← Quay lại trang sách

TÔI PHẢI ĐƯỢC NHÌN THẤY MARIA ! Tác Giả: Đezeffri Scott

Goócđôn Miller luôn miệng nói câu đó từ lúc chiếc máy bay của chúng tôi rớt xuống cái nơi hoang vắng của Bắc cực. Anh đã chết nên tôi tự thấy mình có nghĩa vụ gặp ngươi vợ goá của anh. Thay cho anh. Và vì anh. Các nhà báo đã coi tôi là người can đảm, biết cách để sống sót trong cuộc hành trình qua cái địa ngục băng giá đã giết chết 7 nhân mạng. Nhưng họ đã lầm. Cái điều khủng khiếp nhất đối với tôi lúc này là vượt qua con đường nhỏ dài khoảng 5 mét trong cái vườn, tới cái cửa ra vào sơn xanh bình thường, có cái cửa sổ con bằng kính mờ. Tôi nghĩ, rất tiếc mình đã không làm được cái việc đó cho Goócđôn Miller.

Vì mấy ngón chân bị cụt do băng giá nên tôi đi lắc lư như kẻ say. Thực ra, tôi đang ở trong tình trạng sợ hãi và cố tìm cái cớ gì đó để quay trở lại. Chẳng hạn, đuổi theo chiếc tắc xi mà tôi đã đi và nói rằng: tôi bị nhầm địa chỉ và muốn trở lại khu trung tâm của Luân Đôn.

Ngôi nhà hệt như Miller đã kể: không lớn nhưng thuận tiện, do tự tay anh xây. Ở cái trạm của chúng tôi, anh là kẻ duy nhất có quyền được coi mình là khéo tay. Dù trong lòng đang buồn, tôi vẫn tập tễnh lết tới cái cửa ra vào, bước lên thềm, ấn chuông.

Mở cửa cho tôi là Miller Maira, người phụ nữ mà Miller không bao giờ được nhìn thấy nữa vì sự hèn nhát của tôi. Khác hẳn với sự tưởng tượng của tôi, chị không đẹp, nhưng rất hấp dẫn và rõ ràng không phải là kẻ ngốc. Trước lúc tôi kịp lên tiếng, chị đã nhướn đôi lông mày, vẻ sửng sốt rồi hỏi nhanh:

- Anh tới đây làm gì vậy?

- Chị biết tôi là ai không?

- Sao lại không biết? Chị tránh sang bên, ra hiệu mời tôi vào nhà rồi cười nhăn nhó, bảo: Tất cả các chương trình đều giới thiệu về anh, ảnh của anh được in trên mọi tờ báo. Chị có cái eo lưng thon, bộ giò cân đối, đi lắc lư một cách duyên dáng. Tôi đã hiểu vì sao Goócđôn Miller khao khát được về nhà.

- Mời anh ngồi! - Maira chỉ cho tôi chiếc ghế bành, bọc da, đặt cạnh lò sưởi, bảo - Anh hoàn toàn không cần thiết phải tới đây.

Ở phía dưới cái giá treo quần áo ở phòng ngoài, tôi đã nhìn thấy đôi dép nam cũ, còn ở phía trên cái khay đồng để trên giá lò sưởi, có cái tẩu thuốc. Cái tẩu thuốc đã làm tôi nhớ tới Miller... đúng hơn là, nhớ tới sự vắng mặt của anh.

- Có những cái mà người ta không đủ sức viết lên giấy...

- Ôi, lạy chúa! - Chị thở dài, ngồi xuống ghế bành, đặt hai khuỷu tay lên hai đầu gối, hai bàn tay chống cằm. Tôi có cảm giác trong giọng nói của chị, có vẻ bỡn cợt nhưng tôi không bực,

- Goôcđôn đã nghĩ rất nhiều về chị.

- Tôi không tin. Chị ngã người xuống lưng ghế, rút điếu thuốc từ bao thuốc để trên bộ cửa sổ, hút cho tới lúc tôi sờ tay vào túi lấy bao diêm.

Tiêng kêu to của bật lửa gợi cho tôi nhớ tới tiếng khoá thắt lưng an toàn vào một giây trước lúc máy bay của chúng tôi bị rơi...

*

★ ★

- Cài dây an toàn vào! - Phécguxơn quay về phía chúng tôi, quát to - Chẳng có gì đáng sợ, nhưng máy bay sẽ lắc dữ đấy.

Nói láo, tôi nghĩ. Sau đó, tôi thấy mình đã đúng, ở miền bắc, cái địa bàn thường “trục trặc” và có thể là máy bay đã chệch hướng. Và để hiểu được là chúng tôi phải ngồi trên “đất lớn” vào lúc tối thiểu là 1 giờ trước đó, thì hoàn toàn không cần thiết phải là phi công. Không nói đến cái việc là trong chiếc máy bay nhỏ xíu đó, nhiên liệu sẽ không đủ để dùng lâu. Tôi thoáng nghĩ như vậy chỉ một giây trước lúc mình bị ngất.

Một cái gì đó lạnh và cứng quất vào mặt làm cho tôi tỉnh lại.

- Này, đứng dậy! Tôi nghe thấy giọng nói tức bực của Miller.

Tôi bắt đầu rên, ngẩng đầu lên, nhìn quanh. Bão đã lặng, các tia sáng mặt trời buổi sáng ùa vào mắt tôi. Tôi không ngồi cạnh và ở sau lưng Phécguxơn. Nói chung, tôi không ngồi, mà là nằm trên tuyết. Tại sao Miller lại mặc chiếc áo khoác của Phécguxơn! Anh ta đâu?

- Chúng ta đã bị rơi - Miller làu bàu, không đợi tôi phải hỏi. - Cái tên ngốc này đã lạc đường và đâm vào sườn núi. Nhưng, tôi nghĩ, chúng ta đang ở trên “đất lớn”, cách Port-Konsort khoảng 50 dặm... Dù sao, tôi cũng hy vọng.

Tôi yên lặng một lúc. Miller lắc tôi như lắc con búp bê.

- Tôi đã bảo cậu đứng dậy đi! Tôi phải về nhà, về với Maira! Bằng bất cứ giá nào.

- Tại sao anh lại lột chiếc áo khoác của Phécguxơn? - Chẳng hiểu sao tôi lại coi trọng điều đó.

- Hắn chết rồi nên không cần đến nó nữa. Viên phi công thứ hai và Rétđi cũng vậy. Chỉ còn lại tôi, cậu, Xinliver và Kent. Nếu cậu không tự chủ, thì coi như cậu đã chết!

Miller quát tôi, làm tôi cảm thấy sợ. Ở trạm, anh là lao công, lấy nước, chẻ củi, sửa chữa kỹ thuật. Tất cả chúng tôi đều có chức vụ cao hơn anh, nhưng anh là thủ lĩnh bẩm sinh, khao khát đạt kết quả với bất cứ giá nào. Điều đó được thấy rõ trong lúc diễn ra trận đấu bóng đầu tiên do chúng tôi tổ chức hàng tháng trên cái sân bãi ngập tuyết ở phía trạm. Chúng tôi đã nghĩ ra cái trò đá bóng đó chỉ để vui chơi và thư giãn. Ấy thế nhưng, Miller đã đá thực sự.

- Nghĩ như vậy là tốt, nếu không thì bọn mình sẽ quẳng cậu đi.

- Nhưng, anh Goócđôn, theo chỉ thị, chúng ta phải ở lại cạnh máy bay. Người ta sẽ đi tìm chúng ta.

Miller ôm lấy tôi, nói:

- Đồ khỉ, chúng ta đã lạc đường! Có đến mùa quít, họ mới tìm thấy chiếc máy bay này. Chỉ còn cách thoát duy nhất là đi tới Port-Konsort. Trên máy bay có chiếc xuồng cao su và tôi đã lột mấy tấm kim loại ở thân máy bay... Xiliver và Kent sẽ mang chúng. Chúng ta sẽ có lều. Tôi có thể giúp cậu đi. Cho đến lúc trời tối, chúng ta sẽ đi được vài ba dặm.

Đầu nhức như búa bổ, nhưng tôi đã đứng dậy và đi được mấy bước.

- Cố lên, không thì tôi sẽ đi tới nơi một mình - Miller dọa - Tôi rất nóng lòng được gặp Maria. Tôi cần các cậu mang theo các thứ chết tiệt này. Nói tóm lại, cậu hãy đi theo tôi. Tôi sẽ cứu sống cậu.

- Thôi, anh đừng tự trách nữa - Maria mỉm cười, nói - Tờ “Sunday Time” đã đăng bài tường thuật dài 2 trang về chuyện này nên tôi đã biết hết.

- Tôi muốn thăm hỏi chị.

Chị ta nhún vai, vẻ mệt mỏi.

- Muộn rồi. Vị đại diện của Công ty đã đi thăm tất cả các thân nhân của những người đã bị chết. Anh biết không, tôi biết rõ về anh. Một trường hợp điển hình. Những người sống sót sau tai nạn thường nghĩ là mình có tội. Thú thật, tôi mừng cho anh. Tôi có cảm giác là anh có quyền được sống.

- Không! Goócđôn chết là do tôi!

Maira nhìn tôi chằm chằm.

- Ô, về đại thể, tôi đã nghĩ như vậy. Bức thư của anh... Nó quá rối rắm. Tôi có cảm giác là anh vẫn còn đang bị ốm...

- Chị hãy tin rằng, đối với anh ấy, việc quay trở lại phía sau, chỉ là định mệnh. Đối với anh ấy, chúng tôi chỉ là con vật để thờ... Nhưng nếu chúng tôi dựa vào chỉ thị mà ở lại, thì sẽ tự chuốc lấy cái chết.

Chị ta gật đầu, mắt vẫn nhìn tôi.

- Xiliver đã cứu được các khẩu phần dự trữ để đề phòng bất trắc, nhưng cái đáng sợ đối với chúng tôi là lạnh. Bill Kent, nhà vật lý lớn tuổi nhất trong nhóm của chúng tôi, đã kiệt sức rất nhanh và đã bắt đầu bị tụt lại. Tôi bị choáng và thường bị ngất. Tôi cho rằng đó là sự thanh minh duy nhất của tôi. Một lần, lúc hồi tỉnh, tôi đã nhìn thấy Goócđôn đang mang mấy cây cột kim loại để dựng lều... Những cây cột mà trước đó do Kent mang. Tôi hỏi Kent đâu, Goocđôn đánh vào đầu tôi, quát tôi đứng dậy tiếp tục đi. Sau đó, bác sĩ Xiliver biến mất. Cuối cùng, chúng tôi tới được dãy núi ở phía trước Port-Konsort. Thực phẩm đã hết. Tôi và Goócđôn khui hộp thực phẩm cuối cùng để cố sức leo núi. Nhưng lúc leo lên đỉnh núi, chúng tôi đã hiểu là việc xuống núi phải cần tới một ngày và điều đó có nghĩa là cái chết chắc chắn sẽ đến.

Maria đứng dậy khỏi ghế bành rồi ôm lấy hai vai tôi.

- Đừng tự hành hạ mình. Người ta chỉ có thể làm cái điều có thể làm.

Tôi có thể túm lấy câu nói đó, nhưng tôi vẫn quyết định đi tới đích.

- Goócđôn bị trượt chân và túm lấy tôi. Tôi có thể cứu sống anh ấy. Nhưng... nhớ tới Kent và Xiliver, tôi đã buông anh ra. Thậm chí, tôi còn cảm thấy vui, lúc anh ấy ngã! Tôi đã giết anh ấy.

Maira lắc đầu rồi bắt đầu hút điếu thuốc mới.

- Tôi thấy lạ nếu anh đã cứu sống kẻ đã xúc phạm mình... Tại sao anh lại nhìn tôi như vậy?

- Nhưng, anh ấy yêu chị! Anh ấy rất muốn nhìn thấy chị!

- Có nghĩa lỗi tại tôi tất cả?

- Không, không phải thế! Thì ra, tôi đã lầm... Xin lỗi, nếu tôi đã đưa đến cho chị nhiều... Đột nhiên, tôi nhìn vào cái tẩu thuốc ở trên giá của lò sưởi. - Tôi mang cái gì đây! Các đồ vật của anh ấy ở đây... Tất nhiên là, chị yêu anh ấy.

Maira rùng mình.

- Các đồ vật của anh ấy? Bác sĩ Xantécxôn ạ, bác sĩ quả là người lãng mạn. Đó không phải là cái tẩu thuốc của anh ấy. Goócđôn không hút thuốc. Chẳng cần phải là Sơlốc Hôm để có thể biết điều đó. Cái ngày trước lúc anh ấy đi tới miền Bắc là cái ngày hạnh phúc nhất của đời tôi. Và nếu quả thật, anh đã giết anh ấy, thì có nghĩa là anh đã làm cái điều tôi thực sự bắt đầu ao ước vào thời gian một tháng sau lúc chúng tôi cưới nhau... Anh có hiểu không, thưa bác sĩ? Mà, anh đừng nhìn tôi như thế.

- Nhưng anh ấy yêu chị! Nguyện vọng duy nhất của anh ấy là nhìn thấy chị.

- Thật khốn khổ cho những kẻ lãng mạn! - Maria thở dài. - Phải, Goócđôn khao khát được nhìn thấy tôi.

Chị ta đứng dậy, đi về phía bàn giấy.

- Theo chỗ tôi được biết, thì mỗi tháng các anh nhận được thư một lần lúc máy bay chở thực phẩm và các thiết bị tới. Có lẽ, có kẻ nào đó đã viết cho Goócđôn là tôi không sống một mình. Anh đọc đi.

Tôi nhận ra ngay nét chữ của Miller vì trong thời gian nghỉ đông, tôi đã được đọc nhiều bản báo cáo của anh ấy về tình trạng kỹ thuật. Chỉ liếc mắt qua dòng đầu tiên, tôi đã thở dài thườn thượt, cố nén quả tim đang xúc động mạnh của mình. Choáng nhất là cái câu sau: con khốn, mày nên biết là tao sẽ không ở đây mãi mãi”.

Maria lấy lại bức thư.

- Bác sĩ Xanđécxơn ạ, các báo đã viết rằng người ta định tặng huân chương cho anh. Vậy dù có cảm thấy là mình có lỗi gì đi nữa, thì anh cũng đừng nên từ chối nhé.