← Quay lại trang sách

Trận Kampong Trach 1972

Khoảng gần cuối năm 1971, sau khi chiến dịch ngoại biên chấm dứt. Biệt Động Quân Quân Khu 4 được giao nhiệm vụ phòng thủ biên giới như cũ. Nhưng lần này nhận thêm khu vực Sway Riêng vốn thuộc trách nhiệm của Quân Đoàn III. Nhiệm vụ là phòng thủ biên giới, nhưng nhiệm vụ thật sự trên đất Miên là Biệt Động Quân tiếp trợ cho quân đội Chính Phủ Kampuchia đánh quân Khờ Me Đỏ. Những cuộc phối hợp giữa Liên Đoàn 42 Biệt Động Quân Biên Phòng và quân đội Miên ở tỉnh Tà Keo đã khiến Trung Tá Liên Đoàn Trưởng Trần Kim Đại nổi tiếng khắp nước Kampuchia. Lúc này Tướng Ngô Quang Trưởng đã về thay Tướng Ngô Dzu làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV.

Chuẩn Tướng Tất kể: Nội vụ bất đầu từ Chiến Dịch Ngoại Biên, các giới chức Miên luôn than phiền về sự phá phách của quân Việt Nam Cộng Hòa. Sau này họ trực tiếp yêu cầu tôi và Trung Tá Đại hãy cố lấy lại lòng tin của dân chúng Miên trong lúc hai bên hợp tác đánh quân Khờ Me Đỏ là đám Cộng Sản đang bị dân Miên thù ghét. Tôi bàn với ông Đại không để cho binh sĩ Biệt Động Quân đụng đến bất cứ thứ gì của dân chúng, dù là vật nhỏ nhất. Một Chi Đoàn M113 tăng phái cho Liên Đoàn 42 Biệt Động Quân Biên Phòng cũng nhận lệnh không được băng qua các ruộng lúa đang sắp tới mùa gặt. Điều đặc biệt ở đây rất đáng được ghi nhận và ca ngợi là các binh sĩ Biệt Động Quân, Kỵ Binh đã chấp hành lệnh phải nói là 100% luôn.Do vậy mặt trận tâm lý chiến băt đầu có kết quả: Lời ca ngợi của dân chúng tỉnh Tà Keo vang tới giơi truyền thông đị phương. Những bài phóng sự điều tra ở địa phương bắt đầu xuất hiện, ca ngợi Biệt Động Quân và Kỵ Binh dưới quyền Trung Tá Trần Kim Đại. Tiếng vang lên tận thủ đô Phnom – Penh, giới truyền thông ở đó đổ về Tà Keo làm phóng sự, tiếng tăm của Trung Tá Việt Nam Cộng Hòa Trần Kim Đại vang dội khắp nước, các giới chức Miên cũng lên tiếng ca ngợi ông Đại. Mỗi ngày tôi gặp Tướng Trần Văn Hai ở căn cứ Chi Lăng, chúng tôi rất vui vẻ về chuyện này. Tướng Ngô Quang Trưởng cũng vậy, ông theo dõi cá nhân Trung Tá Đại từ đấy, vì vậy khi thuyên chuyển ra làm Tư Lệnh Quân Đoàn I, Tướng Trưởng đã mang theo Trung Tá Đại, giao cho ông Liên Đoàn1 Biệt Động Quân Tiếp Ứng, là đơn vị xung kích của Quân Đoàn. Theo tôi, ông Đại đã thăng cấp thì cái ghế Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Vùng 1 Tướng Trưởng trước sau cũng giao cho ông Đại, nếu không có ngày 30 tháng Tư 1975... Tướng Trưởng chọn Đại Tá Trần Kim Đại không chỉ nhắm tới khả năng của ông ta mà chính là muốn qua Đại Tá Đại thay đổi quan niệm xử dụng Biệt Động Quân Vùng 1 Chiến Thuật.

Đó là việc về sau, bây giờ xin trở lại với thời gian đầu 1972 tại vùng biên giới cận Tây của Quân Khu 4. Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa nuôi cả Miền Nam Tự Do, bình định nông thôn là một phần nhiệm tối quan trọng không thua kém phần nhiệm quân sự. Mà muốn được như vậy thì biên giới Việt – Miên phải được khóa cho thật chặt, không để quân Bắc Cộng xâm nhập được. Biên giới khá dài so với lực lượng của Biệt Động Quân, trong khi tin tình báo cho thấy Sư Đoàn 1 CSBV rục rịch chuẩn bị đưa quân xuyên biên giới vào Vùng 4 phá rối trị an, có lẽ họ muốn chuẩn bị kềm chân quân Việt Nam Cộng Hòa ở Vùng 4 trước khi cho nổ ra trận đánh kinh hoàng ở phía Bắc, sau này chúng ta vẫn gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa ( tựa phóng sự chiến trường của nhà văn quân đội Phan Nhật Nam). Tướng Ngô Quang Trưởng quyết định chia biên giới Việt –Miên ra thành hai phần lãnh thổ trách nhiệm:

Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Biệt Khu 44, chỉ huy cả hai lực lượng Biệt Động Quân và Kỵ Binh trấn giữ biên giới.

– Từ Châu Đốc chạy dài tới Sway Rieng là trách nhiệm của Biệt Động Quân Quân Khu 4. Đại Tá Phạm Duy Tất đặt Bộ Chỉ Huy Hành Quân tại Chi Lăng, Thất Sơn.

Đại Tá Tất giao cho Đại Tá Nguyễn Văn Hòa, Chỉ Huy Phó lập Bộ Chỉ Huy Nhẹ ở Neak Lương, gồm các Tiểu Đoàn thuộc Liên Đoàn 41 Biệt Động Quân Biên Phòng, trông coi các hoạt động yểm trợ cho khu vực Sway Rieng.

– Từ Châu Đốc theo hướng Tây về đến Hà Tiên sẽ do Lữ Đoàn 4 Kỵ Binh chịu trách nhiệm. Đại tá Vũ Quốc Gia, Tư Lệnh Lữ Đoàn 4 Kỵ Binh đặt Bộ Chỉ Huy Hành Quân ở Tô Châu, Hà Tiên.

– Đại Tá Gia chỉ định Thiết Đoàn 12 Kỵ Binh thành lập căn cứ Kampong Trach cách biên giới Việt – Miên 14 cây số, để chận địch từ xa. Căn cứ này được dựng khá sơ sài, lại nằm ngoài tầm pháo yểm trợ từ nội địa, Pháo Binh bên này biên giới bắn không tới Kampong Trach.

Dưới đây là bài viết sau này ở hải ngoại của Tướng Ngô Quang Trưởng về trận Kampong Trach 1972 (Tướng Trưởng viết bằng Anh ngữ, người dịch ra Việt ngữ tác giả không biết tên):

Vào khoảng đầu năm 1972 lực lượng phòng vệ biên giới của Quân Đoàn IV được giao phó cho Biệt Khu 44 với các Tiểu Đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng và lực lượng Thiết Giáp tạo thành một hàng rào phòng thủ dọc theo biên giới Cam Bốt từ Mỏ Vẹt đến Vịnh Thái Lan. Ngoài trách nhiệm phòng thủ trong nội địa, Biệt Khu 44 còn điều hành và chỉ huy hai căn cứ hành quân ngoại biên trên lãnh thổ Cam Bốt, gồm Neak Luong, một bến phà trên quốc lộ 1 qua sông Cửu Long và Kampong Trach khoảng 20 cây số về hướng Bắc của Hà Tiên. Cả hai căn cứ đều được BĐQ/QĐ IV bảo vệ. Khi đó Sư Đoàn 9 Bộ Binh đang thực hiện các cuộc hành quân trên vùng U Minh Thượng và tại tỉnh Chương Thiện, trong khi Sư Đoàn 21BB hoạt động tại vùng U Minh Hạ và phần phía Nam mũi Cà Mau. Cùng lúc đó SĐ 7 BB chịu trách nhiệm lãnh thổ tại 2 tỉnh Định Tường và Kiến Hòa, cùng những tỉnh nằm giữa sông Tiền và sông Hậu.

Chiến trường Kampong Trach dược xem như đã ảnh hưởng vào tình hình quân sự trên vùng đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian còn lại trong năm 1972. Chiến trận bùng nổ vào ngày 22 tháng 3, 1972 với trận giao tranh xảy ra giữa các đơn vị của Liên Đoàn 42 và Trung Đoàn 101D Cộng Sản Bắc Việt và đã không giảm bớt cường độ cho đến cuối tháng 4, 1972. Kampong Trach là một thị trấn nhỏ nằm gần giao lộ giữa một vùng rừng cây về hướng bắc thành phố Hà Tiên, khoảng 15 cây số phía bắc biên giới Cambốt. Quân Đoàn IV tiếp tục duy trì căn cứ hành quân tại nơi đây để kiểm soát một trong những trục lộ chuyển vận quan trọng của CSBV từ Cambốt xâm nhập vào vùng Hậu Giang. Điều rõ ràng trận đánh đã không được Cộng quân chọn lựa cho một chiến trường quan trọng vào lúc này. Dù sao thì trận giao tranh đầu tiên đã khai triển thành một chiến trường rộng lớn khi những lực lượng tăng viện được tiếp tục đổ vào từ cả hai bên. Chiến trận đã trở thành mãnh liệt và dữ dội. Về phía QLVNCH, một lực lượng hùng hậu được tung vào chiến trường gồm 4 Thiết Đoàn Kỵ Binh, trong đó có cả Thiết Đoàn cơ hữu của SĐ 7 BB, được điều động xuyên qua QĐ IV từ vùng đông bắc kéo dài hơn trăm cây số; cùng với 6 Tiểu Đoàn BĐQ có nhiều đơn vị pháo binh và công binh yểm trợ. Địch quân lúc đầu chỉ có Trung Đoàn 101D với các thành phần yểm trợ của bộ chỉ huy Công Trường (Sư Đoàn) 1 CSBV. Sau đó địch quân bắt buộc phải nhanh chóng đưa thêm hai Trung Đoàn nữa vào chiến trường:TrĐ 52 và E 44.

Mặc dù cả hai bên đều bị thiệt hại nặng nề và sự thật là QLVNCH cuối cùng phải triệt thoái khỏi Kampong Trach, mặt trận này đã cho thấy kết quả sự thất bại to lớn về phía địch quân. Điều hiển nhiên Công Trường 1 là một Sư Đoàn CSBV độc nhất tại vùng đồng bằng sông Cửu Long vào lúc đó, đã bị bắt buộc phải tung ra tất cả tiềm lực chiến đấu trên đất Cambốt, trong khi nhiệm vụ chánh của họ là phải thực hiện một chiến dịch quan trọng bên trong nội địa của QĐ IV để hòa đồng phối hợp với những trận tấn công khác trên toàn lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Giao tranh tại chiến trường ngoại biên, Cộng quân đã không phá hoại gây rối được trong nội địa, thực hiện mục tiêu chính yếu của họ, mà chỉ gây thiệt hại nhẹ từ phía ngoại vi. Nói khác đi, nhiệm vụ của họ là phá hoại kế hoạch bình định và phát triển của QĐ IV đã không thành công, mà chỉ làm đình trệ đôi chút. Ngay cả thế, cái giá mà họ phải trả quá đắt. Những tổn thất to lớn gây ra cho Cộng quân do hỏa lực của Thiết giáp và những trận oanh kích dữ dội của KQVN và Hoa Kỳ đã hữu hiệu chống trả các cuộc tấn công biển người, và cuối cùng cắt xé Công Trường 1 CSBV thành một đơn vị không còn giá trị chiến đấu cho đến cuối trận chiến của Mùa Hè Đỏ Lửa.

Chiến trường Kampong Trach xảy ra trên một vùng khá xa cho những trục tiếp vận bình thường của QLVNCH. Những đường lộ và thủy vận dẫn vào chiến trường đã bị giới hạn. Do đó, QĐ IV đã gặp phải khó khăn trong sự chuyển quân và tiếp liệu để yểm trợ cho những hoạt động, nỗ lực của những đơn vị tham chiến tại đây. Thật ra chỉ là những trận chiến tiêu hao quân sự mà không làm thiệt hại sinh mạng và tài sản của người dân trong lãnh thổ các tỉnh miền Tây.

Lúc bấy giờ Liên Đoàn 42 Biệt Động Quân Biên Phòng của Trung Tá Trần Kim Đại được gửi tăng phái cho Lữ Đoàn 4 Kỵ Binh. Theo những tài liệu anh em Kỵ Binh đã viết lại, Lữ Đoàn 4 Kỵ Binh phối trí quân như sau: Thiết đoàn 12 được tăng cường Tiểu Đoàn 66 Biệt Động Quân Biên Phòng tùng thiết. Thiết đoàn 16 được tăng cường Tiểu Đoàn 93. Trung Tá Trần Kim Đại, Liên Đoàn trưởng Liên Đoàn 42 Chiến Thuật Biệt Động Quân trực tiếp chỉ huy Tiểu Đoàn 94 được tăng phái 1 Chi Đoàn của Thiết Đoàn 12.

Nhìn chung, cách phối trí quân của Đại tá Vũ Quốc Gia hợp lý, Lữ Đoàn có 3 cánh quân. Thực tế cho thấy Trung Tá Trần Kim Đại Liên Đoàn trưởng chỉ còn chỉ huy 1 Tiểu Đoàn của mình mà thôi, không còn quyền điều động các Tiểu Đoàn cơ hữu khác, không thể phối hợp tác chiến ở cấp Liên Đoàn. Trong tác chiến khi đụng trận, ông Đại chỉ là 1 Tiểu Đoàn Trưởng không hơn kém, rõ ràng là ông không thể phát huy hiệu năng cấp Liên Đoàn của mình. Lẽ ra Vũ Quốc Gia nên để Trung Tá Trần Kim Đại ở bên cạnh Lữ Đoàn để đôn đốc Biệt Động Quân, hướng dẫn phối hợp Biệt Động Quân và Thiết Kỵ. Cũng có thể để 1 Tiểu Đoàn làm trừ bị trong khi 2 Tiểu Đoàn kia tăng phái cho 2 Thiết Đoàn chỉ huy trực tiếp. Đây không phải là nhận xét hay phê bình Đại tá Gia, tác giả thấy được Đại tá Gia rất khó xử khi xử dụng quân Biệt Động Quân và Thiết Giáp đều là cấp ngang nhau (Thiết Đoàn Trưởng Kỵ Binh và Liên Đoàn Trưởng Biệt Động Quân) nên mới nẩy ra ý kiến thế thôi. Khi giao Liên Đoàn 42 Biệt Động Quân Biên Phòng cho Lữ Đoàn 4 Kỵ Binh, mục đích của Tướng Trưởng là muốn tạo cho Đại Tá Vũ Quốc Gia cơ hội để tiến tới việc thành lập một đơn vị xung kích Thiết Giáp như Chiến Đoàn 3 Xung Kích của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi ở Vùng 3 Chiến Thuật, gồm Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh được tăng phái thêm Liên Đoàn 33 Biệt Động Quân Biên Phòng của Trung Tá Lê Tất Biên. Tướng Khôi và Chiến Đoàn 3 Xung Kích đã tạo nên những chiến công vang lừng. Nhưng mong muốn của Tướng Trưởng đã không thành.

Ngày 22 tháng Ba 1972, Liên Đoàn 42 Biệt Động Quân Biên Phòng gồm Tiểu Đoàn 94 và Chi Đoàn 2/12 Kỵ Binh “tao ngộ chiến” với một lực lượng quân Bắc Cộng đông hơn gấp nhiều lần, gồm Trung Đoàn 88 – Trung Đoàn 40 Pháo Binh – Đoàn 195 Vận Tải thuộc Sư Đoàn 1 CSBV. Đây là một cánh quân bộ binh mũi nhọn đầu tiên đụng địch, Trung Tá Đại rõ ràng mất hẳn khả năng điều quân phối hợp cấp Liên Đoàn để đối phó hữu hiệu. Tuy vậy, cánh quân nhỏ nhoi của Trung Tá Đại đã hạ tại chỗ Thiếu Tá VC Bảy Mạnh, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 88 CSBV, và Sáu Chi, Trưởng Đoàn 195 Vận Tải. Quân Bắc Cộng đang chuyển quân và tiếp liệu về phía biên giới Miên – Việt, chuẩn bị tiến đánh Hà Tiên.

Mổi lần nhắc tới các Liên Đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng thì Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất luôn luôn nhắc tới sự khác biệt giữa Liên Đoàn Biên Phòng và Liên Đoàn Tiếp Ứng. Biên Phòng kém xa Tiếp Ứng về quân số, kinh nghiệm chiến trường cũng kém hơn.Các Tiểu Đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng làm nhiệm vụ tùng thiết, phối hợp chiến đấu với Kỵ Binh vẫn chỉ là bước đầu. Nếu đụng trận lớn và bị thiệt hại nặng thì rất nhiều trường hợp phía các Tiểu Đoàn Biên Phòng không còn đủ khả năng tham chiến nữa. Thiết Đoàn 12 và 16 là những đơn vị thiện chiến, dầy dạn kinh nghiệm chiến trường, hỏa lực mạnh, di chuyển nhanh. Nhưng đơn vị tùng thiết cho họ (BĐQ) thì khả năng còn rất hạn chế, thiếu kinh nghiệm, chưa quen tác chiến phối hợp bộ binh và thiết giáp, quân số cũng ít. Nhất là không được chỉ huy chiến đấu bởi chính Liên Đoàn Trưởng của mình. Đụng trận nặng như trong trường hợp Kampong Trach, lẽ tất nhiên tổn thất phải cao cho cả hai bên và Thiết Kỵ. Nếu bộ binh tùng thiết là một đơn vị Biệt Động Quân Tiếp Ứng chắc chắn diễn biến đã khác đi nhiều, Thiết Đoàn điều động tác chiến, phản ứng theo tình hình cũng linh hoạt hơn, tất nhiên kết quả hữu hiệu hơn.

Tại Thất Sơn, Chuẩn Tướng Hai và Đại Tá Tất khi nhận tin đụng trận vừa nói thì lo âu vô cùng.. Ông Hai lo căn cứ Kampong Trach bị bể, ông Tất thì lo cho Liên Đoàn 42 Biệt Động Quân Biên Phòng. Đại Tá Tư Lệnh Lữ Đoàn 4 Kỵ Binh thì vì một vấn đề cá nhân nào đó đã cương quyết từ chối bay vào chỉ huy mặt trận như Tướng Hai mong đợi. Tướng Tất kể, thấy tâm trạng lúc đó của Tướng Hai bất an, cứ đi tới đi lui mà chưa biết phải giải quyết ra sao cho kịp thời, tình hình chiến sự tại Kampong Trach chính xác như thế nào chưa rõ. Tướng Hai thì không thể mở miệng yêu cầu ông điều gì vì Kampong Trach không thuộc trách nhiệm của tôi.

Sau khi tính toán thấy rằng mặt trận phía Đông của Biệt Động Quân vẫn đang yên ổn và trong tương lai gần như không thể xẩy tới một mặt trận nặng như Kampong Trach, Đại Tá Tất quyết định giải quyết giùm Tướng Hai, tình nguyện vào Kampong Trach để xem xét tình hình cụ thể. Tướng Hai thở phào nhẹ nhõm, giao cho Đại Tá Tất trực tiếp chỉ huy căn cứ Kampong Trach và điều động thêm Đại Tá Của, Tư Lệnh Phó Lữ Đoàn 4 Kỵ Binh, làm phụ tá cho Đại Tá Tất, trực tiếp chỉ huy điều động quân Kỵ Binh. Trong khi Liên Đoàn 42 Chiến Thuật Biệt Động Quân Biên Phòng đụng địch khoảng 6 cây số về hướng Bắc căn cứ Kampong Trach, thì Chi Đoàn 1/12 lo thiết lập hệ thống phòng thủ cho căn cứ. Đêm đó 4 Tiểu Đoàn CSBV từ hướng Bắc đánh vào căn cứ Kampong Trach, có khả năng tràn ngập vào vị trí Pháo binh. Vì liên lạc với Đại tá Vũ Quốc Gia không được (Bộ Chỉ Huy Hành Quân đóng tại Tô Châu), Chi Đoàn Trưởng ra lệnh phá hủy 2 khẩu 105 ly còn lại. Trận này khiến 4 chiếc M-113 bị bắn cháy, một số binh sĩ Chi Đoàn 1/12 bị thương và tử trận. Sáng hôm sau, Chi Đoàn 1/12 còn phải cho 5 chiếc M-113 đưa toán Phát Ngân Viên phát lương cho phần còn lại của Tiểu Đoàn 66 Biệt Động Quân Biên Phòng đang đóng tại đó về Ton Hon. trên đường trở về căn cứ bị 1 Tiểu Đoàn CSBV phục kích trong một ngôi làng xông ra đánh, thêm 4 chiếc M-113 bị bắn cháy, 12 binh sĩ tử thương.

Trước tình hình mỗi ngày một trầm trọng thêm, ngày 24 tháng Ba, Tướng Hai đưa Đại Tá Phạm Duy Tất vào Kampong Trach. Đại Tá Tất đi một mình với vài người tùy tùng, không mang theo Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Biệt Động Quân. lệnh của Tướng Hai là lệnh miệng trong lúc khẩn cấp, lực lượng chính ở đây là Kỵ Binh, vì rất hiểu Đại Tá Tất nên tác giả biết ông không muốn nhân việc này mà xen vào quyền chỉ huy của Đại Tá Gia. Ông Tất chỉ muốn xuyên qua Đại Tá Của mà giải quyết tình hình chiến sự. Trực thăng vừa đáp xuống căn cứ thì lãnh ngay loạt pháo của quân Bắc Cộng khiến 1 binh sĩ đi theo bị thương. Tướng Hai yêu cầu Đại Tá Tất củng cố tinh thần binh sĩ, tử thủ căn cứ Kampong Trach bằng mọi giá, ông sẽ điều động quân tới tăng cường sau. Cùng ngày, Đại Tá Nguyễn Văn Của Tư Lệnh Phó Lữ Đoàn 4 Kỵ Binh, cũng vào tới, mang theo 8 chiếc M-113 thay thế cho 8 chiếc của Chi Đoàn 1/12 vừa bị thiệt hại. Trung Tá Trần Kim Đại và quân của ông cũng vừa rút về. Đại Tá Phạm Duy Tất kiểm tra tại chỗ thì thấy không còn khả năng mở cuộc tấn công, chỉ cương quyết giữ cho căn cứ Kampong Trach khỏi bị “over-run” cũng là một điều khá đáng lo ngại. Theo tác giả, những người biết và theo dõi trận Kampong Trach đều hy vọng rằng: Đại Tá Tất rất có duyên với Sư Đoàn 1 Bắc Cộng qua trận Mộc Hóa, sau 2 trận Cô Tô và Rừng Tràm Trà Tiên, vì vậy ai cũng mong mỏi sẽ có thêm một trận chiến thắng lớn.

Nhưng lần này Ông Tất phải đụng địch trong thế thủ, hết còn công được rồi.

Phía Sư Đoàn 1 CSBV, đây là lần đầu tiên họ được trang bị Pháo binh vô cùng hùng hậu, cả Phòng Không cũng thế. Họ sẽ tận đụng tối đa sức mạnh mới của mình, pháo cày nát căn cứ Kampong Trach và các dàn Phòng Không bắn tối đa ngăn chặn trực thăng – máy bay Việt – Mỹ tiếp tế cho căn cứ. Trước Đại Tá Tất một ngày, Tướng Trưởng đã bay vào Kampong Trach xem xét tình hình. Cũng như Tướng Hai, Tướng Trưởng đồng ý để Đại Tá Tất trấn thủ căn cứ Kampong Trach, ngay sau đó ông ra lệnh tức khắc lập Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn IV tại Tô Châu, Hà Tiên, để điều động quân đánh giải tỏa áp lực địch đang đè nặng lên căn cứ. Xem ra không những Tướng Hai mà cả Tướng Trưởng cũng lo lắng sợ mặt trận này bị bể thì Quân Đoàn IV/ Vùng 4 Chiến Thuật sẽ gặp khó khăn bội phần. Quân Đoàn IV đã tăng cường cho măt trận An Lộc nguyên Sư Đoàn 21 BB cộng 1 Trung Đoàn của Sư Đoàn 9 BB. Liên Đoàn 4 Biệt Động Quân Tiếp Ứng thì đã gửi ra Vùng 1 Chiến Thuật. Quân Đoàn IV nay chỉ còn Sư Đoàn 7 BB ở Tiền Giang, Sư Đoàn 9 BB chỉ còn 2 Trung Đoàn để cơ động cho cả Vùng 4 Chiến Thuật, quân bộ còn có thể xử dụng được là Biệt Động Quân Biên Phòng khả năng hạn chế và lực lượng Kỵ Binh mà thôi.

Tướng Tất kể, vào tới đó tôi thấy khó khăn lắm, Tiểu Đoàn 94 Biệt Động Quân và Kỵ Binh không còn đủ khả năng để mở trận tấn công, Pháo đội của mìnhh thì đã bị pháo địch bắn sụm, chỉ còn có thể bắn trực xạ mà thôi, nhưng kho đạn đã bị nổ tung rồi. Tình trạng của tôi và căn cứ Kampong Trach lúc này không khác gì An Lộc, Kontum, phía trong phải thủ thành cho bằng được, dùng phương tiện Không Quân oanh tạc, xử dụng quân mình đang có tại chỗ chận và diệt địch. Mọi điều động từ bên ngoài đều do Biệt Khu 44 và Quân Đoàn IV. Mỗi ngày địch đều tổ chức tấn công dứt điểm căn cứ, thường buổi sáng và trước khi trời tối một lần, nhưng lần nào cũng bị quân trấn thủ đẩy lui. Giữ vững căn cứ chính là nhờ tinh thần binh sĩ không nao núng trước những đợt xung phong của địch. Thật sự quân trấn thủ đang thiếu đạn dược, lương thực, nhất là quân số mỗi ngày một hao hụt thêm vì pháo của địch liên tục, không ngớt.

Đại Tá Tất và Đại Tá Đại cùng gốc Lực Lượng Đặc Biệt, trong hoàn cảnh thiếu quân, bèn giở chiến thuật quen thuộc chia quân thành những nhóm nhỏ, đánh tiêu hao, tiêu diệt, thám sát nơi đóng quân đối phương và cứ thế gọi các phi tuần oanh tạc ngày đêm. Một lợi điểm trong lúc này là dân Miên vì căm ghét Cộng Sản đã cung cấp được những tin tức tình báo về địch quân rất chính xác. Trung Tá Đại chấm tọa độ rồi gọi cho phi cơ thám sát loại A-10 để xin oanh tạc. Lối đánh này hữu hiệu, phía địch bị thiệt hại vì oanh tạc khá lớn, đánh trúng cả Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn địch khiến cả 1 Trung Đoàn Trưởng và 1 Chính Ủy tử trận và bị thương. Biết được những tin tức này là nhờ rà làn sóng của địch quân. Đối đầu với Sư Đoàn 1 CSBV có 3 Trung Đoàn lại được tăng phái thêm 1 Trung Đoàn của Sư Đoàn 9 CSBV, chưa kể các đơn vị Pháo Binh, Đặc Công... tình trạng căn cứ Kampong Trach chỉ có thể nói là “sống qua ngày”.

Đêm 5 tháng Tư 1972, Trung Đoàn E44 Đặc Công, chủ lực của Quân Khu 9 CSBV tấn công vào căn cứ Kampong Trach. Chẳng những không thành công, Trung Đoàn phó là Đại Úy VC Nguyễn Trí tự Tư Trí bị quân trấn thủ hạ tại chỗ bằng súng M79. Mặt trận nổ ra quá lớn, bên CSBV đã tung ra toàn bộ lực lượng của mình nên Tướng Hai và Tướng Trưởng cũng tung hết lực lượng của Lữ Đoàn 4 Kỵ Binh đang có là Thiết Đoàn 12 và 16, nhưng hai lực lượng này đều tổn thất khá nặng từ vòng ngoài. Tướng Trưởng phải điều động thêm Thiết Đoàn 9 Kỵ Binh vào khu vực giao tranh, nhưng ngay trong đêm đầu tiên đã chạm địch khá nặng trong khu “vườn tiêu”, khiến cả Thiết Đoàn chỉ còn lại 21 chiếc. Ngày hôm sau Thiết Đoàn 9 nhận lệnh trở về biên giới.

Tướng Tất kể, lực lượng do Biệt Khu 44 điều động tăng viện tuy không đến được vào căn cứ nhưng áp lực địch đè nặng lên căn cứ đã giảm xuống đúng theo dự tính của Tướng Trưởng. Ngược lại, Sư Đoàn 1 CSBV cũng đã quá “oải” căn cứ Kampong Trach, một cái “hàng rào” khó nhổ, nên đã cho quân bọc vòng, tránh căn cứ Kampong Trach, di chuyển về phía Nam nhằm thanh toán điểm của mặt trận của họ là thị xã Hà Tiên. Tính toán của họ có liên quan đến cái Hiệp Định thổ tả Paris sắp thành hình vào đầu năm tới, trong đó có điều khoản “quân ai đang có mặt ở đâu thì coi như là đất của phe đó”. Với tin này, Tướng Trưởng quyết định tung Thiết Đoàn 2 Kỵ Binh cùng Tiểu Đoàn 58 Biệt Động Quân Tiếp Ứng, là 1 Tiểu Đoàn thuộc Liên Đoàn 7 Biệt Động Quân Tiếp Ứng đang được thành lập tại Cao Lãnh, vào con đường 14 cây số từ Hà Tiên lên Kampong Trach, dọn đường chuẩn bị cho lực lượng bên trong căn cứ Kampong Trach rút về Việt Nam. Lệnh rút là ngày 30 tháng Tư 1972. Trận chiến Kampong Trach kéo dài đúng 1 tháng 10 ngày. Thêm một trận thư hùng khốc liệt giữa hai bên trên con đường này, cả hai cùng thiệt hại nặng. Ngoài lực lượng Thiết Đoàn 2 Kỵ Binh cùng Tiểu Đoàn 58 Biệt Động Quân, Đại Tá Chamberlain Cố Vấn Trưởng Biệt Khu 44 đã liên tục bay trên vùng phối hợp yểm trợ không quân oanh tạc và đánh chận dọc suốt theo con đường không cho quân CSBV bôn tập áp sát vào đoàn quân rút lui. Chính nhờ sự yểm trợ này mà đoàn quân trở về an toàn.

Nhìn lại rõ ràng Tướng Trưởng đã không còn quân bộ binh xung trận nên đã chỉ xử dụng Thiết Kỵ. Không đủ quân nhưng Tư Lệnh Quân Đoàn IV đã quyết rằng phải tử thủ căn cứ Kampong Trach rồi sau đó cũng ra lệnh rút bỏ nhanh chóng, khiến cho một số ít nhà bình luận quân sự cho rằng tử thủ căn cứ Kampong Trach là không cần thiết và phí phạm nhân lực. Chận địch, tiêu diệt địch ngoài lãnh thổ nước mình thì cấp chỉ huy quân sự nào, Tướng lãnh nào cũng muốn thực hiện (Mỹ là quốc gia đứng đầu về quan niệm này), Tướng Trưởng làm việc này có tính chiến thuật, chiến lược rõ ràng lắm. Căn cứ Kampong Trach lập ra và rút bỏ linh hoạt tùy theo tình hình. Rút bỏ Kampong Trach khi thấy Sư Đoàn 1 CSBV không còn khả năng, mất hết nhuệ khí của lúc mới ra quân, Sư Đoàn không còn nguyên vẹn để xâm nhập vào lãnh thổ Vùng 3 Chiến Thuật.Hơn nữa kéo dài sự hiện diện của căn cứ này sẽ gây bất lợi cho phía mình trong tương lai. Khác với An Lộc, Kontum là lãnh thổ của ta, thành phố của ta, ta phải giữ đến cùng. Cũng như Quảng Trị đã mất thì phải chiếm lại bằng mọi giá. Cuối cùng Đại Tá Phạm Duy Tất đã dẫn đoàn quân tham dự trận Kampong Trach về tới Hà Tiên.

Phía quân Bắc Cộng, những thành phần còn lại của Trung Đoàn 101D nhập vào Trung Đoàn 52D Chủ Lực Miền (Cộng Sản địa phương) tập trung tấn công chiếm giữ hãng xi măng Hà Tiên. Sự thật không thể chối cãi là Sư Đoàn 1 CSBV đã hoàn toàn thất bại trong nhiệm vụ đưa đại quân của mình xuống vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hai lần thất bại tại Mộc Hóa khi muốn dùng con đường này để tràn xuống khu vực Tiền Giang. Nay cố gắng thử dùng con đường Hà Tiên xuống Rạch Giá rồi xuống U Minh, tự tin xử dụng cả Sư Đoàn thì không dễ gì bị ngăn chặn, nhưng đã bị quân Việt Nam Cộng Hòa đón đánh từ ngoại biên và bị tổn thất nặng nề. Quân Khu 9 Việt Cộng không hoàn thành được trách nhiệm “hiệp đồng” cho các mặt trận khác trên toàn cõi miền Nam Việt Nam, đành phải vớt vát lấy danh nghĩa Sư Đoàn 1 CSBV nhưng thực chất là cố gắng lần chót xử dụng quân địa phương cùng tàn quân của Trung Đoàn 101D tấn chiếm cơ sở Xi Măng Hà Tiên với hy vọng lật ngược thế cờ, đồng thời kiếm chút tiếng vang hầu che dấu sự thất bại của chính mình.

Liên Đoàn 42 Biệt Động Quân Biên Phòng lập tức được bổ sung quân số, tiếp liệu, tăng phái cho Sư Đoàn 9 BB, và được giao trách nhiệm giải tỏa khu vực Xi Măng Hà Tiên. Đại Tá Tất một lần nữa vẫn không chịu ngồi yên mặc dù không phải là vùng trách nhiệm của mình. Với sự đồng ý của Tướng Trần Bá Di, Tư Lệnh Sư Đoàn 9 BB, ông Tất mang Tiểu Đoàn 86 Biệt Động Quân Biên Phòng của Thiếu Tá “Paul Húc” Tạ Thành Lộc từ Mộc Hóa qua, trực thăng vận vào sát sào huyệt địch trên núi Cọp, nhằm làm giảm khả năng địch quân, yểm trợ cho trận đánh của Trung Tá Đại ở khu Xi Măng Hà Tiên.

Tác giả: Đã có Sư Đoàn 9 BB của Tướng Trần Bá Di, tại sao lúc đó Chuẩn Tướng lại mang quân Tiểu Đoàn 86 đánh vào núi Cọp làm gì?

Tướng Tất: Tôi làm sao ngồi yên ở Chi lăng được, Còn đánh dọc theo biên giới là tôi còn quan tâm, hơn nữa Liên Đoàn 42 Chiến Thuật Biệt Động Quân là đơn vị của tôi, tôi phải lo cho họ trong khả năng của mình.

Tác giả: Thưa Chuẩn Tướng, bài học gì mình thu được xuyên qua trận Kampong Trach?

Tướng Tất: Bất cứ trận nào tôi cũng rút ra được những bài học cho chính mình. Quan niệm biên phòng và xử dụng quân đã thành nề nếp và đạt hiệu quả. Nhưng chính là Liên Đoàn 42 Chiến Thuật và các Tiểu Đoàn Biên Phòng trực thuộc mới học được một bài học lớn, kinh nghiệm lớn, tuy phải trả giá khá đắt. Không ngờ trận đầu lại quá nặng như thế, với một đấu thủ đông gấp mấy lần mình, trang bị cũng vượt hơn mình nhiều lần. Vậy mà cũng đạt được kết quả khá tốt, anh thấy họ rất đáng khen chớ.

Theo tác giả, Tướng Tất có khả năng thiên về thế công nhiều hơn. Sáng kiến mang Tiểu Đoàn 86 Biệt Động Quân Biên Phòng của Thiếu Tá “Paul Húc” Tạ Thành Lộc nhảy xuống núi Cọp cho thấy sự nhạy bén của ông ta.Có thể ví như ông đã dùng Thiếu Tá Lộc ở núi Cọp là chặt ngang xương sống con rắn, để giúp Trung Tá Đại “xử lý” đầu rắn tại khu Xi Măng Hà Tiên thật nhanh chóng. Nhanh đến nỗi vì quá bất ngờ nên cũng có người cho rằng trận Xi Măng Hà Tiên...không đáng gọi là một trận đánh thật sự (?). Ở đây cũng phải “ca” cho Tướng Tất một câu công bình, là thay vì ngồi ở Chi Lăng, Thất Sơn nghỉ xả hơi sau hơn một tháng nằm cứng chịu pháo trong căn cứ Kampong Trach, ông ta lại tiếp tục tình nguyện xông vào chỗ không thuộc trách nhiệm được cấp trên giao phó. Hình như vì dư luận không công bình sau đó của một số Sĩ quan trẻ thuộc binh chủng bạn nên ở trận Cheo Reo trong cuộc Triệt Thoái Quân Đoàn II Tướng Tất đã dè dặt khi Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh của Đại Tá Nguyễn Văn Đồng đụng trận. Tác giả buồn cười là dù ổng dè dặt tới đâu thì những câu chuyện thêu dệt đồn thổi bêu xấu cũng rượt theo ổng tới đó thôi.

Khu vực Xi Măng Hà Tiên được Liên Đoàn 42 Chiến Thuật Biệt Động Quân Biên Phòng của Trung Tá Trần Kim Đại “dọn dẹp sạch sẽ”. Núi Cọp cũng được Tiểu Đoàn 86 Biệt Động Quân Biên Phòng làm “tổng vệ sinh” gọn ghẽ, tất cả kho tàng của quân Bắc Cộng gồm vũ khí, thuốc men, lương thực lọt hết vào tay Biệt Động Quân. Một Bác sĩ VC tên Khiêm bị hạ tại chỗ. Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 6 thuộc Trung Đoàn 46 CSBV là Đại Úy Hiến ra đầu hàng tại Hà Tiên sau khi toàn bộ Tiểu Đoàn 6 CSBV bị tiêu diệt. Trang mạng hiện nay của Quân Khu 9 CSBV (phần Hà Tiên) hằn học gọi Đại Úy VC Hiến là... tên Hiến. Trận Kampong Trach 1972 bắt đầu từ cuộc giao chiến ở khoảng 6 cây số phía Bắc căn cứ Kampong Trach, và chấm dứt bằng một cuộc giao chiến khác ở phía Nam căn cứ Kampong Trach khoảng 18 cây số, bên phần đất Việt Nam. Cả hai trận đều do Liên Đoàn 42 Chiến Thuật Biệt Động Quân Biên Phòng tham chiến. Tướng Ngô Quang Trưởng đạt được mục đích: Giữ vững trị an Vùng 4 Chiến Thuật trong Mùa Hè Đỏ Lửa, chẳng những vậy ông còn có thể yểm trợ cho các mặt trận ở những Vùng Chiến Thuật khác. Sau này phía Bắc Cộng thú nhận Sư Đoàn 1 CSBV bị thiệt hại quá nặng nề qua trận Kampong Trach 1972 khiến Cục R đã phải gom góp hết quân trừ bị để bổ sung quân số cho nó. Kampong Trach chính là một nốt nhạc trật chìa khiến “dòng nhạc Mùa Hè Đỏ Lửa” của Bắc Cộng bị lỗi nhịp. Một “Operational Art”! Cho nên Hà Nội không còn nhắc nhở tới Sư Đoàn nầy lần nào nữa, như thể nó chưa từng hiện diện trên cõi đời này. Quân Việt Nam Cộng Hòa đã không cho phép có “một bến cảng ở Hà Tiên” dựa theo “Hiệp Định thổ tả Paris” mà quân Bắc Cộng mơ ước. Có hai điều tác giả không quên được qua trận Kampong Trach 1972:

Một: Ở phi trường Hà Tiên, hàng mấy dãy dài trực thăng của Mỹ – Việt đậu ngay hàng thẳng lối, các phi công căng võng nằm chờ tới phiên mình bay vào Kampong Trach. Phi công Việt ít tiền, tới buổi ăn trưa thì một gói xôi hoặc thổi kèn (nhai bánh mì). Phi công Mỹ giàu có, mỗi anh nửa con gà nướng trông thiệt đã. Nhưng khi bay, hai bên đã cùng vào Kampong Trach thật can đảm, bay liều lĩnh nhưng điệu nghệ nhất. Nhưng chỉ có cái khác là nhìn trực thăng Việt Nam đôi khi phải giật mình vì... không thấy anh phi công đâu cả. Anh quá nhỏ con so với phòng lái.

Hai: Các binh sĩ Tiểu Đoàn 94 Biệt Động Quân Biên Phòng sau khi về tới Thất Sơn đều nói rằng quân Bắc Cộng bị cho uống... thuốc điên. Trời đất, có chuyện này thiệt sao? Anh em kể rằng mỗi khi quân Bắc Cộng xuất trận, đều có một thiếu nữ dẫn đầu chạy phía trước, vừa chạy vừa hô: Tiến lên các đồng chí, chết trẻ hơn chết già, chết hôm nay, ngày mai khỏi chết!

Không bị cho uống thuốc điên thì tại sao hô hào khùng điên xuẩn động quá mức vậy? Năm 2011 tác giả có viết một bài về trận Kampong Trach 1972, sau đó nhận được một lá thư từ Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất viết góp thêm về trận này. Lá thư của Tướng Tất cũng đã được đưa tới những nơi từng đăng bài của tác giả nhằm cho độc giả có thêm dữ kiện, như sau:

Anh Đỗ Sơn,

Tôi đã đọc bài Kampong Trach 1972 anh viết, bồi hồi nhớ lại một đoạn khó quên trong quãng đời chiến binh của mình. Gửi cho anh thêm một vài chi tiết có thể anh không rõ, không nhớ, hoặc anh chưa từng nghĩ đến về trận Kampong Trach. Chắc anh còn nhớ tôi đã trả lời với các phóng viên ở Nam California nhân dịp về tham dự Đại Hội Biệt Động Quân: Là bại tướng thì nói gì cũng là bại tướng. Nhưng được anh gợi hồi tưởng lại trận Kampong Trach thì tôi lại muốn nói, nói những lời chưa có cơ hội nói.

Cho đến giờ này hẳn chưa ai quên Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, mỗi khi nhắc đến không ai khỏi chạnh lòng, ngậm ngùi về sự khốc liệt của chiến tranh. Năm 1972 là năm cuộc chiến Nam – Bắc đã đến hồi cực điểm. Tổng Bí thư Lê Duẫn và Đảng Cộng Sản Việt Nam thật vô cùng tàn ác đẩy hàng vạn vạn người dân Việt Nam của cả hai miền vào cảnh chết chóc chưa từng thấy. Họ mơ ước, nôn nóng nhuộm đỏ cả nước Việt Nam càng sớm càng tốt để dâng công lên quan thầy. Giữa hai lực đối trọng to lớn là Liên Xô và Trung Cộng, Đảng Cộng Sản Việt Nam chơi trò đu dây và khiến nhân dân miền Bắc lầm tưởng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là “Độc Lập” qua khẩu hiệu “Chống Mỹ Cứu Nước”. Quá bất ngờ đến bàng hoàng cho toàn đảng Cộng Sản Việt Nam khi hệ thống Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Xô sụp đổ, biến dạng trên địa cầu. Nhưng thật không may, một nước Cộng Sản to lớn, Trung Cộng, vẫn còn tồn tại. Dần dần Đảng Cộng Sản Việt Nam muốn thoát hiểm thì phải bám víu vào họ, vô hình chung lọt vào cái lưới thiên la địa võng của Trung Cộng mà cả nước Việt Nam ngày nay đang giãy dụa.

Trở lại với Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, nói đến trận chiến khốc liệt này mọi người liên tưởng ngay đến 3 mặt trận lớn là An Lộc, Kontum, và Quảng Trị. Chưa đủ, còn một mặt trận nữa là chiến trường Kampong Trach – Hà Tiên do BĐQ và KB của QĐ IV/QK IV chiến đấu. Tôi không nghiên cứu để hiểu 4 mặt trận đâu là chính đâu là diện. Kampong Trach là một địa danh xa lạ, một thị trấn quá nhỏ bé nằm trên đất Kampuchia cách Hà Tiên về phía Đông Bắc khoảng 14 cây số. Trận chiến Kampong Trach cũng khá khốc liệt về cường độ. Lực lượng tham chiến có Liên Đoàn 42 Chiến Thuật Biệt Động Quân được tăng phái một Chi đoàn thiết quân vận M113 đối đầu với một sư đoàn chính quy Cộng Sản Bắc Việt. Có thể nói bên ta 1 chọi 5. Khởi đầu mặt trận này do Đại Tá Vũ Quốc Gia, Tư Lệnh Lữ Đoàn IV Kỵ Binh chỉ huy, Bộ Chỉ Huy Hành quân đóng tại Tô Châu, Hà Tiên. Biệt Động Quân QK IV có Bộ Chỉ Huy Hành Quân đóng tại Trại Chi Lăng (vùng Thất Sơn, Châu Đốc), có Bộ Chỉ Huy Hành Quân nhẹ đóng tại bến phà Neak Luong trên đất Kampuchia chịu trách nhiệm vùng biên giới từ tỉnh Kiến Tường (Mộc Hóa) đến tỉnh Kiến Phong (Cao Lãnh). Hai lực lượng BĐQ và KB đều dưới quyền chỉ huy của Tướng Trần Văn Hai, Tư Lệnh Biệt Khu 44. Tôi được Tướng Hai đưa vào Kampong Trach khi chiến trận đã lên đến cao điểm và nắm quyền chỉ huy.

Đề cập đến tương quan lực lượng thì tôi xin nói rõ về lực lượng và khả năng của Biệt Động Quân Biên Phòng một chút để thấy sức chiến đấu và tinh thần chiến đấu của anh em chiến sĩ Biệt Động Quân rất kiên cường trong trận Kampong Trach. Nói đến Biệt Động Quân hầu như ai ai cũng có ý nghĩ đây là những đơn vị thiện chiến, mũi nhọn, đầu sóng ngọn gió. BĐQ luôn luôn là tuyến đầu xung trận. Quả đúng như thế! Đó là BĐQ ở các Liên Đoàn 1, 2, 3, 4, 5 đã dày dạn chiến trận mấy chục năm qua. Biệt Động Quân Biên Phòng thì khác. Là những đơn vị vừa được cải tuyển thành BĐQ từ năm 1970. Họ là những Biệt Kích Quân Dân Sự Chiến Đấu ở các trại Biên Phòng / Lực lượng Đăc Biệt. Họ chưa từng được tổ chức thành Tiểu Đoàn, chỉ hành quân nhỏ, phục kích, thám sát, chận đứng và tiêu diệt những cuộc xâm nhập nhỏ xuyên biên giới, từng đoàn ít người trong phạm vi vùng trách nhiệm của trại. Họ chưa có kinh nghiệm đánh cấp đại đội, tiểu đoàn, nói chi tới liên đoàn, tùng thiết phối hợp với thiết quân vận thì rõ ràng xa lạ, trang bị của họ cũng rất nhẹ nhàng.

Từ cuối năm 1970, ý thức được tình hình đã biến đổi, Cộng Sản Bắc Việt không còn xâm nhập từng toán nhỏ vài chục người hoặc đông hơn khoảng 100 người. Bắc Việt nay xâm nhập cấp trung đoàn, sư đoàn cho nên tôi đã cơ động hóa các tiểu đoàn biên phòng để vừa hành quân vừa học hỏi kinh nghiệm đánh cấp đại đội, tiểu đoàn, và nếu cần có thể đánh cấp liên đoàn. Các tiểu đoàn này chưa được gửi đi huấn luyện bổ túc tại Trung Tâm Huấn Luyện BĐQ/ Dục Mỹ để chính quy hóa. Vì vậy mà có LĐ 42 BĐQ/CT để tham chiến mặt trận Kampong Trach, tăng phái cho Lữ đoàn 4 Kỵ Binh. Nói về quân số cũng là một vấn đề. Tiểu đoàn thuộc các Liên Đoàn 1, 2, 3, 4, 5 đều có cấp số 800 thì khả năng tham chiến mới được 500. Ngược lại cấp số Tiểu đoàn Biên Phòng chỉ là 500 thì khả năng hành quân không hơn không kém 300 và chỉ trang bị nhẹ. Với tương quan như vậy mà LĐ 42 BĐQ/ Chiến Thuật đã tạo được thành tích có thể nói là “thần kỳ”. Liên đoàn đã không bị đánh tan và không bị tiêu diệt, ngược lại đã gây tổn thất nặng nề cho Sư Đoàn 1 CSBV, chận đứng họ tại Kampong Trach, bẻ gãy kế hoạch của họ làm tiêu tan mục tiêu của Bắc Việt đề ra, đánh chiếm Hà Tiên Kiên Lương để xây một bến cảng cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Do tình hình các mặt trận trên toàn cõi Việt Nam Cộng Hòa tương đối lắng dịu, quân ta đã làm chủ được trận địa, Sư Đoàn 1 CSBV tại Kampong Trach cũng đã yếu thế, không còn khả năng tấn công mạnh nên Quân Đoàn IV đã cho lệnh rút lui lực lượng khỏi Kampuchia.

Thấy quân ta rút lui, Sư Đoàn 1 CSBV tuy đã yếu thế nhưng cố vớt vát tiến chiếm Kiên Lương, cơ sở Xi Măng Hà Tiên. Liên Đoàn 42 BĐQ/CT vừa trở về chưa được dưỡng quân thì lập tức nhận lệnh tăng phái cho Sư Đoàn 9 BB dưới quyền Tướng Trần Bá Di, rồi được điều động đến Kiên Lương để giải tỏa khu vực này. Trung Tá Trần Kim Đại cùng với Liên Đoàn nhanh chóng đến đến Kiên Lương lâm trận. Bản thân tôi và Bộ Chỉ Huy nhẹ không còn trách nhiệm gì trên mặt trận này, nên trở về Bộ Chỉ Huy Hành Quân ở Thất Sơn với trách nhiệm, nhiệm vụ cũ trước đây. Có lẽ Tướng Di hiểu quá rõ khả năng và sở trường của Biệt Động Quân Biên Phòng nên đã ra một lệnh cho Trung Tá Đại vô cùng khắc nghiệt tưởng chừng như khó thực hiện được, hay ít nhất cũng phải chấp nhận một tổn thất cao. Ấy thế mà Trung Tá Đại đã bình tĩnh, tự tin là khác. Lệnh ban ra là: BĐQ phải tái chiếm hãng Xi Măng Hà Tiên nguyên vẹn không được làm hư hại bất cứ thứ gì, có nghĩa là Trung Tá Đại không được xử dụng Pháo binh, không được gọi Không quân yểm trợ, không được xử dụng vũ khí nặng.Ấy vậy mà Trung Tá Đại và Liên Đoàn 42 BĐQ/CT tạo được một chiến công “thần kỳ” thứ hai. Chỉ vỏn vẹn trong vài ngày ngắn ngủi, đã chiếm được lại hoàn toàn cơ sở Xi Măng Hà Tiên, đánh tan lực lượng CS khiến họ phải tháo chạy về biên giới.

Thật ra các Tiểu đoàn BĐQ/Biên Phòng còn thiếu kinh nghiệm về lối đánh trận địa chiến nhưng laị có quá nhiều kinh nghiệm về đánh đêm, đánh biệt kích. Đó chính là sở trường của họ mà Tướng Di đã phát huy. Trung Tá Đại đã hoàn thành mệnh lệnh của Tướng Di thật hoàn hảo, xuất sắc. Tuy tôi không có trách nhiệm trong trận chiến này nhưng vùng biên giới vốn là trách nhiệm thường xuyên của tôi trong nhiều năm qua nên địa hình, địa vật trong khu vực này tôi quen thuộc lắm. Sau khi Trung Tá Đại nhận lệnh từ Tướng Di, ông liền cấp tốc báo cáo cho tôi. Trung Tá Đại thì có vẻ tự tin nhưng tôi không thể không lo cho quân của mình dù đã tăng phái. Phản ứng thật nhanh, tôi yêu cầu Sư Đoàn 9 BB chấp thuận cho tôi điều động Tiểu đoàn 86 BĐQ/Biên Phòng thuộc trại Bình Thạnh Thôn do Thiếu tá Tạ Thành Lộc chỉ huy thuộc LĐ 41 BĐQ/CT đóng tại Mộc Hóa trực thăng vận chớp nhóang vào chiếm lĩnh núi Hòn Cọp. Gọi là núi nhưng thật sự là một ngọn đồi thấp nằm chận giữa con đường Kiên Lương đến Hà Tiên. Nơi đây là cơ sở chỉ huy trạm xá tiền phương, tiếp vận, giao liên, con đường tiến thối của đối phương. Cuộc đổ quân bất ngờ và táo bạo của Tiểu đoàn 86 BĐQ/Biên Phòng, Thiếu tá “Paul Húc” Tạ Thành Lộc và quân của ông ta chỉ xoải có chục bước đã chiếm lĩnh ngay ngọn đồi này, đánh tan tành quân CS.

Cũng phải nói thêm, Trung Tá Đại, nhờ sự hỗ trợ rất tích cực của “Paul Húc” Tạ Thành Lộc và Tiểu đoàn 86 BĐQ/BP, đã kết thúc hoàn toàn trận chiến Kampong Trach một cách nhanh chóng vẻ vang. Có thể nói rằng dân chúng miền Tây vẫn được vui hưởng thái bình vào lúc đó là nhờ vào trận Kampong Trach trong khi các mặt trận khác tuy bề ngoài có vẻ lắng dịu nhưng thực tế thì vẫn rất căng thẳng. Thật là một điều không vui cho quân dân miền Tây nói chung và BĐQ nói riêng, vì sự thay đổi bất ngờ của hệ thống chỉ huy QĐ IV /QK IV. Tướng Trưởng được điều động ra làm Tư Lệnh QĐ I /QK I, Tướng Trần Văn Hai rời BK 44, Trung Tá Trần Kim Đại đi nhận chức Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 1 BĐQ ở Quân Khu I. Riêng tôi đi nhận chức vụ Chỉ Huy Trưởng BĐQ /QK II, tại đây lập tức tham chiến vào mặt trận Kontum, BĐQ /QK II chịu trách nhiệm mở đường Quốc lộ 14, giải toả cụm chốt tại núi Chu Pao. Cùng Liên Đoàn 21 BĐQ/BP do Trung Tá Nguyễn Văn Lang chỉ huy và Tiểu đoàn 62 BĐQ/BP của Đại Úy Phong đã khai thông Quốc lộ 14 mở đường cho chuyến tiếp vận đầu tiên từ Peiku vào Kontum bằng đường bộ. Vào thời điểm này năm xưa, BĐQ /QK IV, đặc biệt là Liên Đoàn 42 BĐQ/CT – Tiểu đoàn 58 BĐQ - và Tiểu đoàn 86 BĐQ/BP, tôi không biết các anh em này nghĩ gì nhưng chắc rằng họ bị hụt hẫng đôi chút. Chẳng còn ai nhắc nhở đến trận chiến khốc liệt tại Kampong Trach, không ai đề cập đến những chiến sĩ hy sinh còn nằm lại trên vùng đất lạnh của xứ Chùa Tháp, nhưng anh em chiến sĩ đã anh dũng chiến đấu tại chiến trường này may mắn còn sống sót. Chiến trường Kampong Trach đã bị lãng quên không phải bây giờ mà ngay từ dạo ấy... Hình như Biệt Động Quân muôn thuở là vậy đó. Họ chưa có một tiếng nói mặc dù BĐQ là một đại đơn vị, một binh chủng lớn. Họ chiến đấu và tiếp tục chiến đấu cho đến khi lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh ban ra. Thôi thì hãy gióng lên tiếng than “Ôi”... Không biết anh em BĐQ có đồng tình như vậy không?

Gần 40 năm qua không ai nhắc đến danh từ Kampong Trach nhưng tôi chắc chắn những người lính Kỵ Binh – Không Quân – Pháo Binh – Công Binh – Biệt Động Quân... đã từng tham chiến ở đó không thể quên, thân nhân bao chiến sĩ đã hy sinh, thân xác còn nằm lại nơi xứ người không bao giờ quên. Chúng ta thì chưa làm được gì cho họ trong lúc này. Ngậm ngùi thay. Đúng là không thể quên cho nên thật bất ngờ, ông bạn KB Điền Đông Phương đã gợi lại Kampong Trach. Tôi không hiểu ông bạn KB Điền Đông Phương suy nghĩ gì, ý tưởng của ông ta ra sao khi viết về trận chiến. Tuy vậy, tôi rất chân thành và vô cùng cám ơn ông bạn KB Điền Đông Phương đã nhắc lại khiến BĐQ Đỗ Như Quyên, BĐQ Trần Duy Hòe, và BĐQ Đỗ Sơn chạnh lòng, có động cơ để nhớ lại, nghiên cứu, tham khảo thêm mà viết lại cho tương đối hoàn chỉnh hầu giúp cho Quân Sử QLVNCH không bị bỏ sót.

May mắn thay. Đáng lý ra Đỗ Sơn đã phải viết đến từ lâu lắm rồi khi Tướng Trưởng còn sinh thời. Tôi biết Tướng Trưởng rất muốn viết về Kampong Trach. Sau thời gian tôi đến được Hoa Kỳ (1993) tôi đã có dịp gặp Tướng Trưởng nhiều lần. Lần nào gặp tôi, Ông cũng nhắc nhở trận Kampong Trach và nói cám ơn tôi về sự có mặt của tôi ở đó. Không phải một lần mà lần nào cũng vậy. Tướng Trưởng nói và tôi ngồi suy tư. Tôi thật tình không muốn tìm hiểu Ông đang suy nghĩ gì, nhưng phải chăng Tướng Trưởng đang ân hận mình đã rời chức vụ QĐ/QK IV quá đột ngột nên có điều chưa làm được của một vị Tư Lệnh đối với anh em chiến hữu??

Linh Cơ

Chú thích của tác giả: Linh Cơ là danh hiệu truyền tin của Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất lúc còn là Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Vùng 4 Chiến Thuật.

Theo tác giả, với công trận tại Vùng 4 Chiến Thuật, tính đến sau trận Kampong Trach, Đại Tá Phạm Duy Tất đã xứng đáng để được thăng cấp. Nhưng có lẽ ông Tất vẫn cứ...chưa tới số. Vừa lập được công lao ở Thất Sơn và Mộc Hóa thì Tướng Nguyễn Viết Thanh tử trận, còn trận Kampong Trach được Tướng Ngô Quang Trưởng khen nức nở thì vừa khen xong ông Trưởng đã lập tức đổi ra Vùng 1. Quả thật, Tướng Tất thường nói mình tuổi con gà nên cứ phải tự mình đi kiếm thóc mà ăn, nhưng tác giả thì nghĩ rằng ông Tất có số...con rệp ( xin lỗi ông Tướng liền ở đây). Năm 2011 sau khi tác giả viết bài Kampong Trach 1972, Tướng Tất liền viết email cho tác giả, trong đoạn cuối có kể Tướng Trưởng mỗi lần gặp ông đều nhắc đến trận Kampong Trach, nên ông Tất tự hỏi “Phải chăng Tướng Trưởng ân hận vì phải đột ngột rời Vùng 4 nên có điều chưa làm xong với anh em chiến hữu”. Lúc đó tác giả không hiểu ông Tất mốn nói cái gì.

Bây giờ bắt tay viết cuốn sách này, Tướng Tất giúp phân tích lại từng trận đánh của ông ở Vùng 4, thì tác giả mới hiểu. Hiểu nên thường chọc ông sếp cũ của mình không biết “đánh trống, gõ phèng la”.