DÒNG CHỮ KHẮC Ở LAN CAN CẦU Tác Giả: Liervôidiô Birze
Nguyên nhân của sự việc là do những chiếc áo phụ nữ may kém, phải chữa lại. Để làm điều đó, nhà Văn hoá đã mở các lớp dạy cắt may. Bốn mươi tám phụ nữ đã tốt nghiệp. Sau khi tốt nghiệp, họ may chui quần áo cho mình, bà con họ hàng và người quen. Thanh tra viên Talis Lukianis đã giúp họ được nhận môn bài. Kết quả của cái việc trên... được thấy rõ ở cuối truyện.
Sở Công an đã nhận được bức thư: “Thứ sáu tuần trước, 15-11, thanh tra viên Talis Lukianis đã cùng người phụ nữ lạ đi thăm làng Resgal, đi qua sông Zimúp. Lúc đó, Lukianis đã dùng dao làm tổn hại cây cầu. Tôi đề nghị Sở xem xét, xử phạt Lukianis về hành vi phá hoại của công và lối sống sa đoạ của anh ta trong cuộc họp chung của địa phương. Công dân N.”
- Thư nặc danh - giám đốc sở Công an nói - Và đây là chuyện nhỏ.
Sau đó, sự việc được bàn giao cho đội dân phòng. Trước hết một đội viên dân phòng đi 10 km tới hiện trường để điều tra lan can cầu.
Và người ta đã phát hiện ra dòng chữ khắc màu vàng, còn mới: “Talis L và Vita S. 15-11. Dòng chữ được chụp ảnh để làm bằng chứng cho công tác điều tra sau này.
Sau đó, điều tra viên Dibris, nghề nghiệp giáo viên môn tập viết, đã giám định và kết luận: “Sau khi xem xét bằng kính lúp, tôi xác định vết khắc được thực hiện bởi một vật cứng, có thể là dao nhíp. Người khắc là người có học”.
Ngày hôm sau, Dibris tới Phòng Tài chính để điều tra xem trong ngày 15-11, Talis Lukianis có đến nhiệm sở không.
- Tôi có đến - Lukianis trả lời. Anh còn trẻ, tóc màu sáng. Anh nói khẽ, lịch sự. Dibris đã không phát hiện thấy dấu hiệu phạm tội. Chính cái điều Lukianis cố tỏ ra vẻ bình thản đã làm Dibris nghi. Tại sao anh ta lại cạo râu kỹ thế? Tại sao anh ta lại thắt cà vạt một cách nghiêm chỉnh? Mà anh ta đã có vợ!
Vì vậy, Dibris đã tiện hỏi luôn:
- Cảnh trên cầu đẹp chứ?
- Tôi không chú ý, tôi chỉ đi qua cầu thôi.
- Có nghĩa là hôm 15-11, anh đã đứng trên cầu?
- Tôi chỉ đi qua cầu.
Mọi việc đều suôn sẻ. Anh đã thừa nhận là có ở trên cầu. Dibris cảm thấy vui bèn đeo kính râm đê Lukianis khỏi nhận thấy điều đó.
- Hôm đó, anh có mang theo dao nhíp?
- Có. Dao nhíp thì đàn ông ai chẳng mang theo người. Anh hỏi để làm gì?
Dibris thấy là đã có đủ bằng chứng và chỉ cần Lukianis thừa nhận.
- Có tin báo với Sở Công an là ngày 15-11, người ta đã khắc một dòng chữ lên lan can cầu Resgal. Nếu anh nhận điều đó, thì sẽ chỉ xem xét một cách nhẹ nhàng hoặc cho qua. Dibris nói và chỉ vào bức ảnh chụp lan can cầu.
Lukianis nhìn bức ảnh, đỏ mặt lên và nói càng khẽ hơn:
- Điều đó không có quan hệ gì với tôi.
Dibris tiếp tục giăng bẫy:
- Thế, nếu Vita S đã nói là anh đã khắc trước mặt chị ấy?
Lukianis nổi cáu, thì thầm:
- Điều đó không có thể...
- Anh đừng có nói là phụ nữ lắm mồm.
- Chẳng có ai là Vita S cả. Và nếu có, thì tôi cũng không quen chị ta. Tôi đã có vợ.
- Vấn đề là ở chỗ đó - Dibris nói - Tôi khuyên anh nên thành thực.
- Tôi không thể nhận vì tôi không khắc và chẳng làm gì có Vita S nào cả. Tôi không biết.
Dibris thấy là đã có nhiều bằng chứng: có mặt ở trên cầu, có dao nhíp, ngày tháng... Tất cả đều trùng hợp.
Ngày hôm sau, anh đã đến Phòng Chứng minh thư và tìm thấy có hai Vita, trong đó, có một Vita chưa chồng, nhưng vị tất họ đã cùng đi với Lukianis vì một
ngưòi mới 7 tuổi, một người đã 70 tuổi. Có nghĩa, Vita là người qua đường, Dibris đề nghị xem xét tất cả các khách qua đường, nhưng giám đốc sở Công an nói là không cần thiết phải làm điều đó.
Dibris không muốn vụ điều tra đầu tiên của mình bị bỏ dở. Trong cuộc thẩm vấn, trong lúc ghi vào sổ tay, anh đã cố tình làm gãy chiếc bút chì của mình rồi hỏi Lukianis:
- Anh có thể cho tôi mượn con dao nhíp?
- Tôi đã đánh mất nó trong lúc đi hái nấm trong cái tuần lễ đó.
- Hái nấm?
- Đúng, tôi đã đánh mất nó ở đâu đó.
Dibris tìm đến nhà, hỏi Vôrônica, vợ của Lukianis:
- Chị có biết ai là Vita S không?
- Tôi nhớ: Tối hôm thứ sáu đó, Lukianis về nhà muộn, bảo là mệt vì công việc, không ăn cơm mà đi ngủ ngay.
Vêrônica rất tôn trọng sự thật. Ngoài ra, chị còn thừa hưởng của bà nội tính kiên nghị. Tối hôm đó, lúc Lukianis tới ngồi cạnh đĩa cháo chị đã dịch nó sang bên cạnh, bảo:
- Trước hết, anh hãy kể xem cái cô Vita mà anh đã tán tỉnh ở trên cầu hôm đó là ai?
- Anh chẳng biết ai là Vita và cũng chẳng khắc cái gì cả.
- Anh nói đi!
- Trong luật pháp Xôviết đã ghi cái điều ngược lại:
Anh không phải chứng minh mình vô tội. Cho anh ăn đi
- Đối với em, luật lệ gia đình quan trọng hơn cả. Anh chẳng còn là trẻ con để chạy khắp nơi như con chó hoang. Kẻ tất cả đi! Chúng ta không thể sống trong sự giả dối.
- Anh chẳng có gì để kể cả.
- Vậy thì, đêm nay, anh sẽ ngủ trong bếp. Vợ anh vừa nói vừa sập cửa phòng ngủ.
Lukianis cũng tôn trạng sự thật và để giữ sự yên ấm trong gia đình nên anh không muốn nói dối. Lúc nằm trong bếp, qua giấc mơ, hình như anh nghe thấy tiếng nước chảy. Nhưng lúc hoàn toàn thiu ngủ, anh đã hiểu là Vêrônica đang khóc, nước mắt chảy xuống sàn. Anh đấm cửa, bảo:
- Em yêu, cho anh vào!
- Cửa ra vào mở. Đôi cánh tay ôm lấy anh, mái tóc đen nhánh như màn đêm phủ quanh mặt anh và giọng nói dịu dàng vang lên, nhỏ nhẹ:
- Kể đi rồi ở lại đây với em!
Lukiania điếng người, bảo:
- Anh chẳng có gì để kể!
- Thế thì, anh cút đi! Chuột tha anh đi! - Vêrônica nói và đẩy chồng vào bếp.
Cho đến sáng, Lukianis nằm trên mấy chiếc ghế ghép, nhìn các bó hành, nghĩ là tình yêu và sự thù hận là hai thứ tình cảm rất giống nhau, có thể hoán đổi cho nhau.
Cuộc hôn nhân của họ có thể bị tan vỡ sau năm năm chung sống. Ẩn sau đôi kính râm, Dibris đã chứng minh được là Lukianis có tội. Vêrônica đòi bằng chứng là chồng mình vô tội. Cả hai đều muốn một điều: Sự thú nhận của Lukianis. Vêrônica đã lôi cả đứa con trai 3 tuổi vào cuộc bằng cách dạy nó hỏi: “Bố ơi, Vita là ai?”
Lukianis bị đói vì trong bữa ăn, cứ nghe con hỏi là anh lại bỏ bữa. Dù sao thì anh cũng không đưa con dao nhíp cho Dibris và không thú tội với vợ.
Đêm lạnh, Lukianis phải đốt lò sưởi suốt đêm. Chắc vợ anh cũng bị lạnh, nhưng chị không muốn thoả hiệp:
- Anh đã lừa dối em. Em xấu hổ với mọi người. Chúng ta không thể chung sống. Nhưng nếu chuyển tới thành phố khác, thì chúng ta có thể chung sống tới lúc con nó lớn.
Bị đói và thiếu ngủ nên Lukianis đã đồng ý. Quá căng thẳng về thần kinh, nên tóc anh bạc trắng, bắt đầu rụng, trán rộng gấp đôi. Hàng xóm ủng hộ vợ anh vì anh đã đi trên cầu. Một số sĩ quan còn tham quan, chụp ảnh lan can cầu để phục vụ cho các bài giảng về đạo đức.
Đúng vào hôm Lukianis viết đơn xin chuyển vùng, người đưa thư mang đến bức thư được gửi từ thành phố của anh.
Bức thư viết: “Dòng chữ ở lan can cầu do chúng tôi khắc để kỷ niệm món tiền thuế mà chúng tôi phải nộp cho anh. Nếu anh còn dí mũi vào lần nữa, thì chúng tôi sẽ làm cho anh trở thành kẻ vô đạo đức và vợ anh sẽ rời bỏ anh. Điều đó chúng tôi làm dễ ợt. X.YY.Z”
Lukianis ngồi lặng hồi lâu để suy nghĩ. Tất cả đã rõ; đó là do bàn tay của phụ nữ. Có thể, đó là một trong những nữ thợ may phải nộp thuế ở Nhà văn hoá.
Lukianis đưa bức thư cho vợ và kể rõ sự tình. Thậm chí, chị còn vui hơn anh vì gia đình đã không bị tan vỡ.
Đến tối, họ dùng lá đơn xin chuyển vùng để nhóm lò. Đó là lá đơn do Lukianis viết để được chuyển tới nơi không có sông, cầu và người phụ nữ tên là Vita. Và Vêrônica đã nướng bánh trên ngọn lửa của nó.
Tối hôm đó, Vêrônica đã ôm chồng và nói:
- Điều rất vui là anh lại là người đứng đắn.
Lukianis muốn bác lại: “Lúc nào anh chẳng như vậy?”. Nhưng sau nghĩ lại, anh quyết định không đả động đến chuyện đó nữa. Tất cả đã kết thúc tốt đẹp. Anh sợ nếu nói đến chuyện đó, thì vợ có thể nghĩ: Liệu có thể bức thư là do anh viết? Và nếu vậy, thì cả anh lẫn Dibris đeo kính râm đều không thể chứng minh được cái điều ngược lại.