Không có gì để khai báo
Bố chờ tôi ở Sân bay Quốc tế Athens, nhưng ông không ở đó một mình. Tôi đi một mình với va li còn ông đứng cùng với cô vợ mới, người đang bế đứa con gái mới của họ. Tôi vẫy ông và giữa chúng tôi là tiếng va li của tôi trên sàn cẩm thạch. Chúng tôi không hề gặp mặt suốt mười một năm nhưng vẫn nhận ra nhau không một chút nghi ngại. Khi tôi lại gần hơn, ông tiến lên đón lấy va li của tôi, sau đó hôn má tôi và nói, “Chào mừng con.” Ông rám nắng và có vẻ thư thái. Nếu có thứ gì đó thay đổi, thì đó là mái tóc của ông đã đen hơn, tôi nhớ nó có màu bạch kim, và ông đang mặc một chiếc sơ mi xanh được là cẩn thận, các nếp gấp rõ rệt ở khuỷu tay và cổ áo.
“Chào Christos.”
“Gọi là bố đi con.”
Tôi không chắc tôi có thể làm thế, nhưng nếu tôi viết từ đó ra, tôi sẽ thấy nó trông ra sao.
Khi chúng tôi đi về phía gia đình mới của bố, ông hỏi tôi về chuyến bay. Tôi có chợp mắt được không, họ có phục vụ đồ ăn nhẹ không, tôi có ngồi cạnh cửa sổ và nhà vệ sinh có sạch không, rồi chúng tôi đến cạnh vợ và cô con gái nhỏ hơn tôi của ông.
“Đây là Alexandra và đây là em gái con, Evangeline. Tên của em nghĩa là ‘người truyền tin’, như một thiên thần.”
Alexandra có mái tóc đen, ngắn, suôn thẳng và cô ta đeo kính. Cô khá giản dị nhưng trẻ, và chiếc áo denim xanh của cô (hãng Levi Strauss) ướt sữa chảy ra từ ngực. Cô tái xám và trông mệt mỏi. Hàm trước của cô lắp nẹp răng. Cô nhìn tôi từ sau cặp kính, cô có vẻ cởi mở, thân thiện, một chút thận trọng nhưng, trên tất cả, chào đón. Tôi nhìn sang Evangeline, cũng có mái tóc màu đen, rất nhiều tóc. Em gái tôi mở mắt. Đôi mắt màu nâu sáng ngời, giống như những hạt mưa lấp lánh trên mái nhà.
Khi bố tôi và vợ mới của ông nhìn chăm chú xuống Evangeline, tôi có thể thấy tình yêu đích thực trong đôi mắt họ, kiểu tình yêu trần trụi và không có gì xấu hổ.
Họ là một gia đình. Họ đứng cạnh nhau trông hợp, theo kiểu một người đàn ông sáu mươi chín tuổi và một người phụ nữ hai mươi chín tuổi có thể trông hợp cạnh nhau. Nhưng chủ yếu họ vẫn trông như đôi đũa lệch, giống như một người bố với con gái và cháu ngoại, nhưng bỏ qua sự chênh lệch đó, tình cảm giữa họ là thật. Bố tôi, Christos Papastergiadis, đang chăm lo cho hai người phụ nữ mới. Ông đang tạo dựng một cuộc sống khác và tôi là một phần của cuộc sống cũ khiến ông không hạnh phúc. Để cho bản thân thêm chút can đảm, tôi buộc mái tóc lên với ba chiếc kẹp hình hoa đỏ flamenco mà tôi mua ở Tây Ban Nha.
Ông nói sẽ đi lấy xe và chúng tôi sẽ chờ ở ngoài tại điểm đón, rồi ông cho tôi một vài thông tin. Có vẻ là có một chiếc xe buýt - số X59 - đỗ ngay bên ngoài lối ra của sân bay. Giá vé là năm euro và xe sẽ đưa tôi tới quảng trường Syntagma ở trung tâm nếu lần sau tôi có đến Athens. Bố tôi lúc lắc chùm chìa khóa xe trên đầu của Evangeline như một người ông hiền lành và biến mất sau cánh cửa kính.
Tôi hỏi Alexandra có muốn một ly cà phê đá không bởi tôi định mua một cốc ở quầy. Cô nói không, caffeine sẽ ngấm vào sữa mẹ và Evangeline sẽ trở nên quá phấn khích. Cô mỉm cười và chiếc nẹp răng khiến cô trông trẻ hơn tôi rất nhiều. Tôi băn khoăn lúc sinh con, cô có đeo nẹp răng không, nhưng cô đang hỏi tôi làm gì để kiếm sống và tôi nói (trong lúc nhấp frappuccino qua ống hút) rằng tôi vẫn chưa xác định được sẽ làm gì với tấm bằng nhân học của mình.
“Chà, cô nên đi thăm Parthenon. Cô có biết đó là công trình quan trọng nhất của Hy Lạp cổ đại còn tồn tại?”
Tôi có biết, phải.
Cô hỏi lại tôi, bởi tôi đã trả lời trong tâm trí mình mà không nói ra thành lời.
“Parthenon,” cô nhắc lại.
“Tôi đã nghe tới nó, phải.”
“Parthenon,” cô lại nói.
“Đó là một ngôi đền,” tôi nói.
Alexandra đi đôi dép lê làm bằng nỉ màu xám với đám mây nỉ trắng xốp dán ở mũi dép. Đám mây có hai con mắt bằng cúc đảo tròn khi cô di chuyển. Mây có mắt không? Đôi khi những đám mây dông được vẽ như khuôn mặt với đôi má phúng phính để tả gió, nhưng chúng thường không có đôi mắt đảo tròn. Đó là bởi chúng không phải đám mây. Chúng là cừu.
Alexandrea thấy tôi nhìn chằm chằm vào chân cô ta thì cười to. “Đi thứ này rất thoải mái. Tôi mua chưa tới bảy mươi euro. Thật ra, chúng là dép đi trong nhà nhưng có đế cao su chắc chắn nên tôi có thể đi ra ngoài đường.”
Cô dâu trẻ con của bố tôi đeo nẹp răng và đi đôi giày trang trí con thú. Mắt tôi bắt đầu đảo khắp người cô, để xem tôi có thể phát hiện thêm khuyên tai cánh cam hay một chiếc nhẫn hình mặt cười nào không, nhưng tất cả những gì tôi nhìn thấy là hai nốt ruồi ở cổ và một nốt ngay trên môi. Tôi nhận ra rằng mẹ của mình thật tinh tế. Ẩn sau căn bệnh của bà là một người phụ nữ thu hút nhờ biết cách kết hợp trang phục khéo léo.
Xe tới. Bố tôi giúp đưa Alexandra và Evangeline ngồi ở ghế sau. Đến lúc này tôi đã nói ra từ “Bố” và tự nhủ từ “Bố” với chính mình vài lần, và đã khá quen với âm thanh của nó. Ông mất một lúc để thắt dây an toàn qua người Alexandra trong khi cô giữ đứa bé. Ông tung một chiếc chăn trắng nhỏ đắp ngang qua đầu gối của cô, dặn cô bằng tiếng Anh rằng hãy tranh thủ chợp mắt một chút. Ông ra hiệu cho tôi ngồi ở ghế trước. Chiếc va li của tôi cất ở cốp và bố tôi đang lái xe đưa chúng tôi ra đường cao tốc hướng về Athens, không ngừng nhìn qua gương để chắc chắn gia đình của ông được thoải mái, mỉm cười với Alexandra để cô yên tâm rằng ông ở đó, chứ không phải nơi nào khác.
“Bây giờ con đang sống ở đâu, Sofia?”
Tôi nói với ông tôi đang ngủ ở nhà kho của Coffee House vào các ngày thường và ở nhà của Rose vào cuối tuần.
“Ở Tây Ban Nha, con ngủ nghỉ có thoải mái không? Con có chợp mắt vào buổi chiều không?”
Ông thường dùng những từ như “ngủ trưa”, “chợp mắt”, “ngả lưng”. Tôi giải thích rằng tôi không ngủ nhiều. Hầu hết các tối, tôi nằm mà không ngủ, nghĩ về chương trình tiến sĩ chưa hoàn thành của mình và cả những trách nhiệm khác, phần lớn là với người mẹ đang đau ốm của tôi. Tôi nói với ông giờ tôi biết lái xe rồi. Ông chúc mừng tôi rồi tôi giải thích tôi không có bằng lái xe nhưng sẽ lấy bằng khi trở về London. Khi nghe thấy tiếng khọt khẹt từ Evangeline, ông nói gì đó với Alexandra bằng tiếng Hy Lạp và cô trả lời ông bằng tiếng Hy Lạp, tôi không hiểu một từ nào. Bố giải thích rằng “cuộc khủng hoảng” đã dẫn tới khan hiếm thuốc và họ cố gắng giữ cho Evangeline được khỏe mạnh. Một lúc sau, Alexandra hỏi tại sao tôi không nói tiếng Hy Lạp. Bố đã thay tôi trả lời.
“Chà, Sofia không có năng khiếu ngôn ngữ cho lắm. Và con bé không tới trường Hy Lạp vào thứ Tư và thứ Bảy, bởi mẹ nó nghĩ con bé đã phải ngốn ngấu đủ thứ ở trường tiếng Anh rồi.”
Thực ra, tôi không có gì để ngốn ngấu ở trường tiếng Anh. Tôi chỉ có xúp trong bình, đôi khi thì xúp Hy Lạp với đậu lăng.
“Alexandra nói tiếng Ý trôi chảy. Thật ra, cô ấy còn Ý hơn cả Hy Lạp.” Bố tôi bấm còi hai lần.
Tôi nghe thấy tiếng thì thầm giọng trẻ con cao vút. “Si, parlo Italiano [1] ,” và tôi giật bắn, khiến bố tôi đảo tay lái.
Khi tôi quay lại nhìn Alexandra, cô ta đang khúc khích cười, tay cô che miệng. “Cô sinh ra ở Ý sao?” tôi không biết tại sao giọng tôi nghe có vẻ khó chịu như vậy. Có thể cô ta đã đâm vào thân phận của tôi, người ngoài duy nhất trong chiếc xe gia đình có mùi nôn và sữa.
“Tôi không biết chắc.” Cô lắc đầu như thể đó là một điều bí ẩn.
Thân thế lúc nào cũng khó mà chắc chắn được.
Tôi gỡ những bông hoa ra khỏi tóc và để các lọn tóc rối buông xuống vai. Môi tôi vẫn còn nứt nẻ. Giống như các nền kinh tế của châu Âu. Giống như các định chế tài chính ở khắp mọi nơi.
Tối hôm đó, tôi nghe thấy bố hát cho Evangeline nghe bằng tiếng Hy Lạp khi ông cho con bé đi ngủ. Em gái tôi sẽ có năng khiếu ngôn ngữ của bố nó. Nó sẽ học bảng chữ cái với hai mươi tư chữ dưới dạng cổ và hiện đại từ alpha tới omega.
Thứ tình yêu đích thực tuyệt đối sẽ là ngôn ngữ đầu tiên của con bé. Nó sẽ học cách nói “Bố” từ khi còn nhỏ với đúng ý nghĩa của từ đó. Tôi có năng khiếu với thứ ngôn ngữ liên quan tới các triệu chứng và tác dụng phụ, bởi đó là ngôn ngữ của mẹ tôi. Có lẽ đó là tiếng mẹ đẻ của tôi.
Các bức tường trong căn hộ của khu Kolonaki nhiều cây xanh treo kín những tấm poster Vịt Donald lồng khung. Bên ngoài căn hộ của họ, các bức tường được vẽ graffiti với dòng chữ “OXI OXI OXI”. Alexandra giải thích rằng “OXI” trong tiếng Hy Lạp nghĩa là “không”. Tôi nói, tôi biết oxi nghĩa là không, nhưng tại sao lại có nhiều vịt tới vậy? Những bức hình có vẻ được in lên các tấm gỗ công nghiệp rồi được chuyển tới, có gắn thêm móc để dễ dàng treo trên tường. Cô nói chúng khiến cô cảm thấy vui vẻ hơn, bởi cô chưa từng xem bất cứ bộ phim hoạt hình nào khi còn nhỏ. Cô chỉ vào hình vịt Donald trong bộ trang phục thủy thủ, Donald điện đồ Siêu Nhân, Donald đang chạy trốn một con cá sấu, Donald đội chiếc mũ phù thủy màu tím, Donald nhảy qua chiếc vòng làm xiếc.
Alexandra mỉm cười. “Nó là một đứa trẻ. Nó thích có những cuộc phiêu lưu.”
Vịt Donald là một đứa trẻ, một thiếu niên tính khí thất thường hay một người lớn chưa trưởng thành? Hay nó cùng lúc là tổng hợp của tất cả những kiểu người kể trên, giống như tôi? Nó có bao giờ khóc? Mưa khiến cho tâm trạng của nó thế nào? Khi nào nó từ chối và khi nào nó chấp nhận?
Mẹ tôi có bảy bản in của tranh Lowry treo trên tường nhà bà. Bà thích phong cảnh cuộc sống đời thường dưới mưa ở vùng công nghiệp phía Tây Bắc nước Anh trong tranh của ông. Mẹ của Lowry bị ốm và trầm cảm, bởi vậy, ông chăm nom mẹ và vẽ vào buổi tối khi bà ngủ. Mẹ và tôi chưa bao giờ nói về mảng đời đó của ông họa sĩ.
Alexandra nhờ bố tôi sắp bàn ăn cho bữa tối trong khi cô dẫn tôi tới phòng ngủ dự phòng.
“Đừng dùng những cái đĩa đẹp nhất,” cô nói, nhưng ông đã biết điều đó. Nếu mẹ tôi và mẹ của Lowry là những chiếc đĩa - không phải những chiếc đẹp nhất, nhưng cũng không phải những chiếc xấu nhất - ở sau đĩa sẽ in thứ đã làm ra họ: “Nguyên liệu: Nỗi đau”.
Những chiếc đĩa sẽ được trưng bày trên giá như vật gia truyền cho những đứa con không may mắn của họ thừa kế.
Em gái nhỏ của tôi, Evangeline. Nó sẽ được thừa kế gì.
Việc kinh doanh vận tải tàu biển.
“Sofia,” bố tôi nói. “Bố để mấy chiếc cặp tóc hoa trên bàn trong phòng con. Alexandra sẽ chỉ chỗ cho con.”
Phòng ngủ dự phòng không có cửa sổ. Ngột ngạt. Giường là loại giường gấp vải bạt cứng. Nó giống một nhà kho hơn phòng ngủ, giống căn phòng của tôi ở Coffee House. Alexandra cố gắng vừa đóng cửa thật khẽ để tránh đánh thức Evangeline vừa kêu suỵt cho tới khi cô qua được tiếng cót két cuối cùng, rồi rón rén đi xuôi hành lang với đôi dép lê hình con cừu. Tôi nằm xuống giường. Mười hai giây trôi qua. Tôi đổi vị trí gối và chiếc giường sập xuống sàn, đập vào chiếc bàn nhỏ bên cạnh có đặt cặp tóc hình hoa của tôi ở trên. Evangeline tỉnh giấc và bắt đầu khóc. Tôi vẫn nằm trên sàn với chiếc bàn đè trên ngực và co duỗi chân kiểu đạp xe để thư giãn sau chuyến bay. Cửa mở ra và bố tôi bước vào.
“Không, bố,” tôi nói. “Không, đừng bước vào phòng con mà không gõ cửa trước.”
“Con có đau không, Sofia?”
Tôi nằm trong im lặng giữa những món đồ đổ vỡ và tiếp tục co duỗi chân.
Chiếc bàn được sắp ba chiếc đĩa không phải đẹp nhất của họ và một bình nước. Bố tôi nhắc lại lời cầu nguyện bắt đầu bằng “Người nghèo sẽ ăn và sẽ được thỏa lòng” rồi ông đọc phần còn lại bằng tiếng Hy Lạp. Sau đó, ông ngồi im lặng trong khi Alexandra cho mì pasta vào đĩa của ông. Alexandra nói rằng đó là một món ăn địa phương của Ý với cá cơm và nho khô. Cô tự nấu món này bởi cô thích vị ngọt và mặn của nó. Bố tôi không nói một lời sau khi cầu nguyện, bởi vậy, cô phải nói thay ông. Cô hỏi tôi sống ở đâu khi tới Tây Ban Nha, tôi đã xem trận đấu bò tót nào chưa, tôi có thích đồ ăn Tây Ban Nha không và cô hỏi han về thời tiết, nhưng không ai nhắc tới tình trạng lộn xộn ở Athens hoặc hỏi về mẹ tôi. Nếu Rose là một vấn đề to như con voi mà ai cũng cố lảng tránh, tôi có thể thấy Vịt Donald sẽ không đuổi nỗi bà đi. Nó sẽ lợi dụng bà hoặc bắn ná cao su vào bà, nhưng bà là một con thú quá lớn để con vịt với đôi chân có màng màu cam có thể đuổi đi.
Bố tôi đột ngột nói. “Tôi tiết lộ nỗi xấu hổ của mình với Chúa và ngài đã thể hiện tất cả sự khoan dung của mình với tôi.” Ông đang nhìn chiếc đĩa nhưng tôi nghĩ ông đang nói với tôi.
***Line Note Zone***
Tiếng Ý: Phải, nói tiếng Ý.