← Quay lại trang sách

Mái vòm

Vào buổi tối, mái vòm cẩm thạch của phòng khám Gómez tựa như một bên ngực đơn độc, ma mị, sáng lung linh nhờ những ngọn đèn ẩn dưới những cây mọng nước xung quanh. Một ngọn hải đăng của tình mẹ dựng trên núi, đá cẩm thạch màu sữa với các đường vân của nó vươn lên khỏi đám hoa salem tím. Một bầu ngực đêm tĩnh lặng nhưng nham hiểm dưới các vì sao rực sáng. Nếu là một ngọn hải đăng, nó báo hiệu điều gì cho tôi, người đang hoảng sợ trong sa mạc, cả cơ thể run lên? Một ngọn hải đăng có nhiệm vụ giúp chúng ta định vị tránh khỏi các mối nguy hiểm, hướng chúng ta về những bến cảng an toàn. Vậy mà dường như trong phần lớn cuộc đời của tôi, mẹ là mối nguy đó.

Các cánh cửa kính của mái vòm mở ra không một tiếng động khi tôi bước vào lăng mộ cẩm thạch này, không hiểu tại sao mình lại ở đây hay mình hy vọng tìm thấy điều gì. Một nam bác sĩ đứng dựa vào cột nghịch điện thoại, quay lưng về phía tôi. Ánh sáng lờ mờ như đang lúc chạng vạng. Tôi đi về phía phòng tư vấn của Gómez mà không biết ông có ở đó không và tôi sẽ làm gì nếu ông ở đó, nhưng tôi không còn chỗ nào khác để đi. Tôi gõ lên cánh cửa ghép gỗ sồi. Tiếng khớp ngón tay của tôi gõ vào gỗ tạo nên một âm thanh vang và sâu, trái ngược với cẩm thạch, nơi bất cứ thứ gì rơi xuống đều vỡ tan. Không có tiếng trả lời, bởi vậy, tôi dùng vai đẩy cánh cửa nặng nề và nó mở ra. Trong phòng tối om. Máy tính tắt, rèm cửa buông và chiếc ghế của Gómez trống trơn. Tuy nhiên, tôi có thể cảm thấy đang có người ở đó. Căn phòng có mùi lạ, giống như gan hoặc máu, thứ mùi u ám của nội tạng. Tôi nhìn xuống sàn. Gómez nằm sấp ở góc xa của phòng, nhìn vào một thùng giấy. Tôi có thể thấy đế giày cùng cặp kính đang gác trên vệt tóc trắng của ông. Ông quay đầu ra để xem ai đang ở đó và có vẻ giật mình khi thấy tôi. Ông đưa ngón tay lên môi và ra hiệu cho tôi tiến sâu hơn vào trong phòng. Tôi rón rén đi về phía chiếc thùng và quỳ xuống cạnh ông. Jodo đã sinh con. Ba sinh vật nhỏ xíu, nhăn nhúm, ướt át đang bú mẹ. Jodo nằm dài ra, nghiêng một bên, thỉnh thoảng liếm máu đã khô trên lông của các con.

Gómez tiến lại gần tai tôi. “Cô có thấy mắt chúng nhắm không? Chúng có thể ngửi mùi mẹ mình dù vẫn chưa thể nhìn thấy. Mỗi con có một đầu ti yêu thích. Con khỏe mạnh nhất, con trắng này, đang cọ chân vào mẹ để kích thích dòng sữa chảy ra.”

Jodo căng thẳng nhìn Gómez khi ông dùng ngón tay vuốt ve nhẹ nhàng phần lông giữa hai tai nó.

“Mèo mẹ liếm cậu chàng này để giữ ấm cho nó. Cô có thấy nó là con yếu ớt nhất trong cả lứa không? Khi mèo mẹ liếm đứa con yếu ớt, nó để lại mùi hương trên cơ thể con.”

Tôi bảo ông là tôi có chuyện khẩn cấp phải nói với ông. Ngay bây giờ.

Ông lắc đầu. “Đây không phải lúc thích hợp. Cô cần phải hẹn trước, Sofia. Và cô đang nói quá to, làm các con vật của tôi hoảng sợ.”

Tôi bắt đầu thổn thức. “Tôi nghĩ là tôi đã giết chết mẹ tôi.”

Ông vẫn đang vuốt ve Jodo. Giờ thì ngón tay ông dừng lại. “Và cô đã làm thế nào?”

“Tôi bỏ bà ấy ở trên đường. Bà ấy không thể đi lại.”

Ngón tay ông tiếp tục vuốt ve bộ lông trắng.

“Làm sao cô biết bà ấy không thể đi lại.”

“Bà ấy có thể. Nhưng bà ấy không thể.”

“Thế nghĩa là sao?”

“Bà ấy không thể đi nhanh.”

“Làm sao cô biết bà ấy không thể đi nhanh? Bà ấy chưa già.”

“Không đủ nhanh.”

“Nhưng bà ấy có thể đi được?”

“Tôi không biết. Tôi không biết.”

“Nếu cô bỏ mặc bà ấy trên đường, vậy là cô biết bà ấy có thể đi lại.”

Chúng tôi đang thì thầm ngay bên trên lũ mèo con, chúng đang vừa bú vừa đánh nhau, vừa liếm vừa ủn đẩy nhau.

“Mẹ của cô sẽ đứng lên và đi ra lề đường.”

“Nhưng nếu xe tải không dừng lại?”

“Xe tải nào?”

“Có một chiếc xe tải ở phía xa.”

“Ở phía xa?”

“Phải. Nó đang tiến lại.”

“Nhưng nó ở phía xa?”

“Phải.”

“Vậy thì bà ấy sẽ đi tránh khỏi chiếc xe tải.”

Nước mắt tôi nhỏ giọt xuống những con mèo con.

Gómez đẩy tôi ra xa khỏi chiếc thùng.

Tôi ngồi sụp trên sàn nhà, tay ôm đầu gối. “Mẹ tôi bị sao vậy?”

“Cô đang làm phiền Jodo.”

Ông giúp tôi đứng lên và nhanh chóng đưa tôi ra khỏi phòng tư vấn của mình. “Tôi đã hoàn trả chi phí cho các vị. Bây giờ tôi phải lo tưới nước cho vườn và chăm nom các con thú cưng của tôi.” Ông nhìn đồng hồ. “Nhưng đây là câu hỏi của tôi. Cô bị sao vậy?”

“Tôi không biết mẹ tôi chết rồi hay vẫn còn sống.”

“Phải. Đó là điều mà tất cả những đứa trẻ có mẹ ủ rũ phải lo sợ. Chúng tự hỏi mình câu đó mỗi ngày. Tại sao bà ấy chết khi vẫn đang sống? Cô đã bỏ mẹ của mình giữa đường. Có lẽ bà ấy sẽ chấp nhận thử thách của cô để cứu lấy cuộc đời bà. Đó là cuộc đời của bà ấy. Chúng là đôi chân của bà ấy. Nếu bà ấy muốn sống, bà ấy sẽ tránh khỏi nguy hiểm. Nhưng cô sẽ phải chấp nhận quyết định của bà ấy.”

Chưa bao giờ tôi nghĩ rằng bà có thể không muốn sống.

“Cô mãi không chịu hiểu. Cô cứ mù quáng tìm kiếm một mái nhà. Tôi đã nói với cô rằng tôi không còn quan tâm tới vấn đề đi lại của mẹ cô. Làm ơn hãy chú ý cho.”

Ông là thầy mo của làng. Ông sẽ chỉ cho tôi con đường. “Chạy sáu vế cầu thang trước khi cô trở về nhà,” ông nói.

Gómez vô dụng. Ông không biết bất cứ điều gì. Chạy qua sáu vế cầu thang. Đó là kiểu bà tôi hay nói khi bà muốn đuổi tôi đi.

“Chúng ta phải than khóc cho cái chết của chúng ta, nhưng không thể để chúng kiểm soát cuộc sống của chúng ta.”

Đó là những lời cuối cùng của ông. Ông quay trở vào phòng tư vấn và đóng cửa lại. Đó dường như là lời tạm biệt cuối cùng. Như thể ông nói, Mọi chuyện đã xong. Gómez nhảy điệu lên đồng vào trong tâm trí của những con người đau khổ và, cùng với sự trợ giúp của cô con gái, ông kích hoạt phương thuốc của mình, nhưng tôi không chắc tâm trí đang đau khổ đó là của mẹ tôi hay của chính tôi.