Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Vùng 2 Chiến Thuật
Tháng 5 năm 1972 Đại Tá Phạm Duy Tất rời Vùng 4 lên Vùng 2 Chiến Thuật nhận chức vụ Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Quân Khu 2. Tại sao các Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân ở các Vùng lại có thêm ba chữ “Bộ Chỉ Huy” đàng sau chức Chỉ Huy Trưởng của mình?
Tướng Tất giải thích: Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Vùng chứ không phải Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Vùng. Nhưng ai không chú ý kỹ thì tưởng không có gì khác biệt. Bộ Tổng Tham Mưu khi lập bảng cấp số đã dùng từ hay cụm từ rất chính xác cho hợp với quan điểm xử dụng, Tôi lấy một thí dụ này thì anh dễ hiểu hơn: Về binh chủng Thiết Giáp, tại Quân Khu chức vụ của đơn vị Thiết Giáp là Tư Lệnh Lữ Đoàn Kỵ Binh, nhưng ở Trung Ương thì chức vụ vẫn là Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp; trách nhiệm chỉ huy trực tiếp đơn vị tác chiến rõ ràng bởi hai chữ “Tư Lệnh Lữ Đoàn”. Phía Biệt Động Quân, Bộ Chỉ Huy Trung Ương hay Bộ Chỉ Huy Vùng đều giống nhau, là trách nhiệm, tinh thần, hành chánh, tiếp vận, giám sát, đôn đốc, giúp các Tư Lệnh Vùng trong việc xử dụng Biệt Động Quân hữu hiệu. Bộ Chỉ Huy cũng có đủ thành phần, cơ cấu tham mưu, nhưng quân số rất hạn chế. Các Chỉ Huy Trưởng không có nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy các đơn vị tác chiến. Mỗi Tiểu Đoàn đều có Trại Biên Phòng trách nhiệm, mang tính cách lãnh thổ, mà lãnh thổ thì có các Tư Lệnh Khu Chiến Thuật, Biệt Khu. Quan niệm tổ chức như vầy đã có từ thời Lực Lượng Đặc Biệt. Từ khi tôi bắt đầu chỉ huy Lực Lượng Đặc Biệt Vùng, tôi đã chủ trương thay đổi quan niệm này như anh đã chứng kiến. Tôi cứ tự động thực hiện chủ trương này theo quan điểm của mình mà không thể trình bày cho Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt hay Tư Lệnh Vùng được. Nếu các vị này nghe tôi trình bày về một quan niệm mới ắt quý vị ấy sẽ lúng túng, khó quyết định. Cũng có thể họ sẽ bác bỏ ngay ý định của tôi.Cho nên tôi cứ từ từ thực hiện và từ từ tham chiến. Nói chính xác là tôi lẳng lặng giành quyền chỉ huy trực tiếp quân của mình trong nhiệm vụ tác chiến. Việc làm của tôi có kết quả cụ thể, hữu hiệu thì chẳng ai khiển trách tôi được, lẽ dĩ nhiên cũng không ai khuyến khích, và cũng không ai bắt buộc tôi phải chấm dứt việc làm này. Thật tình mà nói, chỉ có tôi tự muốn tìm cái khổ cực, vất vả cho mình. Ngày tôi còn là Chỉ Huy Trưởng Lực lượng Delta tôi cũng tự động hành quân kết hợp Toán và Đại Đội, Tiểu Đoàn, tôi cũng không trình bày cho Tướng Quảng vì tôi biết ông ta sẽ không cho phép. Tôi cũng biết nếu thất bại thì tôi sẽ lãnh đủ, nhưng tôi tự tin mình sẽ thành công. Tôi luôn cho rằng phải có sáng kiến và luôn thay đổi thì mới tiến, bắt kịp tình hình thay đổi. Nếu không làm thì sao biết được có thành công hay không? Anh cứ nói rằng tôi không biết “đánh trống, gõ phèng la” cũng vì vậy đó. Thời kỳ tôi ở Vùng 4 Chiến Thuật chính là thời kỳ quan điểm của tôi đã trở thành hiện thực và đạt được kết quả tối đa, muốn thay đổi ngược trở lại cũng không được. Tất nhiên không ai thấy rằng tôi đã thực hiện nó trong một thời gian tương đối dài, từ năm 1968 cho đến 1972. Tôi cũng không thể vỗ ngực tự khoe đó là công lao của mình. Đương nhiên là các Tư Lệnh mà tôi đã phục vụ dưới quyền hiểu rất rõ, nhưng ở ngoài đời hay trong quân ngũ đều vậy, lời khen thì hiếm mà lời chê thiếu gì, phải không anh Đỗ Sơn?
Tác giả: Bây giờ thì tôi hiểu, nhưng... vẫn còn thắc mắc, tại sao cấp trên lại thuyên chuyển Chuẩn Tướng sau một thời gian Biệt Động Quân Quân Khu 4 đạt được nhiều thành quả như vậy?
Tướng Tất: Chấm dứt trận Kampong Trach tôi trở về Bộ Chỉ Huy ở Cần Thơ, tôi đã biết có người muốn nhắm vào cái ghế của tôi, nhưng Tướng Trưởng nhất quyết từ chối không thay tôi, chuyện này tôi đã kể cho anh nghe rồi. Tư Lệnh Quân Đoàn bất ngờ ra đi quá vội vã, binh sĩ còn bị lãng quên thì tôi có đáng gì. Khi tôi còn ở Lực Lượng Đặc Biệt tôi đã từng bị như vậy vài lần rồi mà, nên tôi mới đi chỉ huy Lực lượng Delta; lúc đó tôi vui lắm vì biết chắc, đâu có ai muốn tranh giành gì, cực quá và rất nguy hiểm nên tôi đã được yên thân tới 3 năm. Năm 1970 cải tuyển sang Biệt Động Quân, tôi cũng đã chuẩn bị sẵn sàng ra đi. Lúc đó tôi đã đủ lông đủ cánh, huy chương Việt – Mỹ đầy mình tôi đâu có ngán bất cứ chỗ nào. Nhưng chuyện gì đến thì trước sau cũng đến, giữa năm 1972 Tướng Ngô Quang Trưởng rời Vùng 4, Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi về thay thế. Đâu phải tôi không quen Tướng Nghi, tôi biết ông ta hồi còn là Đại Tá Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn I / Quân Khu I, nhưng lúc này ông Nghi mới nhậm chức Tư Lệnh Quân Đoàn IV và vì lý do tế nhị nên tôi đành phải ra đi. Lúc bấy giờ tôi thật sự muốn đi học Chỉ Huy Tham Mưu vì đó là điều kiện bắt buộc và cũng là tương lai. Anh chắc còn nhớ, tôi đã từng xin Tướng Quảng cho tôi được đi học khi tôi phải rời chức Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 111, rời Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Đặc Biệt. Tướng Quảng tưởng tôi bất mãn, trợn mắt thẳng thừng nói với tôi “Anh muốn đi học thì hãy để cái lon Thiếu Tá lại đây rồi đi”. Tôi tắt tiếng, chỉ biết ngậm ngùi đưa tay chào rôi quay gót trở ra.
Tác giả xen vào: Lời nói là của Tướng Quảng, nhưng ý thì của ông Trời, Chuẩn Tướng ơi...
Tướng Tất cười: Ừ, cứ cho là vậy đi. Trở lại chuyện đang nói ở Vùng 4 thì trước khi bàn giao chức vụ, Tướng Nghi gặp tôi và nói “Thôi anh cứ ở lại đây với tôi, tôi sẽ sắp xếp cho”. Làm gì mà tôi không biết nếu tôi muốn một chức hành chánh thì sẽ có thôi, nhưng tôi chưa bao giờ có ý định làm chức vụ này nên tôi nói với ông là muốn được xin nghỉ ngơi một thời gian và đi học, xin để tôi rời Vùng 4 Chiến Thuật. Tôi chưa về trình diện Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Sài Gòn thì Đại Tá Trần Công Liểu, Chỉ Huy Trưởng, đã xuống tận Cần Thơ bảo tôi đi nhận Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân Quân Khu 2. Tôi từ chối ngay vì không muốn mang tiếng giành chỗ của người khác. Đại Tá Liểu biết không thuyết phục được tôi nên bày một kế khác khiến tôi mắc bẫy. Tôi khăn gói về Sài Gòn trình diện thì ông Liểu rủ tôi đi Pleiku chơi và nhân tiện thăm Tướng Ngô Dzu luôn. Tôi và Đại Tá Liểu đến Pleiku vào gặp chào Tướng Ngô Dzu, vừa thấy mặt tôi ông Dzu nói ngay “Mi lên đây làm việc với tau”. Tôi nghẹn họng chỉ biết trả lời “Dạ”. Thế là tôi chính thức trở thành Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Quân Khu 2. Tôi muốn kể thêm với anh chuyện này, tôi đã sắp xếp chuyện đi học, sau đó là kiếm cái chức Trung Đoàn Trưởng ở Vùng nào nguy hiểm nhất.. Tôi đã liên lạc với Tướng Phú đang là Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh cho tôi về lại Sư Đoàn 1, đơn vị đầu đời lính của tôi; nhưng Tướng Phú cản và còn nói là nhân sự tại Huế phức tạp lắm. Sở dĩ tôi muốn vậy là vì trong thâm tâm tôi đang hình thành một ý tưởng, mình ở Biệt Động Quân tuy đã chỉ huy đơn vị tương đương cấp Sư Đoàn, lãnh thổ trách nhiệm cũng vậy, nhưng Biệt Động Quân yếu thế, chẳng có tiếng nói; tôi chuẩn bị và quyết phải đi theo con đường chính quy.
Phần tác giả, vì “hạp phong thủy” với sông nước, đã không đi theo Đại Tá Tất tới vùng rừng núi, ông Tất cũng giận nhưng không nói cho mãi tới sau này gặp nhau lại tại Hoa Kỳ. Lúc đó, Đại Tá Tất một thân một mình lên Pleiku, chắc lúc đó càng giận “cái thằng em không tình nghĩa” này. Sẵn dịp cũng xin độc giả cho phép được tâm sự lai rai, vì ở lại tác giả có dịp làm việc với Trung Tá Lê Bảo Toàn, một vị Sĩ quan tác giả kính phục như Tướng Tất. Tình nghĩa của lính thì thương mến chưa đủ, phải có thêm sự kính phục, thiếu kính phục thì... chưa trọn gói.Sau cơn hoạn nạn mất nước rồi đi tù Cộng Sản, Trung Tá Lê Bảo Toàn tới Orange County, nơi tác giả đang “lâm trận” báo – đài. Mỗi lần tác giả đụng nặng đều có sự xuất hiện của ông Toàn, ở hoàn cảnh mới thì ổng cũng đâu làm gì được hơn, chỉ một cái vỗ vai, chỉ một câu “Ráng lên, Sơn” nghe thiệt là... tình. Tình lính!
Không có tác giả đi theo, khi lên Vùng 2 Đại Tá Tất đã xử dụng lại Tùy Viên của Đại Tá Đương vừa rời nhiệm sở. Ông Tất thường nói với tác giả Thiếu Úy Mạch Thiệu Hùng chịu cực khổ – nguy hiểm với tôi nhiều lần hơn anh ở Vùng 4, lúc đó tôi vẫn muốn làm cho anh ta một việc gì đó để đền đáp, nhưng chưa có dịp thì đã xảy ra chuyện “sập trời”. Những ngày đầu của Đại Tá Phạm Duy Tất ở Quân Khu 2 trong khi trận Mùa Hè Đỏ Lửa vẫn còn âm ỷ chưa tàn cuộc, Ông Tất nói mình điên đầu luôn vì hết Tiểu Đoàn này bị đánh tan, Trại Biên Phòng kia bị địch tràn ngập...
Hỏi thì Tướng Tất lắc đầu: Tại Bộ Chỉ Huy mà chỗ nào cũng thấy lính, chỗ nào cũng thấy gia đình binh sĩ, tôi chẳng còn suy nghĩ được điều gì ngoài việc cố gắng ngày đêm ổn định tình hình, tái lập đơn vị, bổ sung quân số, sắp xếp nơi đồn trú mới... Có lẽ thấy tôi đến nhận nhiệm sở một thân một mình nên Ban Tham Mưu ai cũng cố gắng hăng say làm việc. Chỉ một thòi gian ngắn thì mọi việc đâu vào đấy, trật tự vãn hồi, các đơn vị bắt đầu có lại sinh khí. Tôi đang suy nghĩ mình phải làm thế nào với Vùng 2 đây, rõ ràng là hoàn toàn khác với Vùng 4, tôi chưa kịp gặp lại Tướng Ngô Dzu thì nghe tin có sự thay đổi. Tướng Ngô Dzu phải rời Quân Đoàn II vì bất đồng với Cố Vấn Trưởng John Pauul Van, Nguyễn Văn Toàn về thay thế.
Tác giả: Chuẩn Tướng đã từng quen biết với Tướng Toàn không? Đây là 1 vị Tướng được khá nhiều Sĩ quan sau này viết bài ca ngợi là mạnh mẽ, cương quyết?
Tướng Tất: Chưa. Tướng Toàn với tôi thật xa lạ. Thấy đoàn tùy tùng của ông ta thật hùng hậu, tự nhiên tôi cảm nhận sự lạc lõng của mình. Tôi vào trình diện ông Tướng mà hai bên chỉ quan sát lẫn nhau, nhìn tôi với đôi mắt đầy nghi ngờ, không hỏi tôi bất cứ điều gì, không hỏi đến cả các đơn vị Biệt Động Quân ra sao. Tình hình chiến sự tuy đã có phần lắng dịu nhưng Sư Đoàn 23 còn kẹt tại Kontum, Quân CSBV vẫn còn áp sát, pháo kích vẫn tiếp tục, con đường bộ tiếp tế cho Kontum từ Pleiku còn bị chốt ở rặng núi Chu Pao, chỉ cách Kontum khoảng hơn 1 cây số. Tại đây Thiếu Tá Nguyễn Văn Lang đang chỉ huy 3 Tiểu Đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng được điều động từ Ban Mê Thuột lên tăng cường, đang cố gắng phá chốt, giải tỏa đường. Tôi đến Pleiku thì Đại Tá Nguyễn Văn Đương lên máy bay theo Đại Tá Liểu về Sài Gòn nên tôi không rõ đơn vị Biệt Động Quân này thống thuộc ai, Đại Tá Đương có chỉ huy trực tiếp đơn vị này không. Tôi không có thì giờ và cũng không muốn hỏi, tôi đến gặp Thiếu Tá Lang tại địa điểm hành quân, thăm hỏi và xem xét tình hình.
Thiếu Tá Lang người nhỏ thó, đen thủi đen thui, cái đầu trọc lóc nên có biệt danh là Lang trọc. Ông ta cùng khóa Thủ Đức với tôi, từ ngày rời quân trường tới nay mới gặp lại. Tay bắt mặt mừng, ôm nhau khắng khít, tôi thì “mày tao” với ông ta, nhưng có lẽ ông ta ngại cái lon Đại Tá của tôi nên đành phải xưng hô cho đúng phép. Tôi biết ông Lang lúc còn là Đại Úy từng là Đại Đội Trưởng Biệt Động Quân Biệt Lập, dày dạn trận mạc với núi rừng Tây Nguyên, đánh giặc rất giỏi nhưng ba gai, say sưa, phá làng phá xóm nên đã bị Tướng Đỗ Cao Trí cho vào ngồi quân lao Nha Trang nghỉ mát một thời gian tương đối dài, mới được ra tù đưa về Ban Mê Thuột chỉ huy 3 Tiểu Đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng tại đây. Mùa Hè Đỏ Lửa ông Lang đã lập được chiến công nên vừa được đặc cách lên Thiếu Tá. Tôi theo dõi đơn vị của Thiếu Tá Lang đang phá chốt tại Chu Pao và gọi luôn đơn vị của ông là Liên Đoàn 21 Chiến Thuật Biệt Động Quân Biên Phòng như tôi đã gọi các Liên Đoàn tại Vùng 4 Chiến Thuật vậy.Thế là danh xưng đó đã dính liền với đơn vị cho đến 1975. Nhưng trong mấy ngày liền mà Liên Đoàn 21 vẫn chưa giải tỏa được con đường, Tướng Toàn gọi tôi vào trình diện, to tiếng trách mắng rồi giao cho tôi trách nhiệm mở đường. Càng ngày tôi càng thấy được phương pháp chỉ huy của Tướng Toàn, là một vị chỉ huy ngắn gọn, không biết ông có rõ về lực lượng trong tay mình không, cứ ra lệnh coi mình có làm xong không rồi mới... tính.
Lúc đó tôi đâu có quyền xử dụng Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân Tiếp Ứng, tôi chỉ có trong tay Liên Đoàn 21 Biệt Động Quân Biên Phòng, và Tiểu Đoàn 62 vừa tái tổ chức lại sau khi tan hàng. Coi như chỉ có 1 Liên Đoàn +. Ban đầu tôi cứ để Liên Đoàn này đánh theo kiểu chiến tranh quy ước phá chốt, mở đường. Ngày nào họp Tham Mưu Quân Đoàn, Tướng Toàn cũng la lối om sòm, đòi tôi phải bắt tay được với lực lượng trên Kontum cho sớm. Tôi suy nghĩ đánh theo kiểu này chắc không xong, liền gọi Thiếu Tá Lang về gặp. Và cũng gọi luôn Đại Úy Phong, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 62. Đại Úy Phong xuất thân Đà Lạt, vừa gặp; vừa gặp là tôi thích liền, con người dễ mến, năng động. Tôi thấy cần phải thay đổi cách đánh phá chốt theo chiến thuật của Lực Lượng Đặc Biệt. Lệnh mới của tôi là Tiểu Đoàn 62 thay Liên Đoàn 21 tiến theo trục lộ 14 phá chốt, ông Lang sẽ dẫn Liên Đoàn 21 xuất phát từ trại Plei Mrong của Tiểu Đoàn 63, hành quân đêm xuyên rừng. Tôi hướng dẫn cho Thiếu Tá Lang phải di chuyển suốt đêm, tránh chạm địch càng tốt, sáng hôm sau phải có mặt tại Kontum bắt tay với Sư Đoàn 23 BB. Ý của tôi là muốn cắt ngang con đường giữa những cái chốt và Bộ chỉ huy chốt của địch quân, tạo một bất ngờ mà địch chưa từng gặp phải.
Thiếu Tá Lang dẫn Liên Đoàn hành quân đêm, đi ào ào một mạch tới Kontum, sáng hôm sau đã bắt tay được với Sư Đoàn 23 BB. Đúng là bất ngờ, vì sau khi việc này xảy ra quân CSBV rút lui hết, bỏ chốt trên đường 14. Đại Tá Phạm Duy Tất không tốn viên đạn nào hết mà đã thành công. Báo cáo với Tướng Toàn đường 14 đã khai thông, đoàn công voa lần đầu tiên ồ ạt chở đồ tiếp tế cho Kontum và Sư Đoàn 23 BB. Dân ai ai cũng vui mừng, xe dân sự chạy tấp nập. Tướng Tất kể, nghe tôi báo cáo, nét mặt đã thay đổi, xem ra địa vị của tôi trong lòng Tướng Toàn đã có chút uy tín, tin tưởng. Ông thưởng công tôi bằng cách... giao luôn mặt trận Kontum cho tôi, rút toàn bộ Sư Đoàn 23 BB về dưỡng quân. Xem như đây là công đầu của tôi tại Vùng 2 Chiến Thuật.
Tướng Tất nói: Nhận trách nhiệm trấn thủ Kontum với chỉ 4 Tiểu Đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng, mà 1 Tiểu Đoàn đã phải giữ đường ở khúc Chu Pao để duy trì tiếp vận đường bộ, thành tôi cũng hơi run. Nhưng nhiệm vụ là nhiệm vụ, run hay không run thì cũng phải thi hành, có bao nhiêu chơi bấy nhiêu chớ xin quân ở đâu ra!! Phải chi Tướng Toàn giao cho tôi thêm Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân Tiếp Ứng thì tôi cảm thấy ấm áp hơn, khổ là Liên Đoàn này vẫn tiếp tục tăng phái cho Quân Khu 1 để hành quân giải tỏa quận Đức Phổ, Quảng Ngãi. Trước khi làm Tư Lệnh Quân Đoàn II, Tướng Toàn là Tư Lệnh Sư Đoàn 2 ắt biết rõ Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Quân Khu I chỉ làm đúng theo bảng cấp số, nghĩa là không cần trực tiếp chỉ huy tác chiến các đơn vị Biệt Động Quân. Tôi thì khác, tôi luôn luôn muốn chỉ huy trực tiếp các đơn vị của mình, không muốn họ phải đi tăng phái. Tướng Toàn có nghiên cứu hồ sơ của tôi không, tôi không thể xác nhận, nhưng tôi tin là có, bởi vì nếu không thì ông sẽ không bao giờ liều lĩnh giao cho tôi một nhiệm vụ như thế này. Tôi suy nghĩ, lực lượng CSBV tấn công vào không mạnh như tại An Lộc, Quảng Trị và đã tổn thất nặng nên phải rút lui, không thể quay lại tấn công lần nữa. Chắc chắn Tướng Toàn cũng đã thấy được như vậy nên mới dám lệnh cho tôi cầm một lực lượng ít ỏi để bảo vệ Kontum. Thật ra thì Tướng Toàn cũng không còn quân để tăng phái cho tôi. Hai Sư Đoàn BB thì đều đã từng được xử dụng ở Tân Cảnh và Kontum trước đây, giờ thì phải dưỡng quân và tái tổ chức cho họ. Dù quân của tôi ít ỏi, kém chất lượng, tôi cũng phải bung ra nới rộng vòng đai phòng thủ. Tôi thắc mắc vì lý do gì mà các Trại Biên Phòng vùng Ban Mê Thuột rút bỏ tất cả để có 3 Tiểu Đoàn Biệt Động Quân Biên Phòng mà vị chỉ huy tiền nhiệm của tôi là Đại Tá Đương đã tập trung lại xử dụng như một Chiến Đoàn cơ động..
Với thành tích mở lại đường tiếp vận từ Pleiku lên Kontum, tôi đề nghị cho Thiếu Tá Lang lên Trung Tá, trước là giúp bạn đồng khóa, sau nữa là thử phản ứng của Tướng Toàn. Bước đầu tôi đã gây được ấn tượng tốt, nay tôi muốn thử đo lường trọng lượng tiếng nói của mình. Thật nhanh, ông Lang Trọc của tôi đã là Trung Tá Liên Đoàn Trưởng. Mùa Hè Đỏ Lửa mà, Phòng Tổng Quản Trị Bộ Tổng Tham Mưu làm thăng cấp mệt nghỉ.
Có thể nói, đối với các thượng cấp chỉ muốn yên ổn qua ngày thì Đại Tá Phạm Duy Tất chính là ... siêu quậy. Ông Tất nói, nay đã có chút thì giờ thì tôi lại nghĩ đến vấn đề Biên Phòng của Vùng 2. Nhìn lại Biên Phòng Vùng 4, có thể nói cho tới giữa 1972 thì ông Tất đã giúp khóa lại biên giới Việt – Miên. Vị trí chiến lược Thất Sơn đã bị phía mình chiếm giữ, bất cứ Đại đơn vị Cộng Sản nào vượt qua Rừng Tràm Trà Tiên bị ta phát hiện kịp thời ắt sẽ bị tiêu diệt. Phía Bắc Cộng cũng biết vậy nên cố gắng tái chiếm Thất Sơn đang do Địa Phương Quân trấn giữ, Tướng Trưởng đã đưa Sư Đoàn 9 BB vào khu vực để chiếm lại một lần nữa. Thế là phía Bắc Cộng chuyển sang con đường Mộc Hóa bên phía Đông, cũng bị Biệt Động Quân Biên Phòng truy quét. Họ đưa nguyên Sư Đoàn 1 CSBV vào Mộc Hóa thì Tướng Trưởng đưa Sư Đoàn 7 BB tới đối chiến, địch thảm bại không còn dám manh nha đưa đại quân vào đồng bằng sông Cửu Long nữa.
Đột nhiên, Ông Tất đổi “tông” tâm sự: Tôi đang ở Kontum mà cứ miên man nghĩ về số phận long đong của mình. Người ta chỉ dự một trận Mùa Hè đỏ lửa thì đủ nhớ đời về sự khốc liệt của nó, còn tôi cùng anh em binh sĩ sau Cô Tô, Rừng Tràm Trà Tiên, Mộc Hóa, thì hơn tháng trời co mình trong căn cứ Kampong Trach chịu pháo địch với cường độ ác liệt chưa từng có ở Vùng 4. Nhiều lần nhìn Trung Úy Thạch Kiết, Sĩ Quan Công Vụ Liên Đoàn 42, chỉ huy đào cuốc chôn cất anh em tử sĩ thuộc tất cả các binh chủng trấn thủ căn cứ, tôi cố dằn nhưng không ngăn được nước mắt cứ tuôn xuống, nước mắt tiếc thương thuộc cấp của mình nhưng cũng là nước mắt uất ức vì mình không đủ quân và phương tiện đáp trả lại địch quân. Lại nghĩ đến vợ lính, con lính khi nhận được tin dữ của chồng – cha, và còn những người lính phải gửi nắm xương tàn trên đất người không được trở lại với quê hương. Giữa tiếng pháo địch ầm ầm mà tai như đang nghe được dòng nhạc “Ngày mai đi nhận xác chồng...”, ôi, cái buồn dâng đến tận bậc cuối não nề thấm thía, buồn tới nẫu người. Tôi cũng như những người lính khác thôi, tôi chỉ biết hết mình phục vụ Quốc Gia, Quân Đội, nhưng sao tôi cứ long đong mãi như vầy? Nhưng rồi cũng tự nhủ, mình tình nguyện đi vào Kampong Trach thì tự mình phải chấp nhận, trách móc chờ đợi gì ai. Tôi biết ít ra mình còn may mắn hơn nhiều đồng đội là.... tôi còn sống. Ừ, còn sống!
Tác giả nghe giọng đều đều của Tướng Tất, giọng của một “ông Tất khác”, cái “ông Tất khác” đó đã được Tướng Tất dấu kỹ trong những ngày tháng binh đao, thời đó “ông Tất khác” chỉ có thể xuất hiện khi “ông Tất này” ngả lưng xuống cái ghế bố nhà binh mỗi tối. Nhưng chiến tranh mà, chiến tranh bất kể buồn vui, chiến tranh bất kể đau thương chết chóc, chiến tranh thúc người lính chạy tới, phải bóp cò, phải hô xung phong, phải quên tất cả chỉ được nhớ tới sách lược mưu tính; bởi nếu địch không chết thì ta chết, khổ hơn nữa là không chỉ ta,mà còn gia đình ta, thân quyến ta, láng giềng ta và cả Miền Nam Tự Do của chúng ta.
“Ông Tất này” trở lại: Ở Vùng 2, mất căn cứ Tân Cảnh phía Bắc Kontum, Sư Đoàn 22 BB tổn thất nặng nề, thì tôi thấy hệ thống Biên Phòng tại đây hoàn toàn bị tê liệt và sẽ phải bỏ ngỏ. Thời kỳ chỉ huy lực lượng Delta tôi đã thấy, phía Tây Đà Nẵng, ở Vùng 1 Chiến Thuật là 1 vị trí chiến lược quan trọng vì nó là điểm khởi đầu nối đường mòn Hồ Chí Minh vào quốc lộ 14 để địch tràn xuống miền Nam.Tôi nhớ lúc đó có lần bay vào Trại Khâm Đức, tôi đã hành quân ra vào trại này nhiều lần, nhưng lần đó nguy hiểm vô cùng, không phải vì địch mà vì thời tiết. Tôi vừa đổ quân xong ở biên giới Lào – Việt đang bay trở về thì trời đổ cơn mưa tầm tã, lớn như mưa bão, trời đất mịt mùng không còn thấy gì cả, trực thăng có thể vướng cây rừng cao rậm rạp hay đụng vào vách núi không biết lúc nào. Anh Thiếu Tá phi công Mỹ lái chiếc C&C chở tôi và Cố vấn bị Vertigo, đang bay bình phi, tự nhiên tôi thấy anh ta nhấc mũi trực thăng bay thẳng lên trời, qua ánh đèn trực thăng nhìn lại phía sau tôi thấy nguyên đoàn phi cơ cũng làm theo. Tôi đập vai anh Cố vấn, anh ta lập tức đánh mạnh vào gáy anh Phi công, anh này giật mình lấy lại bình phi. Sau đó lòng vòng tìm mãi không thấy Trại Khâm Đức để đáp tạm, thật là chết dễ như chơi. May lắm, vào lúc cả đoàn trực thăng đang lúng túng, phải nói là sợ hãi mới phải, thì Trại đã đốt sáng lên cả dãy đèn phi trường, chúng tôi mới thấy mà đáp xuống. Thì ra chúng tôi đang ở ngay phía trên trại mà không biết, đáp xuống được mọi người ôm nhau mừng hết biết luôn.
Sau “Việt Nam hóa chiến tranh”, Trại Khâm Đức bị rút bỏ, thì Biên Phòng Vùng 2 Chiến Thuật nhất định sẽ bị lâm nguy. Căn cứ Tân Cảnh cũng vậy, còn thì các Trại Biên Phòng Tây Nguyên mới còn hy vọng, Tướng Toàn nhiều lần muốn tái chiếm Tân Cảnh nhưng không đủ quân.Tôi đang là người chỉ huy Biệt Động Quân của Vùng 2, thấy tình hình Biên Phòng Tây Nguyên kể như vô vọng, tôi muốn nỗ lực như đã làm ở Vùng 4, nhưng tôi biết đây là vấn đề lớn, ngoài tầm tay của mình. Chỉ còn có thể cố gắng lo lắng cho các Trại, các Tiểu Đoàn Biên Phòng còn nằm dọc theo biên giới hẻo lánh xa xôi chẳng khác gì những ngọn đèn trước gió.
Sau khi các Trại Biên Phòng toàn quốc cải tuyển sang Biệt Động Quân, nhìn chung thì Binh chủng Biệt Động Quân rất phấn khởi, đột nhiên quân số tăng lên cái ào, trở thành 1 Binh chủng lớn nhất trong Quân Đội. Nhưng cái thế vẫn là yếu nhất. Tướng Đỗ Kế Giai về thay Đại Tá Trần Công Liểu thật hợp tình hợp lý. Nhưng với chức vụ quá mới mẻ, Tướng Giai có kịp thấy các Tiểu Đoàn Biên Phòng của mình đang trong cơn hấp hối không?
Tướng Tất: Về phần Kontum, tuy bị tổn thất nặng trong trận tấn công vừa qua, nhưng quân Bắc Cộng đã lấy lại sức tương đối nhanh, bắt đầu dòm ngó tới hệ thống Biên Phòng tại Kontum. Khởi đầu là Trại Dak San của Tiểu Đoàn 90 Biệt Động Quân Biên Phòng. Trước đây quân Bắc Cộng đã đánh Trại nhiều lần, nhưng đều lãnh đủ thất bại. Bây giờ thì khác, không yểm bị hạn chế, quân tăng viện không có, cuối cùng Trại Dak San lọt vào tay Cộng Sản. Tiểu Đoàn 90 đành phải rút đi, tôi có thêm 1 Tiểu Đoàn cơ động mà không vui mừng chút nào. Tôi tự hỏi mình, vì phía ta không có kế hoạch tốt về các Trại Biên Phòng Vùng 1, 2, 3 Chiến Thuật hay vì quân Mỹ đã để lại cho quân đội Việt Nam một gánh nặng không thể giải quyết? Tôi nghĩ, lý do là vì...ta, chúng ta không có một kế hoạch cụ thể, một cố gắng nào. Tôi nhớ câu tục ngữ “Bỏ thì thương, vương thì tội”, các Tướng Lãnh có trách nhiệm, các cấp lãnh đạo quân sự đều biết duy trì các Trại Biên Phòng ở Vùng 1, 2, 3 Chiến Thuật là quá khó khăn, nhưng rút bỏ để bảo toàn lực lượng cũng không thể, mặc nhiên chấp nhận đến khi bị đánh chiếm mất thì phải chịu mất thôi, tôi cảm thấy buồn vô hạn. Trại Biên Phòng cuối cùng của Vùng 2 bị mất là Trại Ben Het, từ Trại nhìn xuống là quốc lộ 14, quân Bắc Cộng đã có được một vùng đất rộng lớn ở phía Tây và Bắc Kontum. Mất Trại Ben Het không quan trọng, bởi ta đã đếm từng ngày một, và ngày nào Trại Ben Het cũng lãnh pháo địch. Quan trọng nằm ở chỗ Cộng Sản đã nối liền đường mòn Hồ Chí Minh vào quốc lộ 14, từ Khâm Đức chạy dài xuống phía Tây Kontum. Họ ngang nhiên hoạt động tu bổ cầu cống, nới rộng đường sá công khai giữa ban ngày bằng phương tiện cơ giới. Tôi và Tướng Healey ngày nào cũng có mặt trên vùng trời Trại để yểm trợ phi pháo. Năm 1972 các trại thuộc lãnh thổ Pleiku cũng bị mất, chỉ còn 2 trại là Pleime nằm phía Tây do Tiểu Đoàn 82 trấn giữ, và Trại Plei Mrong của Tiểu Đoàn 63 nằm phía Tây Bắc. Ta cương quyết giữ 2 trại này vì là vòng đai phòng thủ Pleiku, nằm cách Pleiku chỉ trong vòng 20 cây số. Có lẽ phía Bắc Cộng cũng hiểu được chuyện này nên vì không muốn bị tổn thất, họ tạm để cho Trại Pleime và Plei Mrong tạm yên ổn.
Quân Đoàn II / Quân Khu 2 rõ ràng đã mất thế chủ động.Ta không thể mở chiến dịch đánh lớn, cũng không thể hành quân “tìm và diệt” nữa. Trái lại quân Bắc Cộng thì có thể, nếu họ muốn. Tình hình tạm yên ổn là vì quân Bắc Cộng đã rút sâu về phía Tây, chỉ còn tổ chức quấy rối lẻ tẻ, thường xuyên chốt chặn các trục lộ giao thông, đánh phá các quận lỵ, pháo kích vào phi trường và Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn. Thế phòng ngự của Quân Đoàn II ở Cao nguyên với một Sư Đoàn 23 BB mà phải trải mỏng trên lãnh thổ của 4 tỉnh từ Kontum đến Quảng Đức.
Trở về phần Đại Tá Tất, “trận ngộ nghĩnh” nói ở một đoạn trên, phá chốt giải tỏa đường bắt tay Sư Đoàn 23 không phải là “trận ngộ nghĩnh” duy nhất. Tướng Tất kể rằng, núi Chu Pao và đường 14 giữa Pleiku – Kontum, Cộng Sản chốt chận rất nhiều lần, đơn vị quân Bắc Cộng này rút đi thì đơn vị khác lại tới đóng chốt tiếp. Lần nào Tướng Toàn cũng hối Đại Tá Tất phải giải tỏa gấp. Có một lần Tiểu Đoàn của Đại Tá Tất đánh liên miên cả tuần lễ mà không phá chốt được. Ông nói họp Tham Mưu, Tướng Toàn chửi như tát nước vào mặt tôi. Ông Tất buồn quá lùi thủi đi ra thì Tướng Healey chạy theo rũ ông đi bay. Bấy giờ ông Healey đã lên Tướng, thuyên chuyển ra Vùng 2 làm Cố Vấn Trưởng Quân Đoàn. Bay lên Vùng hành quân Đại Tá Tất chỉ cho Tướng Healey tình hình dưới đất, ông ta chẳng nói lời nào. Khi trực thăng đáp xuống, Tướng Healey lôi trong túi áo ra cái nón bê rê xanh cầm dí dí vào mặt Đại Tá Tất rồi bỏ đi mất. Tướng Tất kể, lúc đó tôi tự hỏi cha nay làm cái trò gì vậy. Từ khi chỉ huy Biệt Động Quân tôi đã quên hẳn tôi gốc Lực Lượng Đặc Biệt. Là Biệt Động Quân nên cứ để đơn vị mình đánh theo quy ước, quên hẳn màn đánh đêm là nghề của mình. Từ phi trường ông Tất lái xe chạy thẳng lên mặt trận, gọi Tiểu Đoàn Trưởng đừng cố đánh gì nữa, chỉ cho binh sĩ nhấp nhứ để xác nhận địa điểm các chốt địch, đợi đêm tối tới thì làm như vầy...
Đêm đó Tiểu Đoàn 90 Biệt Động Quân Biên Phòng do Đại Úy Phan Bát Giác chỉ huy đã tổ chức những toán cảm tử, cầm toàn lựu đạn bò sát tung xối xả vào chốt địch đồng thời hô xung phong vang trời, rồi...rút về. Vậy mà sáng hôm sau Tiểu Đoàn nhấp tới thì thấy quá yên tĩnh Quân CSBV đã rút toàn bộ, đường lại khai thông. Tướng Tất kể và cười, lần thứ nhì tôi không đánh gì cả mà thành: Tướng Healey, ông bạn lâu năm nhất của tôi, ông ta hơn tôi khoảng 10 tuổi nhưng luôn luôn nói “You are my son” (Mầy là con trai của tao). Hành động dí dí chiếc mũ bê rê xanh của Tướng Healey vào tôi chẳng những đã khiến tôi điều khiển Tiểu Đoàn 90 BĐQ Biên Phòng giải tỏa chốt địch nhanh chóng, khai thông con đường, mà còn làm tôi tỉnh ngộ về vai trò của mình ở Vùng 2.