Chương 7
Tôi tắm nước thật nóng và tắm rất lâu, đến nỗi Balit thấy tôi gần ngủ trong nhà tắm.
- Ái chà chà! - Ông ta nói. - Sực nức các mùi hương của manyata, đúng thế chứ?
Tiếng cười của ông ta vừa của trẻ thơ vừa của yêu tinh ngập tràn gian lều. Sau rồi ông ta nói:
- Tôi sẵn sàng bầu bạn cùng ông để tẩy rửa trong ruột.
Chúng tôi mới đang uống chưa hết chén rượu uýt-ki thứ nhất thì đã nghe thấy những tiếng người vang lên dữ dội sau những cây gai gần nơi tôi ở hơn cả. Balit lắng nghe.
- Chắc là những dân Oakamba, - ông ta nói.
Độ một chục người da đen, mặc những tấm áo quần vải sợi bông rách rưới, chân xéo đất, nhưng tay cầm giáo và dao quắm, từ trong rừng chui ra đứng trước các bậc cầu thang gỗ lên nhà. Nhiều lính bảo vệ vây quanh họ.
Balit tiến ra đứng trên bậc cao nhất. Những người Oakamba la hét về phía ông ta và vung vũ khí lên.
- Lũ man rợ thuần chủng, - Balit nói với tôi, miệng cười mỉm. - Bọn này thậm chí tiếng Xoahili cũng không nói nổi. Thế mà tôi lại chỉ biết có thổ ngữ đó thôi. Tôi phải gọi cho Kihôrô mới được. Bác ta cùng bộ lạc với họ.
Như ma hiện hình, người đưa đường già chột mắt xuất hiện trước lều. Bác ta bắt đầu lên tiếng một cách hết sức hung tợn đến nỗi máu dồn về con mắt hỏng và phủ một màng đỏ lên con mắt đó.
- Không làm sao còn có thể sống yên thân trong cái khu vườn đáng nguyền rủa này nữa, - Balit càu nhàu. - Đấy, họ đang kết án bọn người Maxai ăn cắp bò của họ. Mà Kihôrô lại đứng về phe họ. Tôi phải tới đó ngay mới được. Nếu không họ vẫn cứ tới đó chẳng có mặt tôi. Khi đó thì…
Balit giơ hai cánh tay lên mái hiên, tay ông ta gần chạm, rồi hạ xuống, nốc cạn rượu và bảo tôi:
- Ông cùng đi chứ? Không xa đâu.
Sáu người chúng tôi leo lên chiến Lan Ruvơ.
Người già lão hơn cả trong số người Oakamba và hai lính bảo vệ ngồi phía sau. Tôi ngồi giữa Balit và Kihôrô phía trước. Chỉ có các lính bảo vệ là mang súng. Balit đã cấm Kihôrô mang theo súng của bác ta.
- Bác ta sẽ say sưa hạ sát sạch bọn Maxai cho mà coi, - tên khổng lồ tóc hung đỏ nói với tôi và cười phá hồn nhiên.
Balit lái xe cực giỏi, cực nhanh và cứ thế lao thẳng về phía trước. Chiếc xe hơi đi được trên mọi loại đường có những khả năng mà xe tôi không thể có nổi. Vì thế chúng tôi tới manyata nhanh hơn tôi hình dung nhiều.
- Ông thấy đó, có xa xôi gì, - Balit nói và nhảy khỏi xe, - và ngay cả câu chuyện cũng chẳng lâu la gì đâu. Cần phải công bằng mà xét người Maxai ở điểm này: trong tất cả những người da đen, người Maxai là người đủ kiêu hãnh để không khi nào nói dối cả, cho dù có phải trả giá đắt tới đâu chăng nữa cho chuyện đó.
Mặt trời chói chang đã hoàn thành sứ mệnh đối với các chốn cư trú lạ kỳ trên đỉnh quả gò các bức tường đều đã khô. Cả mái nữa, và cả mùi vị, dường như cũng bị sức nóng hút sạch, giờ đây đã khá dễ chịu, giờ đây cái manyata giống như một đường hầm vòng tròn, được ngăn chia ra bởi các vách ngăn thành những gian nhỏ hệt như nhau và mỗi gian chỉ có một lối ra mở ngay ở thành vách.
Chính trong một gian như thế Balit tìm được Onkalu, lão đang nằm dài trên nền đất. Một trong hai mươi vết thương do vuốt sắc của sư tử cào lão từ nửa thế kỷ trước đây đã bật miệng vỉ lão đã cố công cố sức nhào phân bò và trải phân bò làm tường manyata. Thế nhưng vừa nom thấy ông chủ khu Vườn quốc gia, lão tộc trưởng Maxai liền nhỏm dậy và che quanh bụng bằng một mảnh giẻ bê bết máu. Lão làm như vậy không phải do lòng kính trọng Balit mà là kính trọng chính mình.
Cái trần vòm rất sát mặt đất khiến cho người ở trong dù có tầm vóc bình thường cũng phải cúi khom đầu. Onkalu và Balit, cả hai người đều rất cao lớn, đã phải cúi gập người lại khi bắt đầu trò chuyện bằng tiếng Xoahili. Sau vài câu, không chịu nổi cảnh co cúi như vậy, hai người bò ra ngoài.
Còn lại mình tôi trong nhà để được thấm thía cái vẻ trơ trọi của khu nhà ở đó. Không sao tìm thấy được một cái nhà ở lại như thế: hoàn toàn không có vật gì phục vụ cho con người không có cái bếp lò dù thô sơ nhất, không có manh chiếu rách rưới nhất, không có một đồ nhà bếp loại sơ đẳng nhất để nấu nướng hoặc để ăn. Không có gì hết.
Bên ngoài, chính giữa cái điểm tròn tạo thành bởi các bức tường của manyata, những người Maxai bao quanh Balit và Onkalu và gật gù tán thưởng những điều lão tộc trưởng đang nói, người đứng đè tựa lên cái giáo.
- Lão sẽ cùng chúng ta ra khu chăn nuôi, - Balit bảo tôi. - Lão biết rằng mấy thằng moran khi đi ngang vùng đất người Oakamba trước khi vào khu Vườn đã có dắt theo mấy con bò cái thật. Nhưng mất bao nhiêu con con và những con nào thì lão không quan tâm. Đó là việc bọn moran làm.
Xe của Balit nhanh chóng chở chúng tôi ra khu đồng cỏ, ở đó có một đàn súc vật khốn khổ đang tìm ăn trong đám cỏ khô và gai góc.
Oriunga và hai đồng bạn đang ngồi dưới bóng một cây keo lùn nhưng cành chìa ra sum xuê, đang trông coi đàn súc vật. Giáo của bọn họ cắm xuống đất, trong tầm tay.
Khi bọn tôi tới, không một anh chàng nào trong bọn họ chịu đứng dậy. Không một cái đầu đội đất sét đỏ thèm nhúc nhích khi người của tộc Oakamba gào lên chỉ tay vào hai con bò đang gặm cỏ gần đó.
Onkalu hỏi Oriunga một câu.
Chàng moran uể oải lắc đầu ra hiệu không.
- Mẹ kiếp! Thằng láo! - Balit kêu lên. (Giận dữ làm dồn máu lên khuôn mặt to tướng của ông ta). - Nó chối không nhận đã ăn cắp hai con bò cái kia. Mẹ kiếp! Đây là lần đầu tiên tôi bắt gặp một thằng Maxai nói dối.
Nhưng Oriunga trễ nải buông vài lời từ cặp môi khinh thị của chàng. Onkalu dịch lại cho Balit và Balit khẽ huýt gió mà không để ý. Và ông ta nói, giọng càu nhàu, nhưng vẫn có đôi chút trân trọng.
- Thằng láo! Nó nói là không đúng, chúng nó không lấy cắp hai con bò cái, bởi vì đúng ra là chúng lấy những ba con kia!
Con thứ ba bọn họ lấy của người Oakamba đang gặm cỏ sau một bụi cây khi ấy che khuất nó. Con bò ấy được đưa lại với hai con kia. Sau nhiều tiếng hò hét, dọa nạt và châm chọc và những tiếng la đắc thắng hướng về những người Maxai, Kihôrô và người cùng bộ lạc bác ta dắt ba con bò cái đi. Những người lính đi theo họ để bảo vệ.
Oriunga vẫn ngồi xổm y nguyên, hai mắt hơi nhắm, và khuôn mặt hoàn toàn lãnh đạm.
Nhưng khi hai người Oakamba, các con bò và những người hộ tống sắp rời khu đồng cỏ, chàng moran đứng phắt dậy, nhổ cây giáo khỏi mặt đất và ném sức bật của cái thân thể uy nghi quá nhanh và các cử động quá liền nhau, khiến ta tưởng như thanh sắt nhọn hai đầu tự nó vọt ra rồi rít lên, rung lên, bay tới đâm trúng cổ con bò cái do Kihôrô đang xua đi. Con bò cái lảo đảo và ngã gục.
Bọn bạn Oriunga lần lượt vớ lây giáo của họ. Nhưng không kịp nữa. Lính bảo vệ lấy súng nhằm vào họ, và Onkalu, bụng băng một tấm giẻ thấm máu, đã đứng che vào trước những chàng trai trẻ. Người tộc trưởng nói với Balit và ông này gật đầu đồng ý.
- Ta chỉ còn có việc đi thôi, - ông này nói với tôi. - Lão già hứa rằng, nếu như quận trưởng đòi hỏi bồi thường cho người Oakamba, người Maxai đã tự nguyện thực hiện. Lão cho rằng, để trả giá cho lòng kiêu hãnh của một moran, không có giá nào đủ cao hết.Oriunga trở lại ngồi xổm với nụ cười nửa miệng. Không hiểu sao, tôi chợt nhớ tới Patrixia, và cũng không rõ vì sao, tôi thấy mừng vì cô bé không chứng kiến sự đắc thắng của chàng kia.
Nhưng ngay chiều hôm đó, cô bé đi theo cha mẹ được tôi mời tới hàng hiên nơi tôi ở dùng những món đồ uống có tính chất nghi thức vào lúc hoàng hôn xuống. Và, lợi dụng khi Xibin và Balit cùng ra ngoài cầu thang gỗ ngắm nhìn những ánh nắng rớt chiều lên tuyết trên đỉnh Kilimanjarô, cô bé hỏi tôi bằng giọng nói không âm vang, bí mật, nhưng mắt thì long lanh sáng:
- Chú à, cái anh chàng Maxai ném lao cực kỳ khéo ấy, có phải đúng anh chàng moran sáng nay nhìn cháu không?