← Quay lại trang sách

TÔI LÀ CỬA RA VÀO Tác Giả: Steven King

Tôi và Ri-trác ngồi ở bậc thềm nhà tôi và ngắm nhìn các cồn cát và cái vịnh. Làn khói thuốc của anh bay quyện quanh chúng tôi, khiến cho các chú muỗi không tới gần được. Cái vịnh có màu xanh dịu. Còn bầu trời, thì màu xanh sẫm. Thật là một sự kết hợp tuyệt diệu!

- Cậu là cửa sổ nhìn ra thế giới của chúng - Ri-trác nhắc lại, vẻ trầm ngâm - Nếu cậu không giết ai. Nếu chỉ là cậu mơ thấy điều đó?

- Không phải là tôi mơ. Chỉ có điều là, tôi đã không giết cậu bé. Tôi nhắc lại: chúng đã giết. Tôi là cửa sổ nhìn ra thế giới của chúng.

Ri-trác thở dài:

- Cậu đã chôn cậu bé?

-Phải.

- Ở đâu? Cậu có nhớ không?

- Có. - Tôi nhét điếu thuốc vào túi áo ngực. Tôi gượng gạo dùng hai bàn tay bị băng bó để làm điều đó. Hai bàn tay lại làm cho tôi bị ngứa ngáy.

- Nếu muốn biết rõ, cậu hãy ngồi lên xe địa hình. - Tôi chỉ vào cái ghế dành cho người tàn tật, nói: - Cái thứ này không chuyển động trên cát được.

Tôi muốn nói đến chiếc xe địa hình nhãn hiệu "Phôn-cơ-va-gen”, mô hình năm 1959, được lắp các lốp xe đặc biệt. Anh đã sử dụng chúng để thay thế các bánh xe bằng gỗ đã bị gãy trước đây. Lúc nghỉ hưu và thôi không kinh doanh bất động sản ở Mêrilenda, anh chuyển về Ki Kêrôla và làm nghề khắc tượng gỗ, để tới mùa đông, thì bán cho khách du lịch với giá cao ngất ngưởng.

Ri-trác giơ điếu thuốc lá lên, nhìn ra vịnh:

- Điều đó là chính xác. Cậu hãy kể lại lần nữa xem tất cả chuyện đó đã xảy ra như thế nào.

Tôi thở dài và làm rơi các que diêm. Anh sắp chúng lại và châm thuốc cho tôi bút. Tôi rít liền hai hơi dài. Các ngón tay của tôi lại ngứa ran lên.

- Được. Ngày hôm sau, vào lúc 7 giờ tối, tôi đã ngồi đây hút thuốc và...

- Không, sớm hơn - anh chữa lại.

- Sớm hơn à?

- Hãy bắt đầu từ chuyến bay.

Tôi gật đầu, nói:

- Anh nghe đây, trong chừng mực có thể được.

- Cậu có chợt nhớ tới - Anh ngắt lời - Khuôn mặt của anh đầy nếp nhăn, chứa đựng điều gì đó rất bí ẩn, như các bức tượng của anh. Chính lúc này.

- Anh nghĩ thế nào?

- Hãy thử xem. Sau đó, cậu hãy tìm ngôi mộ!

- Ngôi mộ - Tôi nhắc lại - Dường như lời nói đó vang lên từ cái hố đen, đen hơn cả cái sa mạc trên vũ trụ, nơi họ đã đưa chúng tôi cùng với Côri tới hồi 5 năm trước đây. Tối như bưng.

Dưới lớp vải băng, những con mắt mới của tôi nhìn xuyên vào màn đêm. Chúng làm tôi phát điên lên vì ngứa ngáy. Chiếc máy bay trang bị tên lửa “Xa-tun 16” đã đưa tôi và Côri lên quỹ đạo. Các phóng viên truyền hình đã gọi nó là Empair Stêi Binding. Tôi sẽ kể cho anh nghe. Để phóng nó, bệ phóng phải sâu tới 200 foot. Nếu không, nó sẽ cày nát một nửa của mũi đất Kennedi. Cạnh nó là cái “Xatun 16” cũ kỹ trông như đồ chơi.

Chúng tôi bay quanh trái đất, kiểm tra các hệ thống trên tàu và sau đó, bay về hướng Vênera. Còn ở Thượng nghị viện lúc đó, đang nổ ra những cuộc tranh luận quan trọng xung quanh vấn đề kinh phí bổ sung cho công cuộc chinh phục vũ trụ và ban lãnh đạo NASA đã khẩn thiết yêu cầu chúng tôi đừng trở về với hai bàn tay trắng.

- Với bất cứ giá nào - Đôn Lôvinghe, người cổ vũ bí mật của chương trình “Zepxờ” nói sau khi nâng cốc thứ ba - Con tàu của các anh có gắn các thiết bị hệ thống camera truyền hình, kính thiên văn độc nhất vô nhị. Các anh hãy tìm cho chúng tôi vàng hoặc bạch kim. Tốt nhất là hãy tìm những con người nhỏ bé đáng yêu, có màu xanh. Sau đó, chúng ta sẽ nghiên cứu họ như nghiên cứu những loài sâu bọ. Thậm chí, bắt đầu từ cái bóng của người cha của Hămlét.

Ai là người phản đối, miễn không phải là tôi và Côri. Nhưng lần này, cuộc chinh phục vũ trụ xa xôi đã không đạt được các kết quả mong muốn.

Năm 1968: Đội bay gồm Bốpman, Anđexơ và Lôvét, sau khi đổ bộ lên mặt trăng, đã khám phá ra một thế giới hoang vu không nhà cửa giống như cái bãi tắm bẩn thỉu của chúng ta. Năm 1979, Mác-phen và Ziếcxơ đã đổ bộ lên Sao Hoả, nhưng không phát hiện được gì, ngoài các loại tảo cằn cỗi. Hàng triệu khu rừng hoang, cộng thêm những mất mát của con người: Pêđecxen và Lêđekerơ bay xung quanh mặt trời đã gặp tai nạn trên tàu “Apôlông” vào thời gian gần đây. Giôn Đêvít cũng không may mắn - mảnh vỡ của thiên thạch đã chọc thủng đài quan sát trên quỹ đạo của anh. Chẳng phải nói, rõ ràng là chương trình đã không mang lại hiệu quả nào. Cũng như cuộc thăm dò Vênera không có tính thuyết phục ở điểm này.

Mười sáu ngày đã trôi qua. Chúng tôi đã không ăn hết một hộp thức ăn cô đặc, không chơi được ván cờ nào, nhưng thực tế, công việc đã diễn ra một cách tạm được. Đến ngày thứ ba, chúng tôi đã mất bộ phận hút không khí, phải dùng bộ phận phụ - tài sản riêng. Sau đó, chúng tôi bay vào tầng khí quyển của Venêra. Trước mắt chúng tôi nó chuyển thành màu bạc như quả cầu pha lê màu trắng sữa. Chúng tôi đã trao đổi những chuyện buồn cười này với trung tâm điều khiển chuyến bay, đã được nghe băng ghi âm của Venêra và Biđốp, đã tiến hành các cuộc thí nghiệm khác nhau ở chế độ tự động. Chúng tôi đã điều chỉnh hai khoảng giữa của quỹ đạo, không có sự sai lệch nào cả và đến ngày thứ 9 của chuyến bay thì Côri bước ra khoảng không vũ trụ để gõ cửa DEDA.

- DEDA là gì? - Ri-trác hỏi.

- Thí nghiệm này đã bị thất bại. NASA đặt hy vọng vào ăng ten ở hệ Ngân hà. Chúng tôi trao đổi về chương trình hoạt động của đoàn thông qua sóng ngắn - bất chợt, có ai nghe được chăng? Tôi gãi tay vào ống quần và cảm thấy khó chịu hơn. Hình như, kính thiên văn vô tuyến ở Tây Viếcginia đã bắt được các tín hiệu từ tàu vũ trụ. Họ lắng nghe, còn chúng tôi thì thông tin tới các hành tinh xa xôi - Sao Kim, Sao Thổ, Sao Thiên Vương.

- Chỉ có mình Côri ra ngoài khoảng không vũ trụ?

- Đúng. Nếu anh ấy có bị làm sao ở giữa các hành tinh, thì bộ phận đo từ xa đã không hiển thị.

- Nhưng...

- Tất cả điều đó là không quan trọng.

- Tôi phản đối! Điều quan trọng là ở chỗ cái gì đang diễn ra ở đấy vào chính lúc này. Hôm qua, chúng đã giết cậu bé. Anh thấy điều đó chứng tỏ điều gì. Hơn nữa, cái đầu của cậu bé bị vỡ ra thành nhiều mảnh nhỏ hệt như quả lựu đạn bị nổ tung từ bên trong.

- Cậu kể tiếp đi! - Ri-trác nói.

Tôi nhếch mép, cười gượng:

- Vâng. Kể cái gì bây giờ?

Chúng tôi đã quay quanh các hành tinh theo quỹ đạo bị lệch tâm. Năm 1976, ở cực dương, ở điểm cận địa là 23 - vòng đầu tiên. Ở vòng hai của quỹ đạo, còn bị kéo xuống thấp hơn. Chúng tôi đi quan sát rất kỹ vòng bốn của nó. Chúng tôi đi chụp được 800 bức ảnh. Còn việc tốn mất bao nhiêu mét phim, thì chỉ có trời mới biết được.

Đám mây được hình thành từ khí mêtan, amôniắc, bụi và đủ loại chất bẩn khác. Hành tinh giống như một đường viền lớn, gió tung tăng dạo chơi quanh nó. Côri ước tính: 600 dặm/giờ. Mũi khoan của chúng tôi liên tục phát ra tín hiệu đang ở trên bề mặt và lúc hoạt động, nó rít lên. Chúng tôi không phát hiện được các loài thảo mộc hoặc các tín hiệu khác của sự sống. Phổ kế chỉ ghi nhận các lớp khoáng chất quý. Đây là chuyện về Vênera. Tất cả đều là sự trống rỗng. Việc đó dẫu sao cũng tựa như các bóng ma bao quanh nhà tôi. Tôi hiểu so sánh như vậy là phi khoa học. Nhưng chỉ có điều, lúc này, chúng tôi không thể quay trở lại. Đối với anh, đó không phải là mặt trăng. Mặt trăng hoang vắng, nhưng tôi có thể nói nó hoàn toàn trong sạch, vô trùng. Tất cả những gì chúng ta nhìn thấy ở đây là ngoài giới hạn. Phải cám ơn cuốn phim chụp đám mây này. Anh hãy hình dung cái sọ hói trụi.

Trên đường trở về, chúng tôi được biết: Thượng nghị viện đã nhất trí biểu quyết cắt giảm một nửa quỹ chinh phục vũ trụ. Côri đã bình luận về quyết định này như sau: “Thế nào, Actua, chúng ta trở lại với vệ tinh khí tượng chứ?”. Thú thật, thậm chí tôi đã cảm thấy hài lòng. Chúng tôi chẳng có gì để bắt tay vào việc sửa chữa tất cả các lỗ thủng đó.

12 ngày sau, Côri hy sinh, còn tôi thì bị tàn phế suốt đời. Như người ta thường nói, chuyến bay đã hạ cánh an toàn. Đây không phải là sự trớ trêu của số phận? Ở trên vũ trụ một tháng trời, trở về từ nơi xa xăm mù mịt. Và kết thúc như vậy... và tất cả là ở chỗ một kẻ nào đó đã rót ấm cà phê mà không kiểm tra rơ-le.

Do bị va vào mặt đất nên tôi bị ngất đi. Lúc tỉnh dậy, tôi đang ở trên boong của con tàu chở máy bay “Poóc-tơ-len-dơ”. Những cái băng ca đang chờ tôi, thay cho con đường trải thảm đỏ. Nhưng tôi đã quá “đỏ” rồi. Toàn thân thể tôi bê bết máu.

Tôi đã ở Vipheđa hai năm. Tôi đã nhận huân chương, rất nhiều tiền và chiếc xe dành cho người tàn tật này. Sau đó, lại chuyển đến đây. Tôi thích nhìn xem các loại tên lửa bay vút lên như thế nào.

- Vâng, mình biết! Ri-trác nói. Anh im lặng một lúc. Hãy cho mình xem hai bàn tay của anh nào.

- Không! - Câu trả lời bật ra rất nhanh và đột ngột. - Lúc đó "người ta" có thể nhìn thấy tất cả. Tôi đã nói với anh rồi.

- 5 năm đã qua Actua ạ! Tại sao, bỗng nhiên, bây giờ... Anh có thể giải thích cho tôi không?

- Tôi không biết. Tôi không biết. Có thể, đó là thời kỳ ủ bệnh kéo dài. Mà có thể, tôi bị mắc bệnh. Không phải ở đó mà là sau này, ở Phote Lôđécđein. Hoặc thậm chí, ở ngay đây, trên hiên nhà.

Ri-trác thở dài, ngước nhìn ra cái vịnh, nơi hoàng hôn đỏ ối.

- Actua ạ, mình đang cố tìm câu trả lời hợp lý. Mình không muốn nghĩ là cậu đã nghĩ khác.

- Trong trường hợp thật cần thiết, tôi sẽ cho anh xem đôi tay của tôi. Nhưng chỉ trong trường hợp thật cần thiết.

Ri-trác nhổm dậy, với cây gậy. Anh đã già và không được khoẻ.

-Tôi sẽ chuẩn bị chiếc xe chạy mọi địa hình và chúng ta sẽ đi tìm cậu bé.

- Cám ơn Ri-trác.

Chiếc xe chạy về nhà theo đường làng qua các cồn cát lớn hướng Kikêrô lại sang bờ vịnh bên kia, gần tới mũi đất, bầu trời trở nên ảm đạm như màu của quả mận ủng và có thể nghe thấy tiếng sấm xa ì ầm.

Không biết tên cậu bé, nhưng tôi thường thấy cậu cặp cái vợt ở nách, đi dạo trên bãi cát vào trước buổi hoàng hôn. Da cậu ta rất đen vì phơi nắng. Cậu mặc chiếc quần soóc sờn, kiểu mùa hè. Trên bãi tắm của thành phố, nếu gặp may, thì một người khôn ngoan có thể kiếm được 5 đô la mỗi ngày. Thỉnh thoảng, tôi vẫy tay gọi cậu bé từ phía xa và cậu cũng vẫy tay trả lời tôi. Chúng tôi là hai người không quen biết, tâm hồn hời hợt, có chỗ ở hoàn toàn đối lập với đại đa số khách du lịch hoà hoa và lắm lời. Có thể cậu bé sống ở cái xóm gần bưu điện, cách đây khoảng nửa dặm.

Hôm qua, lúc anh đến, tôi đã ngồi hàng giờ để ngắm nhìn chỗ đau của mình. Tôi cởi băng và không bị ngứa nữa. Có vẻ như tôi cảm thấy dễ chịu hơn chút ít.

Có thể, đó chỉ là cảm giác: người ta nhìn thế giới thông qua bản thân mình, và cái thế giới đó không mang lại điều gì cả, ngoài sự căm thù và khiếp sợ. Ngay cả tôi cũng cảm nhận như vậy. Anh cứ tưởng tượng: tâm hồn của anh đã trở nên mù quáng, mà anh ta lại cứ nhìn chăm chăm vào cái cơ thể tàn phế của anh. Bây giờ thì, anh đã rõ, tại sao tay tôi lại băng, thậm chí, cả vào lúc bên cạnh không có ai.

Tất cả bắt đầu từ Maiami. Ở đó, tôi cần làm việc với một người ở bộ VMF, có họ là Crexven. Ông ấy tới thăm tôi mỗi năm một lần. Hình như, những người chủ của ông rất sẵn lòng cung cấp cho tôi chữ ký “bí mật”. Một điều rất hay là họ đã chờ đợi được nhìn thấy: có ánh gì đó ghê sợ trong mắt. Một chữ cái màu đỏ chói trên bàn? Ai là người biết chúng?

Tôi ngồi cạnh Cre-xven trong khách sạn ở ngoài hiên. Chúng tôi cùng uống rượu và bàn luận về tương lai chương trình vũ trụ của Hợp chủng quốc. Bỗng, tôi lại bị ngứa ở các ngón tay. Dường như, có một dòng điện chạy qua người anh. Tôi nói điều đó vói Crexven.

- Chắc là, anh đã sờ phải cây trường xuân độc ở hòn đảo của mình.

Anh cười, nhếch mép nói.

- Ở đây, ngoài các khóm cọ, tôi chẳng sờ vào cái gì cả. Có thể là, do bị nhiễm khuẩn cách đây 7 năm chăng? - Tôi liếc nhìn hai bàn tay của mình. Bàn tay tôi cũng như các bàn tay khác, chỉ có điều, nó bị ngứa.

Cũng trong ngày hôm đó, tôi đã ký vào tờ giấy màu viết sẵn: “Xin trịnh trọng thề là tôi sẽ không nhận, không truyền đạt cho người khác bất kỳ một thông tin nào có thể.Và đã trở về trên chiếc “Ford” cũ kỹ của tôi do chính tôi cầm lái. Tôi cảm thấy thoải mái. Lập tức tôi thấy mình là một con người.

Con đường phía trước còn dài. Trên đường về nhà, tôi bị khổ sở vì bệnh ghẻ lở. Anh có biết, các vết thương sâu nó nhói lên như thế nào không? Như thể là bên dưới làn da có những vật thể sống đang gặm nhấm.

Mặt trời đã lặn gần hết. Tôi nhìn vào hai bàn tay của mình qua ánh sáng của tấm điều khiển. Trên các miếng đệm, nơi in dấu các ngón tay có cái vết màu đỏ nhỏ li ti. Một số vết ở khớp ngón tay.Tôi bấm vào đầu ngón tay và co lại ngay lập tức và ghê sợ. Lớp da bị nhiễm trùng, mềm nhũn như quả táo ủng.

Trên đoạn đường về nhà còn lại, tôi cố trấn tĩnh lại, nhưng trong đầu tôi vẫn còn có ý nghĩ khiếp sợ. Lý do là chỗ bà cô họ của tôi đã sống mười năm cuối đời ở gác thượng của nhà tôi, cách ly với thế giới bên ngoài. Mẹ tôi thường mang thức ăn lên trên đó, cấm tôi không được tiếp xúc, thậm chí, không được nhớ đến tên của bà. Mãi về sau, tôi mới biết là bà cô tôi mắc bệnh phong.

Sau khi về đến nhà, tôi gọi điện ngay vào lục địa cho bác sĩ Flanđéc. Họ trả lời tôi là ông đi câu cá. Nhưng nếu có việc khẩn cấp, thì gọi bác sĩ Banlengiêrơ.

- Lúc nào thì bác sĩ Flanđéc về? Tôi mất bình tĩnh

- Ngày mai, vào buổi trưa. Anh có thể...?

- Tôi có thể.

Tôi quay số điện cho Ri-trác. Không có ai trả lời. Tôi ngồi và không biết giải quyết ra sao. Tôi càng bị ngứa nhiều hơn. Có một nguồn năng lượng bay từ cánh tay ra. Tôi lăn chiếc ghế bành tới bên tủ sách, lấy cuốn từ điển bách khoa y học đã sờn. Những lời giải thích không rõ ràng, tôi có thể mắc bệnh gì đó hoặc không bị sao cả.

Tôi ngã lưng trên ghế và nhắm mắt lại. Ở góc tường phía xa, chiếc đồng hồ “Vũ trụ” cũ kêu tích tắc. Từ đằng xa, vọng lại tiếng gầm thét của chiếc máy bay về hướng Maiami. Tôi nghe thấy hơi thở của mình.

Bỗng nhiên, tôi rùng mình nhận ra là mình đang nhìn thấy những trang sách của cuốn từ điển bách khoa toàn thư được mở ra. Tôi nhìn thấy, dù mắt đang nhắm. Thật ra, đó là chương thứ tư của cuốn sách bị xuyên tạc đến mức khó hiểu, nhưng đúng là cái bệnh đó. Không còn nghi ngờ gì nữa.

Tôi không phải là người duy nhất nhìn thấy nó.

Tôi vội mở mắt, cảm thấy tim mình như bị bóp chặt.

Tôi cảm thấy như nó đã ngừng đập một giây, nhưng sau đó, nó lại tiếp tục hoạt động. Tôi nhìn văn bản và các biểu đồ bằng mắt thường của mình, ở phía dưới góc nhọn, bằng những con mắt khác nào đó. Những con mắt này đã tiếp nhận cuốn sách như là một vật xa lạ có hình thù quái gở nhất và có ý nghĩa đáng sợ.

Tôi từ từ nâng bàn tay lên ngang mặt. Bỗng, toàn bộ căn phòng hiện ra trước mắt. Tôi không cảm thấy xấu hổ. Tôi kêu lên.

Lớp da bị viêm ở các ngón tay bị nứt nẻ, ở những chỗ bị loét có nhiều con mắt nhìn tôi. Khi dãn rộng các mô mềm ra, các con mắt đó bị che kín, bề mặt của chúng bị kéo căng ra.

Nhưng thậm chí, điều đó đã không làm tôi kêu lên.

Lần đầu tiên, tôi nhìn thấy bộ mặt của mình như vậy - Bộ mặt của con quỷ.

*

* *

Chiếc xe địa hình vượt qua cồn cát và đỗ ngay sát hiên nhà. Xe tắt máy. Tôi ngồi trên chiếc ghế bành dùng cho người tàn tật. Ri-trác giúp tôi chui vào trong xe.

- Thế nào, Actua, hôm nay, cậu là nhân vật chính, cậu hãy ra lệnh đi!

Tôi chỉ về hướng cái vịnh, nơi có các cồn cát lớn đang dần dần mất đi. Ri-trác gật đầu, đồng ý. Tôi thường hay trách Ri-trác là lái xe ẩu, nhưng hôm nay, tôi chỉ im lặng. Trong đầu tôi, đang rối tung những ý nghĩ quan trọng hơn. Bóng tối làm chúng tôi phát điên lên. Tôi cảm thấy như chúng đang bò ra ngoài da tôi để tôi được tháo băng ra.

Chiếc xe địa hình phóng như bay qua những đụn cát cao. Ở phía bên trái mặt trời đang đỏ rực như màu máu. Từ trong lòng vịnh, những đám mây đen lững lờ bay. Tia chớp đầu tiên loé sáng, chiếu xuống nước.

- Sang phải - tôi nói - Gần sườn dốc kia.

Ri-trác khéo léo phanh xe, trườn quanh chiếc ghế, với cái xẻng. Tôi rùng mình.

- Ở đâu? - Anh hỏi với cái giọng không chút sợ sệt.

- Đằng kia - Tôi chỉ.

Anh xuống xe, chậm rãi tiến đến chỗ đó. Một giây yên lặng qua đi và anh dùng xẻng xúc vào đống cát. Anh đào liên tục, hất đất qua vai mình. Mây trên trời đen dặc. nước của vùng vịnh trở nên có màu xám xịt, lạuh lẽo.

Ri -trác tiếp tục đào, còn tôi thì biết rằng anh sẽ không tìm thấy cậu bé. Chúng đã chuyển cậu bé đi chỗ khác. Đêm hôm đó, tôi cởi băng tay ra, khiến chúng đã có thể nhìn thấy tất cả và hành động. Nếu chúng đã buộc tôi phải giết người một cách dễ dàng như vậy, thì chúng cũng có thể buộc tôi phải chuyển cái xác đi nơi khác.

- Cậu thấy chưa, Actua, Không có ai cả.

Ritrác ném cái xẻng vào trong xe với vẻ mệt mỏi, cầm lấy tay lái. Những bóng đen lướt qua dọc theo bờ cát, như đang chạy trốn những tiếng sấm đang đến gần. Những cơn gió làm bắn tung toé cát ở bánh xe.

Các ngón tay tôi đã hết hẳn ngứa.

- Chúng ép tôi chuyển cái xác đi. - Tôi buồn rầu, phản đối. Chúng ngày càng ép luôn tôi. Bỗng tôi chợt nhớ ra là đã nhìn thấy lọ đậu. Tòi đưa các ngón tay ra phía trước và nhìn cái lọ của chúng bằng mắt mình: cái lọ méo mó.

- Actua, anh ngắt lời tôi - Tất cả chỉ có vậy. Hãy suy nghĩ, cậu sẽ nói những gì - Dưới ánh sáng lờ mờ lúc trời nhá nhem tối, trên mặt anh hiện rõ sự thương xót chân thành. Dừng lại, mang xác, Actua, cậu nói gì vậy? Từ lâu cậu đã không đi được kia mà. Chân cậu đã bị tàn phế.

Tôi tì người vào tấm ván:

- Cái xe này cũng không hoạt động. Nhưng khi vặn khoá mở bộ phận đánh lửa, anh có thể bắt nó rời khỏi vị trí, Anh có thể bắt nó phải giết người. Nó sẽ không để lại dấu vết liên quan tới anh - Giọng nói của tôi run run - Tôi là cửa sổ nhìn ra thế giới của chúng. Anh có hiểu điều đó không? Chúng đã giết cậu bé. Chúng đã mang xác cậu bé đi.

- Theo mình, cậu cần đến gặp bác sĩ. Anh thì thầm. Dẫu sao, cậu...

- Anh hãy kiểm tra! Tôi tin là cậu bé không biến đi.

- Nhưng thậm chí, cậu không biết ngay cả tên của cậu bé.

- Cậu bé đó phải ở trong xóm. Ở đó, chỉ có mấy ngôi nhà. Hãy để ý.

- Tôi nói chuyện điện thoại với Môt Ha-rin-tôn. Trong cái bang này, khó có thể tìm ra người phụ nữ biết hết mọi chuyện. Tôi đã để ý, không bỏ sót một ai trong những người đã ở gần cậu bé đêm hôm đó. Bà đã nói là không biết gì về sự việc đó cả.

- Cậu ta là dân bản xứ! Anh có thể tin tôi.

Ri-trác kéo cần đánh lửa, nhưng tôi đã ngăn anh lại. Anh ngạc nhiên ngoái cổ lại và lúc đó, tôi bắt đầu cởi băng tay ra.

Tiếng sấm từ phía vịnh gầm lên, vẻ đe doạ.

* *

Lần này, tôi quyết định không đến gặp bác sĩ. Đơn giản là vì tôi đã băng tay liên tục trong ba tuần, trước khi bò sang cái thế giới của Thần linh. Trong suốt ba tuần đó, tôi đã mù quáng tin tưởng rằng tất cả sẽ chữa được. Không thể nói là khi đó tôi còn minh mẫn. Dường như, tôi là người bình thường, hành động theo hai suy nghĩ, theo lệnh của Flanđéc hoặc của Ritrác. Nhưng tôi vẫn chưa thể quên được bà cô của mình, người đã kết thúc cuộc đời vì căn bệnh đáng sợ. Bản thân tôi cũng thầm đau khổ và chỉ biết cầu nguyện trong tâm hồn, để có một buổi sáng, khi tỉnh giấc, được thoát khỏi cái giấc mơ tồi tệ này.

Nhưng càng ngày tôi càng thấy rõ chúng hơn. Tôi chẳng bao giờ đặt câu hỏi, trông chúng như thế nào và chúng xuất hiện từ đâu. Vấn đề này còn phải bàn cãi rất lâu. Cái chính là ở chỗ tôi là cái cửa sổ và cửa ra vào của chúng. Tôi đã phải vượt qua nỗi đau kinh hoàng và ghê sợ của chúng trước cái thế giới khác hẳn cái thế giới của chúng. Sự tức tối mù quáng của chúng đã truyền sang tôi. Nhưng chúng không ngừng theo dõi. Chúng bám vào thân thể tôi và bây giờ, chúng điều khiển tôi như điều khiển một con rối.

Lúc cậu bé đi qua và giơ tay vẫy chào tôi, tôi đã quyết định là sẽ gọi điện cho Crexven ở Cục Hải quan. Chính tôi tin rằng mình đã nhiễm bệnh trên vũ trụ, hay chính xác hơn là ở trên quỹ đạo của Vênera. Mặc cho mọi người đã khám nghiệm và thuyết phục tôi là không bị nhiễm gì ở trên đó cả. Tôi không muốn tỉnh dậy giữa đêm khuya bởi tiếng la thét của chính mình và cảm thấy bằng toàn bộ da thịt của mình là tôi đang bị chúng nhòm ngó một cách ráo riết.

Hai bàn tay của tôi chìa về phía cậu bé. Và chỉ đến lúc đó, tôi mới chợt nhận ra là chúng không bị băng. Hàng tá con mắt to, màu vàng lấp lánh và những con ngươi mở to, dường như đang dõi theo những gì đã xảy ra từ trước. Có một lần, tôi đã dùng đầu cây bút chì chạm vào một con mắt và hầu như, tôi không hề cảm thấy đau đớn gì cả. Con mắt này làm cho tôi thấy ớn lạnh, có cảm giác hơi khó chịu, còn khổ hơn cả nỗi đau về thể xác. Từ đó trở đi, tôi thường thận trọng dùng cái vật có đầu nhọn chọc vào nó.

Lúc này, chúng đang nhìn chăm chú vào cậu bé. Bỗng nhiên, đầu óc tôi như ngừng hoạt động, tôi không làm chủ được mình nữa. Cái cửa sổ hé mở. Những con mắt của tôi không nhìn thấy nữa, mà hình như, ở vùng biển chết và ở trên bầu trời đỏ tía, những con mắt khác đang nhìn cái vi sinh vật độc ác và bí ẩn.

Tôi không bao giờ biết cậu bé cặp chiếc vợt dưới nách túi đựng đầy những đồng tiền của khách du lịch đã nghĩ sao. Cậu đã nghĩ gì lúc nhìn thấy những bàn tay giơ về phía mình, những bàn tay của người chỉ huy dàn nhạc vô hình.

Nhưng, tôi thì tôi biết rõ mình nghĩ gì.

Tôi nghĩ rằng mình đã bước ra ngoài rìa cuộc sống.

Những đám mây đen giăng kín bầu trời hoàng hôn phủ bóng đêm trên các đụn cát. Cơn gió làm tuột cái băng trên tay tôi.

- Ri-trác, anh hãy hứa với tôi - Tôi nói gần như thét lớn. Hãy hứa là anh phải chạy... nếu tôi làm cho anh đau đớn. Anh hứa chứ?

- Hứa. Cái cổ áo sơ mi trễ xuống ngực cọ vào ngực theo chiều gió. Nét mặt anh trở nên căng thẳng.

Những chiếc băng cuồi cùng rơi xuống dưới chân tôi

Tôi ngước mắt nhìn Ri-trác và chúng cũng vậy. Tôi nhìn cái người mà tôi đã yêu quý suốt năm năm nay. Chúng nhìn cái người to lớn không mặc đồng phục.

- Anh đã tin chưa? - Tôi hỏi bằng cái giọng khản đặc. Bây giờ anh tin rồi chứ?

Anh bất giác lùi lại, nét mặt lộ ra vẻ sợ hãi. Một tia chớp lóe sáng và sau một giây, tiếng sấm vang lên khắp mặt vịnh đen thẳm.

- Áctua...

Trời, trông anh mói đáng sợ làm sao! Tôi đã gặp anh và cùng anh trò chuyện. Chả nhẽ, đây không phải là con người, mà là..

- Chạy đi! Chạy đi! Ri-trác!

Anh chạy nhanh từng bước dài, tay vung lia lịa. Những ngón tay nhìn thấy được của tôi giơ lên phía trên, phía những đám mây đen, phía cuộc sống gần gũi, duy nhất của chúng trong cái thế giới ghê tởm này.

Cả những đám mây đen cũng trả lời chúng. Tia chớp khổng lồ xuyên từ trên bầu trời xuống, báo hiệu về ngày tận thế. Chính Ri-trác cũng gần như biến mất, chỉ còn lại mùi khí ô-dôn và những mùi cháy khét khác.

Lúc tỉnh lại, tôi ngồi trên bậc thềm, trên cái ghế bành của mình. Sấm chớp đã ngừng, không khí trở nên trong lành như trong mùa xuân. Ánh trăng chiếu sáng. Trên vùng cát trắng, không nhìn thấy cả Ri-trác lẫn chiếc xe địa hình của anh.

Tôi nhìn hai bàn tay mình. Những con mắt mở to. Sau khi trút hết năng lượng của mình, chúng đang thiu thiu ngủ.

Tôi quyết định: Trước khi mở hé cửa sổ thêm một tấc Anh, tôi cần phải đóng sập nó lại. Bắt đầu có sự thay đổi chắc chắn. Các ngón tay rõ ràng đã ngắn hơn và trông là lạ.

Ở phòng khách, tôi có cái lò sưởi. Về mùa đông, tôi nung nóng nó để tránh cái lạnh thấu xương của Florida. Lúc này, tôi làm việc đó rất nhanh. Chúng có thể tỉnh giấc vào bất cứ lúc nào.

Chờ cho lửa bùng cháy, tôi ngồi xuống, giơ hai bàn tay hơ lên phía trên ngọn lửa. Vì đau mà suýt nữa, những con mắt đã lồi ra khỏi hố mắt. Tôi sợ là mình sẽ không kịp lại bên cái lò sưởi. Nhưng tôi đã kịp.

Tất cả những điều đó xảy ra từ 7 năm trước.

*

* *

Như thường lệ, ở Florida, tôi thích ngắm nhìn những chiếc tên lửa đang bay. Trong thời gian gần đây, điều đó, càng thường xuyên hơn: Chính quyền hiện nay rất quan tâm tới lĩnh vực vũ trụ. Họ bàn luận về việc phóng hàng loạt tàu vũ trụ mới lên Vênera.

Tôi giải thích thêm về tên gọi của cậu bé, dù điều đó cũng chẳng giải quyết được gì. Đúng là cậu sống ở trong xóm. Mẹ cậu nghĩ là cậu đi đến đại lục. Mãi đến ngày thứ hai, bà mới thấy lo lắng. Còn đối với Ri-trác, ở hạt của chúng tôi, người ta luôn coi cậu bé là kẻ kỳ quặc. Mọi người đều cho là bỗng nhiên, cậu rời bỏ Merilendơ thân yêu của mình hoặc là chạy theo một người quen nào đó.

Tôi cùng bị tiếng là kẻ kỳ quặc, nhưng không lấy thế làm phiền. Có một số nhà du hành vũ trụ trước đây đã gửi thư tới Oa-sinh-tơn nói là nguồn kinh phí dành cho việc chinh phục vũ trụ nên sử dụng sao cho có lợi nhất.

Suốt năm trời, tôi khổ sở vì đau đớn, nhưng con người rồi sẽ quen với tất cả. Tôi tự lê bước và tự buộc dây. Còn việc tôi đánh máy như thế nào, thì anh đã biết. Tóm lại, tôi không nghĩ là mình sẽ gặp khó khăn trong việc dí cái nòng súng vào mồm hoặc là khó bóp cò. Anh đã thấy, cách đây ba tuần, lịch sử đã lặp lại.

Có hàng tá con mắt tròn, màu vàng đã chui vào trong ngực tôi.