nào đó...Tết Âm Lịch 1970, Chuẩn Tướng Tất kể, ông đã mang gia đình từ Sài Gòn xuống Cần Thơ rồi từ Cần Thơ xuống Chi Lăng, Thất Sơn, cùng ăn Tết. Nhưng chưa đến giờ giao thừa thì Thiếu Tá Kiểm từ Mộc Hóa gọi qua báo cáo đơn vị của ông ta đang đụng địch. Kể từ sau vụ Việt Cộng lợi dụng hưu chiến tấn công khắp Miền Nam ngay trong 3 ngày Tết Mậu Thân, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa mỗi khi Tết đến chỉ ra lệnh cho Quân đội hưu chiến 1 ngày Mùng 1 mà thôi. Nghe ông Kiểm báo cáo, ông Tất biết ngay lực lượng CSBV lại lợi dụng hưu chiến để xâm nhập. Vì Phòng 2 Quân Đoàn từng cho biết lực lượng này là cấp Sư Đoàn 88 CSBV, thật ra, đó là cấp Trung Đoàn, Trung Đoàn 88 thuộc Sư Đoàn 1 CSBV.

Đây là một Đại đơn vị khác của Cộng sản muốn xâm nhập vào đồng bằng sông Cửu Long, nối tiếp Sư Đoàn 320 CSBV ở Vùng 2 Chiến Thuật, Sư Đoàn 7 CSBV ở Vùng 3. Nay đến lượt Vùng 4. Thiếu Tá Kiểm cho biết những tổ phục kích của ông đã tiêu diệt được một số quân Bắc Cộng, nhưng đơn vị của họ khá đông, ông xin rút quân. Ông Tất giữa đêm giao thừa lên trực thăng bay ngay sang Mộc Hóa, gia đình thì phải về lại Cần Thơ ngày hôm sau, thế là mất một dịp ăn Tết sum họp với vợ con. Vào đúng ngày hưu chiến, Trung Tá Tất ra lệnh cho Thiếu Tá Kiểm vẫn cứ đánh, phải bám trận địa, vì địch vi phạm lệnh hưu chiến trước, họ chuyển quân xâm nhập ngay trong ngày Mùng Một. Trung Tá Tất gọi Cố Vấn Mỹ yêu cầu xin trực thăng đổ quân, Cố Vấn Mỹ của ông gọi, nhưng phía Cố Vấn Quân Đoàn từ chối: phía Mỹ chỉ có thể tham chiến sau 12 giờ đêm Mùng Một, lúc lệnh hưu chiến không còn hiệu lực nữa. Biết không thể thuyết phục được để đổ quân tham chiến, nhưng Ông Tất vẫn quyết định không bỏ qua để cho đơn vị Cộng sản rời Mộc Hóa một cách an toàn. Ông lại bàn với Cố Vấn của mình, yêu cầu cho đổ quân tăng cường xa về phía Nam Mộc Hóa chận không cho đơn vị địch vượt qua. Cố Vấn của Ông Tất nghe hợp lý (không vi phạm lệnh hưu chiến), gọi lại cho Tướng George Eckhardt, Cố Vấn Trưởng Quân Đoàn IV, ông này chấp thuận. Tuy vậy cũng phải sau 12 giờ đêm phía Mỹ mới cung cấp trực thăng đổ quân.

Quan niệm của Ông Tất lúc bấy giờ là phải cơ động hóa quân các Trại (ngang với cấp Tiểu Đoàn) để họ làm quen với chiến trường lớn hơn, huấn luyện cho họ có khả năng đánh cấp Tiểu Đoàn rồi dần dà đánh cấp Liên Đoàn. Thiếu Tá Kiểm dùng quân Trại Bình Thạnh Thôn. Trưởng Trại là Thiếu Tá Tạ Thành Lộc, Ông Tất vốn rất thích lối đánh giặc của Thiếu Tá Lộc, từ lâu đã đặt biệt danh ông này là Paul Húc. Lúc này lực lượng xâm nhập của địch, mà phía mình vẫn đinh ninh là cấp Sư Đoàn, đã vượt qua khỏi khu vực Mộc Hóa, nương theo con rạch phía Tây thị xã. Sông không rộng, hai bên bờ cây cối rậm rạp nhưng không cao, bên ngoài là đồng ruộng, quân Bắc Cộng cứ men theo rặng cây dọc bờ sông để đi. Đúng 12 giờ 1 phút (không biết đồng hồ Trung Tá Tất có chỉnh đúng theo giờ quốc tế không?), một Đại đội được trực thăng bắt đầu đổ quân. Ông Tất quyết định đổ quân xa về phía Nam chận địch, chờ sáng thì bắt đầu tấn công. Cuộc đổ quân ban đêm, Ông Tất kể, cảnh tượng thật là đẹp vô cùng, và cũng là lần đầu tiên Trung Tá Tất được chứng kiến về sự phối hợp hành quân trực thăng vận đêm vô cùng chặt chẽ. Trực thăng chia thành nhiều tầng trên không trung. Hai chiếc trực thăng trên tầng cao nhất liên tục thả hỏa châu soi sáng bãi đáp và mục tiêu. Hai chiếc khác ở tầng thấp hơn thì xử dụng đèn pha dưới bụng chiếu sáng. Các trực thăng võ trang ở tầng thứ ba quần thảo, xạ kích, chuẩn bị bãi đáp. Tầng cuối là đoàn trực thăng đổ quân xuống. Phải mất 3 “lift” mới đổ xong quân Trại Bình Thạnh Thôn. Bãi đáp rất trống trải nhưng không phải là đất khô ráo. Biệt Kích Quân Bình Thạnh Thôn đã phải chịu ướt đẫm suốt đêm dàn đội hình chận địch.

Chuẩn Tướng Tất giải thích, bây giờ vẫn đinh ninh địch là cấp Sư Đoàn nhưng tôi vẫn quyết định đánh là vì: 1/ Tin vào phản ứng nhanh chóng của phía Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ. 2/ Tin rằng lực lượng xâm nhập không có ý định chiến đấu. Và tôi cũng nghĩ đến cơ cấu chỉ huy của họ. Thủ Trưởng và Chính Ủy của họ thì Thủ Trưởng chỉ huy tác chiến, nhưng quyền quyết định lại nằm trong tay Chính Ủy. Nói chung ở chiến trường miền Nam, CSBV đa số trường hợp là ở trong thế chọn chiến trường, họ nghiên cứu địa hình trước, chuẩn bị trận địa, phối trí quân cho học tập cách chiến đấu trước, rồi mới chọc cho quân Việt Nam Cộng Hòa vào. Trường hợp muốn tấn công một cơ sở của chúng ta, họ dành thời gian điều nghiên kỹ lưỡng trước, rồi lập sa bàn, học tập chiến đấu. Chính Ủy chấp thuận và phân chia nhiệm vụ thì các Thủ Trưởng cứ vậy mà thi hành, không quyết dịnh thay đổi được, không xử lý ngay được khi tình huống đổi khác. Đang chuyển quân thì họ không thể triển khai đội hình khác với lệnh đã ban ra. Hơn nữa di chuyển dọc kênh rạch thì chẳng thể nào có đội hình mà triển khai.

Chỉ có điều trong trận này, vì cứ tưởng địch là cấp Sư Đoàn quá đông so với lực lượng cơ hữu của B18 Lực Lượng Đặc Biệt, nên Ông Tất đành chịu không cho tổ chức dàn quân ở mặt Bắc nhằm ngăn không cho địch rút ngược về đất Miên. Khác với Trận Rừng Tràm Trà Tiên.

Trời vừa sáng Trung Tá Tất ra lệnh tấn công, cắt khúc sông thành những đoạn nhỏ đánh vào đối phương. Quả nhiên họ không sẵn sàng chiến đấu, bị chia cắt nên các Thủ Trưởng không thể phối hợp chiến đấu, nên đã nhanh chóng tan rã trước lối tấn công lăn xả của Biệt Kích Quân và toán trực thăng thì xạ kích không ngừng. Theo dõi cuộc chiến quá ngoạn mục, lực lượng Địa Phương Quân tỉnh Kiến Tường cũng hăng máu lên, gọi máy xin nhập trận tiếp chiến, chính họ cũng đã tịch thu được vài chục vũ khí địch, kể cả trung liên. Một bộ phận của CSBV chạy ngược được về đất Miên, một bộ phận nhỏ khác chạy về vùng Kinh Quận 2, rồi cũng bị Biệt Kích Quân Trại Kinh Quận 2 dưới quyền Đại Úy Nguyễn Ngọc Giang và Địa Phương Quân tại đây chận đánh tan tác.

Lại thêm một chiến thắng lớn.

Một buổi trưa thứ Bảy cuối tháng Tám 2013, tác giả tìm gặp Thiếu Tá “Paul Húc” Tạ Thành Lộc tại Thành Phố Garden Grove, California. Lâu ngày lắm hai anh em chúng tôi mới có dịp cùng nhau ôn lại chuyện cũ, khoảng thời gian còn trai trẻ. Bây giờ Thiếu Tá Lộc đã vào tuổi già, nhưng vẫn còn phong độ của “Paul Húc”, một tay chơi Nam Bộ nhưng cũng là một tay đánh giặc khét tiếng, một Tiểu Đoàn Trưởng tự tay bò ném lựu đạn vào địch quân.

Thiếu Tá Lộc: Đang cùng anh em ăn Tết trong Trại Bình Thạnh Thôn, nghe ông Tất bay xuống Mộc Hóa là tôi biết coi bộ cái vụ ăn Tết hết còn ngon trớn rồi. Thiệt vậy, đâu có lâu lắc gì thì Thiếu Tá Kiểm Chỉ Huy Trưởng B18 gọi máy kêu tôi phải chuẩn bị sẵn sàng, còn dặn là sắp đánh một trận lớn. Các Sếp chúc Tết kiểu này, tôi nghĩ nguyên cả năm Trại Bình Thạnh Thôn sẽ được “lội” mệt xỉu luôn.

Tác giả: Ông Tất kể đêm Mùng Một Tết anh và quân nằm chơi dưới nước chờ sáng hả anh Lộc?

Thiếu Tá Lộc(cười):Còn gì nữa, Việt Cộng nó hại mình, nó lợi dụng hưu chiến nên mình bị thảy xuống phía Nam nằm chận, Ông Tất sợ tụi nó chạy mất. Tới sáng sớm thì trực thăng bốc tụi tôi một lần nữa từ phía Nam đổ thẳng xuống khu Bằng Lăng – Phụng Thớt. Kiểu đổ quân của Ông Tất thì Đỗ Sơn rành quá rồi, quân của tôi vừa nhảy xuống trực thăng thì chỉ cách Việt Cộng chừng 30 thước (đưa tay chỉ...tấm vách tường trước mặt). Vậy mà trực thăng không bị bắn rớt mới tài, nói nào ngay đám trực thăng võ trang bắn che cho quân mình cũng nổ dữ dằn lắm. Con rạch thì cái ngang cái dọc, tụi nó hết đường chạy. Nghe báo cáo có mấy binh sĩ vừa xuống là bị đạn trúng thương liền, vì tiếng trực thăng ồn quá đâu có nghe nổ từ đâu. Cố Vấn của tôi gọi lên trực thăng cự nự tụi Phi công “Tây”, sao tụi bây bắn xuống trúng lính tao? Tụi “Tây” cự lại rùm beng, VC bắn quân mày chứ tụi tao đâu có... “crazy”. Như thường lệ, tôi vác lựu đạn chạy dẫn đầu, quân Bình Thạnh Thôn ào ào theo sau, la hét rân trời, bắn tới tấp vào đám địch quân đang núp trong lùm bụi cạnh bờ rạch.

Tác giả: Tại sao anh phải cầm lựu đạn dẫn đầu?

Thiếu Tá Lộc(cười rất đã):Ừa, cái này là lính Bình Thạnh Thôn quen thấy vậy rồi, tôi mà quên thì mấy thằng em... mất hứng liền.Vậy đó. Như vụ Núi Cọp sau này bên Rạch Giá, tôi cầm lựu đạn dẫn đầu nhào xuống khỏi trực thăng thì Việt Cộng nó chần dần trước mặt rồi, tôi vừa tung trái lựu đạn đầu tiên thì nó ria liền vào ruột tôi một loạt AK nhưng...hổng hề hấn gì, lòi chút ruột thôi, lính tôi lôi ra phía sau tản thương nhưng lúc đó tụi nó bắn rát quá đâu xuống được. May phước lúc đưa về bịnh viện mấy cha bác sĩ nói trễ chừng nửa tiếng thì tôi theo ông bà rồi. (Lại cười hề hề). Mấy thằng em tôi đâu có vừa gì, bắn thì bắn còn tung lựu đạn thì cứ tung. Kết thúc thật đẹp, chưa tới một tiếng đồng hồ.

Tác giả: Vậy kết quả trận Mộc Hóa thì sao?

Thiếu Tá Lộc: Phải nói đây là một trận để đời của Trại Bình Thạnh Thôn. Đánh cấp Tiểu Đoàn nha, đụng nguyên một Trung Đoàn, chừng 4 tiếng sau thì phía Việt Cộng im tiếng súng, để lại chừng 50 xác chết, nhưng vũ khí mình thu được hơn 100 đủ loại, chắc một mớ xác chìm xuống rạch cũng hổng chừng. Quên nữa, gần cuối trận thì Địa Phương Quân xin ông Tất nhập trận, ổng OK, vậy mà họ cũng tịch thu được mười mấy khẩu chớ đâu có ít.

Tác giả: Theo anh thì trận Mộc Hóa này có ảnh hưởng gì đến các Trại Biên Phòng của mình?

Thiếu Tá Lộc:Có chớ sao không? Quân Bình Thạnh Thôn tự tin hơn, mấy Trại khác cũng vậy. Xưa nay tụi tôi chuyên làm ăn lẻ, phục kích đêm gặp tụi nó vừa sức thì nổ kiếm chút cháo, nó đông hơn thì mình lặng lẽ bò về Trại gọi báo cáo liền cho mấy lực lượng lớn hơn chận đánh tụi nó. Tôi thì chỉ tiếc lúc đó là hưu chiến ông Tất phải làm gấp, chớ nếu ổng có thì giờ kiếm thêm được một mớ quân chận ở phía Bắc đường rút về biên giới thì còn lâu tụi Sư Đoàn 1 mới đủ sức kéo trở lại đánh Mộc Hóa sau này.

Trung Đoàn 88 CSBV đã tưởng rằng có được một đêm và một ngày trong thời gian hưu chiến là đã đủ để di chuyển an toàn đại quân của họ xuống Tiền Giang, không ngờ nguyên tắc phòng thủ đã thay đổi theo lệnh Trung Tá Tất khiến cho đại đơn vị lâm nạn lớn. Nguyên một Trung Đoàn 88 tan nát chỉ bởi 1 Trại Biệt Kích Quân và những đơn vị Địa Phương Quân. Sư Đoàn 1 CSBV nổi khùng lên, sau một thời gian ngắn gom tàn quân, chỉnh đốn lại đơn vị, đã tung toàn lực lượng xuống đánh Mộc Hóa. Khổ cho họ, lần này là Sư Đoàn 7 Việt Nam Cộng Hòa, đích thân Tướng Nguyễn Khoa Nam đưa 2 Trung Đoàn vào Mộc Hóa “trân trọng tiếp kiến” họ. Trung Tá Tất cũng từ Chi Lăng bay đến Mộc Hóa, nhưng Quân Đoàn IV đã phản ứng quá lẹ, Sư Đoàn 1 CSBV vừa vượt qua biên giới thì lúc trời nhá nhem tối Tướng Nam và Sư Đoàn 7 của ông đã có mặt tại sân bay Mộc Hóa, khai triển chiến đấu ngay lập tức. Kết quả trận này y như trận trước: Cộng quân lại phải chạy ngược về đất Miên.

Cuộc chiến Việt Nam đang rẽ vào một khúc ngoặc quan trọng: Việt Nam hóa chiến tranh. năm 1970 Việt Nam Cộng Hòa mở chiến dịch vượt biên truy diệt các Đại đơn vị CSBV, những khu an toàn, kho lương thực tiếp vận của họ trên đất Chùa Tháp. Tướng Đỗ Cao Trí Tư Lệnh Quân Đoàn III và Tướng Nguyễn Viết Thanh Tư Lệnh Quân Đoàn IV đang chuẩn bị đơn vị, tiếp liệu, v.v... Nhiệm vụ của Tướng Trí là san bằng mật khu Mỏ Vẹt, tiến thẳng lên DamBe, Snoul, Chup. Tướng Thanh dẫn 4 Chiến Đoàn Bộ Binh phối hợp Thiết Giáp từ phía Nam đánh lên. nhưng nhân dịp vừa đập cho Sư Đoàn 1 CSBV một trận đích đáng khiến họ phải quay đầu chạy ngược qua bên kia biên giới, Tư Lệnh Quân Đoàn IV Nguyễn Viết Thanh không còn kịp chờ lệnh Bộ Tổng Tham Mưu nữa, cũng không chờ Quân Đoàn III vượt biên đồng bộ, ông xua quân đánh luôn qua Kampuchia. Cái khổ của quân Việt Nam Cộng Hòa khi tiến sang đất Miên đánh địch, không được vào sâu hơn 30 cây số. Không Lực Hoa Kỳ cũng bị hạn chế, chỉ có thể yểm trợ cho quân Việt Nam Cộng Hòa trong phạm vi này mà thôi. Vì vậy các đơn vị Bắc Cộng chỉ cần chạy thoát về hướng Bắc, vượt qua khỏi giới hạn đó, thì kể như họ thoát nạn. Trung Tá Tất gọi “giới hạn 30 cây số” là chủ trương “No Win War”, là trận giặc phía ta không được cho phép thắng!

Hai Quân Đoàn III và IV tiến quân sang Kampuchia là một trận thắng lớn, nhưng đã khiến cho Việt Nam Cộng Hòa mất hai vị Tướng tài. Đầu tháng Năm 1970, ngay trong ngày đầu tiên, chiếc C&C của Tướng Nguyễn Viết Thanh đã bị một trực thăng Cobra đụng phải, ông tử nạn. Mười tháng sau, tháng Hai 1971, vẫn đang chỉ huy cuộc hành quân ngoại biên, Tướng Đỗ Cao Trí cũng tử nạn trực thăng tại tây Ninh. Sau khi Tướng Thanh tử nạn, Tướng Trần Bá Di vẫn bình tĩnh điều động Sư Đoàn 9 BB làm mũi đột phá chính của Quân Đoàn IV, mang lại chiến thắng cho Quân Đoàn. Trung Tá Tất, với 3 chiến thắng lớn liên tiếp, chứng tỏ được khả năng tự chọn chiến trường, khả năng điều quân nhanh chóng, đạt kết quả lớn, dù chỉ là Biệt Kích Quân giới hạn cả về quân số lẫn kinh nghiệm tác chiến. Tướng Nguyễn Viết Thanh chứng kiến và hiểu rõ hơn ai hết. Cái chết của Tướng Thanh không những Quốc gia và Quân đội mất đi một trong những cấp chỉ huy tài giỏi, mà ông Tất còn mất cơ hội riêng của cá nhân mình.

Kể từ lúc về nắm C4 Lực Lượng Đặc Biệt ở Vùng 4 Chiến Thuật, Trung Tá Phạm Duy Tất đã làm xáo trộn, lật tung những con đường quân Bắc Cộng xâm nhập từ đất Miên sang lãnh thổ trách nhiệm thuộc Vùng 4 Chiến Thuật. Hai Trung Đoàn CSBV đã “lãnh búa’ quá nặng ở Rừng Tràm Trà Tiên phía Tây, và Mộc Hóa ở phía Đông. Phía Cộng Sản giờ đây tiến hóa lưỡng nan trong việc chọn đường xâm nhập, đã phải liều lĩnh chọn phía Tây, vì dù sao địa thế ở đó cũng không trống trải như con đường xuyên qua hai tỉnh kiến Phong – Kiến Tường để về Tiền Giang. Đó là lý do vào đầu năm 1972, lúc này tác giả đã về làm Tùy Viên cho Đại Tá Phạm Duy Tất được một thời gian, khi đi bay vẫn thường phát hiện các toán quân chính quy Bắc Cộng di chuyển dọc bờ kinh Vĩnh Tế phía đất Miên, từ hướng Đông sang Tây. Nhưng trước khi đề cập đến trận KamPong Trach 1972, xin nói sơ lược qua về những thay đổi ở Quân Khu 4.

Tướng Nguyễn Viết Thanh tử trận, người về thay ông trong chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn IV là Tướng Ngô Dzu. Ông Tất kể chuyện “ngày xửa ngày xưa”, ông đã quen với ông Ngô Dzu từ khi ông Tướng còn mang lon Trung Úy ngoài Huế, lúc đó ông Tất là một cậu học sinh Trung học. Tướng Ngô Dzu về tiếp nối Tướng Nguyễn Viết Thanh đánh sang Kampuchia. Tướng Phạm Văn Phú thì rời khỏi Biệt Khu 44 đi làm Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt thay Tướng Lam Sơn. Tướng Lam Sơn đã trở về Lực Lượng Đặc Biệt thay thế Tướng Đoàn Văn Quảng, nhưng chỉ giữ được chức vụ không đầy sáu tháng.Nội bộ Lực Lượng Đặc Biệt, anh em đang chờ xem Tướng Phú báo đáp “nợ giang hồ” với Tướng Quảng như thế nào, món nợ bị ông Thiệu lột lon Đại Tá xuống Trung Tá. Rồi anh em cũng rất ngạc nhiên thấy ông Phú ân cần đi thăm ông Quảng, cung cách đối đãi rất thân mật, như không từng có chuyện gì xảy ra. Tướng Quảng tuy không còn là Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt nhưng vì chưa có nhiệm sở mới nên vẫn tiếp tục ở lại Nha Trang. Tác giả hỏi ông Tất, ông xác nhận là đúng như vậy, và nói ông đã học được tính khiêm nhường, nhân ái của ông Phú qua vụ này. Không lâu sau thì Lực Lượng Đặc Biệt giải tán, Tướng Phú đã tìm gặp Đại Tá Tất, hỏi ông Tất có muốn về làm Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt hay không? Đại Tá Tất từ chối, vì thấy cái vô lý, thiếu sáng suốt trong quyết định sẽ giải tán Lực Lượng Đặc Biệt và ông Tất cũng nghĩ rằng ông không thể thuyết phục được Đại Tướng duy trì và cải tổ binh chủng này. Theo Đại Tá Tất, các cấp lãnh đạo quân sự thời bấy giờ hiểu biết rất hạn chế về chiến tranh ngoại lệ, chiến tranh không quy ước, cũng như về tính cách đa dạng, linh hoạt của Lực Lượng Đặc Biệt. Thật ra, hoạt động của Lực Lượng Đặc Biệt không chỉ đơn thuần là hành quân nhảy toán. Vì chỉ quan niệm như vậy, nên sau khi giải tán Lực Lượng Đặc Biệt là Bộ Tổng Tham Mưu gom một số quân nhân thuộc binh chủng này về Nha Kỹ Thuật và lập ra những đơn vị chỉ để nhảy toán. Cũng còn may mắn là Bộ Tổng Tham Mưu đã giữ lại đơn vị Trung Tâm Huấn Luyện và Hành Quân Delta cải biến thành Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù/ Lực Lượng Đặc Biệt. Đại Tá Phan Văn Huấn được duy trì ở chức vụ Liên Đoàn Trưởng, ông đã phải tranh đấu rất cật lực mới có thể giữ lại chiếc mũ xanh Lực Lượng Đặc Biệt cho đơn vị của ông. Thử hỏi, quân nhân của Nha Kỹ Thuật thuộc binh chủng nào với chiếc mũ đỏ của Nhảy Dù? Hay họ vẫn tiếp tục nhận mình là Lực Lượng Đặc Biệt đúng như thực chất của họ, bởi họ sẽ tiếp tục hành quân, hoạt động như Lực Lượng Đặc Biệt trước đây?

Chuyện cần nhắc lại là vào khoảng 1966 –1967, khi còn chỉ huy Trung Tâm Huấn Luyện và Hành Quân Delta, Thiếu Tá Phạm Duy Tất đã cùng Ban Tham Mưu làm bản đề nghị xin biến cải đơn vị thành một Liên Đoàn. Bản đề nghị kèm đầy đủ phúc trình về mục đích thành lập, sơ đồ tổ chức, quân số, cờ, phù hiệu, v.v... Tư Lệnh Đoàn Văn Quảng im lặng không trả lời, chắc chắn cũng không lập bản đề nghị gửi về Bộ Tổng Tham Mưu.Vậy nhưng đến năm 1970 khi Lực Lượng Đặc Biệt giải tán, Trung Tâm Huấn Luyện và Hành Quân Delta cải biến thành Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù/ Lực Lượng Đặc Biệt thì toàn bộ kế hoạch đề nghị trước kia đã được đem ra xử dụng. Kể cả phù hiệu ông Tất đã từng giao cho Trung Úy Vũ Xuân Thông ( sau lên đến cấp Trung Tá) vẽ cũng được đem ra xử dụng cho đến tháng Tư 1975. Tướng Tất có vẻ cay đắng khi thuật lại chuyện này.

Lực Lượng Đặc Biệt giải tán, các trại Lực Lượng Đặc Biệt/Dân Sự Chiến Đấu dọc biên giới được cải tuyển thành những Tiểu Đoàn Biên Phòng. C4 trở thành Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Quân Khu 4, B18 là Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 41 Biệt Động Quân Biên Phòng, B 20 là Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 42. Trung Tá Phạm Duy Tất là Chỉ Huy Trưởng, chỉ huy 2 Biên Phòng nói trên, và Liên Đoàn 4 Biệt Động Quân Tiếp Ứng. B19 Biệt Kích Quân Tiếp Ứng thì bị giải tán. Theo lệnh Tướng Ngô Dzu, Liên Đoàn 41 Biệt Động Quân Biên Phòng được tăng phái cho Thiết Đoàn 16 Kỵ Binh của Trung Tá Hà Mai Việt. Liên Đoàn 42 Biệt Động Quân Biên Phòng từ biên giới đánh lên hướng tỉnh Tà Keo, cắt quốc lộ 4 nối liền Cảng Kompong Som và Thủ đô Phnom Penh.

Liên Đoàn 4 Biệt Động Quân Tiếp Ứng tiến thẳng từ hướng Trại Thạnh Trị lên hướng Bắc.

Quân Bắc Cộng, trước giờ vẫn yên ổn trên đất Miên, thích đóng quân ở các địa điểm khô ráo, thường cũng trống trải, vừa nghe quân Việt Nam Cộng Hòa từ Vùng IV tiến qua là vọt thẳng lên phía Bắc. Chạy cho thiệt nhanh để lọt ra được khỏi vùng 30 cây số tính từ biên giới,là giới hạn của quân Việt Nam Cộng Hòa như đã nói. Vì vậy đụng trận liên miên nhưng chỉ lẻ tẻ, vì các đại đơn vị Bắc Cộng đã rút chạy “siêu tốc”. Tướng Tất kể, quân của tôi theo sông tiến lên hướng Bắc, đã phát hiện ra những thuyền đầy ắp võ khí đang neo tại chỗ. Vì vậy tuy không có đánh lớn, nhưng số vũ khí tịch thu được thì quá lớn. Hết chiến dịch, Tướng Ngô Dzu làm hồ sơ đề nghị Trung Tá thăng cấp Đại Tá. Ông Tất cho biết, lúc bấy giờ điều kiện về huy chương ông dư nhiều lắm, cả về điều kiện chỉ huy đơn vị cũng thừa, nhưng cấp bậc Trung Tá thực thụ của ông còn thiếu 3 tháng mới đủ. Bộ Tổng Tham Mưu quyết định cứ thăng cấp cho ông, dựa vào những chiến công lớn. Ông Tất nói, lúc Tướng Ngô Dzu gắn cấp bậc Đại Tá cho ông, phía Cố Vấn Mỹ giật mình luôn vì nghĩ ông quá trẻ so với cấp bậc mới. Tác giả hỏi, lập chiến công lớn và liên tục như vậy đáng lẽ lúc bấy giờ Chuẩn Tướng phải được lên lon nhanh mới phải chứ? Tướng Tất cười, giải thích: Quân đội mình chủ trương xử dụng lớp Sĩ quan trẻ năng động, nhiều sáng kiến, thích ứng kịp theo sự thay đổi của chiến trường, nhưng cũng phải tuân theo những nguyên tắc, điều kiện; đặc biệt là thăng cấp đặc cách tại mặt trận. Từ Đại Úy trở lên, mỗi cấp đều có 2 trật: nhiệm chức rồi thực thụ. Tôi lên như vậy trong quân đội là đã khá nhanh rồi và cũng không trẻ, tôi thăng cấp Đại Tá lúc đã 37 tuổi. Nếu mỗi chiến công đều lên một cấp thì tôi lên Tướng lâu rồi (cười). Cố Vấn Mỹ của tôi lúc ấy là Trung Tá Bayshore xuất thân West Point, chỉ lên tới Trung Tá là về nhà đuổi gà cho vợ, không thể lên Đại Tá. Anh ta còn theo quan niệm của quân đội Mỹ lúc đó nên mới cho là tôi còn trẻ với cấp bậc Đại Tá, vì các Đại Tá Mỹ thường tròm trèm ở tuổi 50. Sau chiến tranh Việt Nam, người rút ra nhiều kinh nghiệm lắm, kể cả việc thăng cấp, anh thấy bây giờ Tướng Tá Mỹ trẻ măng mà.

Tướng Trần Văn Hai về làm Tư Lệnh Biệt Khu 44, Đại Tá Phạm Duy Tất đã hợp tác chặt chẽ với Tướng Hai trong nhiệm vụ phòng thủ biên giới Việt – Miên thuộc lãnh thổ trách nhiệm của Quân Đoàn IV/Quân Khu 4. Ông Tất cho biết, hai người đã biết nhau từ trước, Ông Tất đã gặp ông Hai rất nhiều lần khi ông Hai còn là Trung Tá Tỉnh Trưởng Phú Yên, Tuy Hòa, và ông Tất là

Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện và Hành Quân Delta. Các Trại Lực Lượng Đặc Biệt đã trở thành những Tiểu Đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng, Đại Tá Tất càng không ngừng có sáng kiến để có thể nâng cao kinh nghiệm tác chiến của họ, đồng thời huấn luyện cho những Tiểu Đoàn này có thêm khả năng tham dự tác chiến cấp Liên Đoàn. Ngày tác giả cùng 2 Sĩ quan khác theo Trung Tá Nguyễn Văn Hòa đi thành lập Bộ Chỉ Huy 42 Chiến Thuật Biệt Động Quân gồm 4 Tiểu Đoàn 66, 85, 93, 94 Biệt Động Quân Biên Phòng, tác giả cứ tưởng Bộ Tổng Tham Mưu và Quân Đoàn IV chính thức ra lệnh thành lập các Liên Đoàn này. Không phải. Đây là sáng kiến và là quyết định của cá nhân Đại Tá Tất. Bây giờ ông giải thích, tôi đi trước Bộ Tổng Tham Mưu và Quân Đoàn một bước, Bộ Chỉ Huy kèm theo hai chữ “Chiến Thuật”, có nghĩa là hành quân, tác chiến, thay đổi nhiệm vụ, không còn như Biệt Kích Quân thời Lực Lượng Đặc Biệt. Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật xem như Chiến Đoàn, tổ chức Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật sẽ linh hoạt thay đổi tùy tình hình chiến sự. Tôi chỉ cần báo cáo cho Quân Đoàn sự hiện diện của hai Chiến Đoàn 41 và 42 Chiến Thuật Biệt Động Quân Biên Phòng thì họ chấp thuận ngay. Tự nhiên có để xử dụng, tại sao không?

Sau khi các Lực Lượng Đặc Biệt/Dân Sự Chiến Đấu cải tuyển thành các Tiểu Đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng, chỉ có Vùng 4 Chiến Thuật lần đầu tiên đã áp dụng mô thức Liên Đoàn Chiến Thuật của Đại Tá Phạm Duy Tất. Mãi đến năm 1973, Bộ Tổng Tham Mưu mới quyết định chính thức thành lập các Liên Đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng. Cuối năm 1971, Trung Tá Trần Kim Đại thay Trung Tá Nguyễn Văn Hòa trong chức vụ Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 42 Chiến Thuật, Trung Tá Nguyễn Văn Hòa được thăng Đại Tá về Cần Thơ làm Phó cho Đại Tá Phạm Duy Tất, đã dẫn Liên Đoàn 42 Chiến Thuật Biệt Động Quân Biên Phòng hành quân dài dài trên đất Miên. Quan niệm của Đại Tá Tất đã đạt kết quả. Các Trại Biên Phòng vẫn duy trì dọc biên giới, nhưng các Tiểu Đoàn thì đã cơ động hóa, họ đã có khả năng hành quân cấp Tiểu Đoàn và Liên Đoàn. Đây cũng là giai đoạn phía Bắc Cộng chuẩn bị những trận đánh lớn cấp đại đơn vị.

Trung Tá Trần Kim Đại là một Sĩ quan cần mẫn, điềm đạm, can đảm, nhất là chịu khó học hỏi, triệt để tuân mệnh lệnh. Ông Tất “chấm” ông Đại nên sau khi Lực Lượng Đặc Biệt giải tán, đã mang Thiếu Tá Đại về làm Tham Mưu Trưởng dưới quyền, dẫn dắt kỹ lưỡng, nên không bao lâu sau Trung Tá Trần Kim Đại “lọt vào mắt xanh” của Tướng Ngô Quang Trưởng.