← Quay lại trang sách

- X -

Trong ngôi đền thờ nữ thần Isis [23] trên núi Vatner El Hawa đã kết thúc phần đầu của tuần đại tế, đến dự buổi lễ này có cả những tín đồ thuộc cấp hạng thấp. Viên tư tế chủ lễ, một tu sĩ già mặc áo lễ màu trắng, đầu cạo trọc, không răng và không râu, từ trên bục thờ cao quay xuống phía dân chúng và cất giọng khe khẽ, mệt mỏi:

- Hãy sống trong hòa thuận, hỡi các nam nữ tín đồ. Hãy hoàn thiện công tích của mình. Hãy ngợi ca danh sáng nữ thần. Ơn mưa móc của Đức Bà sẽ mãi mãi cùng các con.

Viên tư tế vung tay trên đầu đám đông làm phép ban phước. Lập tức, những người được nhận thánh lễ nằm xoài ra sàn; một lát sau họ đứng dậy lặng lẽ đi ra cửa.

Hôm nay là ngày thứ bảy của tháng Famenot[24] Ai Cập, ngày thánh lễ của các thần Osiris và Isis. Từ chiều, đoàn diễu hành trang trọng đã ba lần đi vòng quanh ngôi đền với đèn lồng, lá cọ, bình sứ và những biểu tượng thần bí của các thần và các vật thiêng phallus [25]. Ở giữa đoàn rước, nổi cao trên vai các viên tư tế và tiểu tiên tri là mô hình thu nhỏ của naos[26] đóng kín bằng gỗ quý kết chạm châu báu, ngà voi và vàng. Ngự trong naos là chính nữ thần, - tồn tại trong dân gian với các tên “Đức Bà Vô Hình”, “Nữ Thần Bảo Trợ Mùa Màng”, “Nữ Chúa Huyền Diệu”, “Mẹ, Chị Và Vợ Của Các Thần”.

Thần Seth hung ác tìm cách mời anh mình là Osiris linh diệu đến dự tiệc, dùng kế lừa thần nằm vào chiếc hòm lộng lẫy, rồi đóng sập nắp hòm, ném cả hòm lẫn vị thần vĩ đại xuống dòng sông Nil. Nữ thần Isis, vừa sinh hạ thần Horus, khóc lóc đi khắp mặt đất tìm thi thể chồng, nhưng mãi vẫn không tìm thấy. Cuối cùng, các loài cá kể với bà là chiếc hòm đã bị sóng đánh ra ngoài biển và dạt đến Biblos, ở đó có một cây gỗ khổng lồ mọc lên quanh hòm và giấu kín trong ruột cây cả thi thể lẫn ngôi nhà nổi của thần. Vua của đất nước đó đã ra lệnh lấy thân cây nọ làm cho mình một chiếc cột trụ lớn mà không biết trong đó có thi thể của chính thần Osiris - Người Gieo Sự Sống Vĩ Đại. Isis tìm đến xứ Biblos, phải chịu bao đói khát, nóng nực và đường núi đá vất vả. Bà lấy hòm từ giữa thân cột ra, tự mình vác đi rồi đem chôn giấu ở chân tường thành phố. Nhưng thần Seth lại bí mật đào trộm thi thể thần Osiris, chặt ra làm mười bốn mảnh và ném vung ra khắp thành phố và làng mạc của Thượng và Hạ Ai Cập.

Với nỗi đau thương vô bờ bến và không ngớt lời khóc than, Isis lại đi tìm những mảnh thi thể thiêng liêng của người vừa là chồng vừa là anh trai mình. Hòa vào tiếng khóc của Isis còn có những lời than khóc của em gái bà, nữ thần Nephthys, của thần Toot hùng mạnh, và của con trai Isis - thần Horus sáng láng.

Đó là ý nghĩa sâu xa của cuộc tế rước hôm nay trong phần đầu của tuần lễ thần. Bây giờ, khi những đệ tử hạ cấp bình dân đã ra về, và sau một khoảng thời gian nghỉ ngắn, phần thứ hai của lễ tế thần vĩ đại bắt đầu. Trong nhà thờ chỉ còn lại những chức sắc bậc cao - các pháp sư, tiên tri và tư tế.

Các em bé trai bận đồ trắng mang thịt, bánh mì, các thứ quả khô và rượu vang ngọt trên khay bạc đi phân phát, một số khác rót từ các bình sứ cổ hẹp của xứ Tyre thứ rượu mạnh seeker mà vào thời đó người ta thường cho tội nhân uống trước khi hành hình để họ giữ được lòng can đảm, đồng thời thứ rượu này còn có một đặc tính vĩ đại là nhen dậy và giữ vững trong lòng ngọn lửa của sự cuồng tín thiêng liêng.

Theo hiệu lệnh của viên tư tế chủ lễ, các đồng nam lùi ra. Viên tư tế trông cửa đóng hết các cửa lại, rồi cẩn thận đi vòng quanh đám đông còn lại trong đền, nhìn kĩ mặt từng người một, hỏi họ bằng những lời huyền bí dùng làm mật khẩu để nhận biết những người được phép đến dự lễ đêm nay. Hai viên tư tế khác đẩy một lư hương lớn có bánh xe đi dọc các bức tường và quanh từng cột trụ một. Khói trầm hương ngào ngạt, xanh biếc, dày đặc lan tỏa khắp ngôi đền, khiến chỉ còn trông thấy lờ mờ những ngọn lửa nhiều màu của các chùm đèn treo làm bằng các khối đá quý trong suốt bọc khuôn vàng chạm và treo trên trần bằng những sợi xích bạc dài. Thời xưa, ngôi đền thờ các vị thần Osiris và Isis này còn bé nhỏ và nghèo nàn, ăn sâu vào trong núi như một cái hang lớn. Lối từ ngoài vào là một hành lang ngầm nhỏ, hẹp nằm sâu dưới đất. Nhưng dưới thời trị vì của vua Solomon, người rộng lòng bảo trợ tất cả các tôn giáo ngoài các giáo phái bắt trẻ em làm vật tế lễ, và nhờ công sức của hoàng hậu Astiz gốc người Ai Cập, ngôi đền đã được mở rộng cả độ sâu lẫn chiều cao và được trang hoàng bằng các đồ quyên tặng lộng lẫy, quý giá.

Bệ thờ cũ vẫn được giữ nguyên trong dáng vẻ đơn sơ khắc khổ trước đây, cùng với vô số những ngăn phòng nhỏ hẹp bao quanh để làm chỗ cất chứa các đồ quý, quà tặng và các vật thiêng, đồng thời đây cũng là nơi dùng cho các mục đích tối mật trong thời gian diễn ra nhưng cuộc tế lễ Orgie[27] thần bí và kín đáo nhất.

Bù vào đó, phần tiền sảnh với những trụ vuông tưởng nhớ nữ thần Hathor cùng bốn hàng hiên gồm hai mươi bốn cây cột tròn thì thật là lộng lẫy. Nhưng gian nội sảnh ngầm dưới lòng đất dùng để làm lễ cầu nguyện được bài trí lại còn tráng lệ hơn nhiều. Toàn bộ mặt sàn được khảm những bức họa tuyệt đẹp mô tả các giống cá, chim, muông thú, bò sát. Trần nhà phủ một lớp men sứ màu thanh thiên với hình mặt trời vàng chói rực rỡ, mặt trăng bạc lấp lánh và vô số tinh tú lung linh cùng những con chim giang rộng cánh bay. Sàn nhà là đất, trần là trời, còn nối trời với đất là những dãy cột tròn hoặc nhiều cạnh hệt như những thân cây khổng lồ mạnh mẽ. Và bởi vì tất cả các đỉnh cột đều kết thúc bằng hình hoa sen mềm mại hay hình cuộn chỉ thảo, nên trần nhà nằm trên đó quả là nhẹ nhàng, thanh thoát, hệt như bầu trời thật vậy.

Các bức tường từ mặt sàn đến độ cao bằng đầu người ốp kín những phiến đá hoa cương, theo ý muốn của hoàng hậu Astiz được chở về đây từ xứ Thebes, nơi các nghệ nhân bản xứ biết cách làm cho mặt đá nhẵn bóng như gương và phát ra những tia sáng kì lạ. Phía trên, cho đến tận trần, các bức tường, cũng như những dãy cột, được chạm khắc và vẽ các bức hình tượng trưng cho các vị thần của cả Thượng lẫn Hạ Ai Cập. Ở đây có thần Sebac được thờ cúng ở Fayume dưới hình dạng con cá sấu, thần mặt trăng Toot ở thành Hmunu có hình chim hạc, thần mặt trời Horus ở xứ Edfu mang biểu tượng là cái xương cụt, thần Bastet ở Bubas đội lốt con mèo, thần không khí Shu là con sư tử, thần Ptah là bò đực thiêng apis, nữ thần hoan hỉ Hatoc là con bò cái, thần Anubis có đầu chó rừng; rồi thần Monte ở xứ Hermon, thần Mina xứ Coptic, nữ thần bầu trời Neith ở xứ Sais, và cuối cùng là một hung thần đội lốt cừu mà người ta không dám nhắc tên, chỉ gọi là Hentiementu, có nghĩa là “Sống ở phương Tây”.

Đàn thờ màu đen sẫm tối nổi cao ở giữa đền, còn tận sâu phía trong ánh lên mờ mờ những bức tường thếp vàng của cấm điện che khuất tượng hình nữ thần Isis. Ba lần cửa - lớn, giữa và hai cửa phụ nhỏ - dẫn vào điện thờ. Trước cửa phụ là bệ dành cho các vật tế với con dao làm bằng đá vỏ chai obsidian xứ Ethiopia. Đứng trên bậc tam cấp dẫn lên bàn thờ là các nam nữ tư tế hạ phẩm với thanh ba, chũm chọe, sáo và lục lạc.

Hoàng hậu Astiz nằm trong một căn phòng kín đáo. Một khe nhỏ hình vuông được khéo léo che khuất sau tấm màn vải nặng nhìn thẳng ra bàn thờ cho phép không để lộ mình vẫn có thể quan sát tất cả mọi chi tiết của việc tế lễ. Tấm áo mỏng bằng vải sa thêu chỉ bạc ôm sát thân thể của hoàng hậu, để hở đôi cánh tay trần đến tận vai và hai chân từ bụng chân trở xuống. Qua lần tơ trong suốt lồ lộ ra làn da hồng mịn và toàn bộ những chỗ thăng giáng cùng đường nét tuyệt hảo của tấm thân ngà ngọc mà cho đến ngày nay, mặc dù đã ngoài ba mươi tuổi, vẫn chưa mất đi vẻ lộng lẫy, nuột nà và tươi mát. Mái tóc nhuộm xanh của hoàng hậu bỏ xõa xuống vai, chảy dọc theo triền lưng rồi được tết lại phía dưới bởi vô số những viên cầu thơm bằng hương liệu. Khuôn mặt nàng đánh son hồng và thoa phấn trắng, đôi mắt kẻ mực tinh xảo trông rất to và cháy rực trong bóng tối như mắt của một mãnh thú thuộc họ mèo. Một tràng bùa thiêng bằng vàng từ cổ buông xuống chia đôi bộ ngực nửa kín nửa hở.

Kể từ khi vua Solomon, mệt mỏi bởi sự háo dâm quá độ của hoàng hậu Astiz và tỏ ra lạnh nhạt với nàng, hoàng hậu Astiz, cùng với toàn bộ nỗi phẫn kích dữ dội của thói ghen tuông đàn bà bị hạ nhục, đã sa đắm vào những cuộc truy hoan orgie thần bí của thú dâm dục đồi bại nằm trong các nghi thức tối cao của lễ tế hoạn nữ thần Isis. Hoàng hậu bao giờ cũng xuất hiện cùng các tư tế hoạn thị, và ngay giờ đây, khi một người trong số họ nhịp nhàng phe phẩy chiếc quạt làm bằng lông công lên đầu nàng thì một đám đông khác ngồi trên sàn nhà dán chặt những cặp mắt khoái lạc, mê mẩn đến mất trí lên người hoàng hậu. Lỗ mũi của họ phập phồng ngây ngất bởi mùi hương tỏa ra từ thân thể nàng, những ngón tay run rẩy của họ cố tìm cách kín đáo chạm vào mép tấm áo mỏng khẽ xao động trên người nàng. Lòng ham muốn quá độ không bao giờ được thỏa mãn đã kích thích trí tưởng tượng của họ đến cực điểm. Sự sáng tạo của họ trong các thú thưởng thức khoái cảm Cybele và Asherah[28] đã vượt ra ngoài mọi khả năng của con người. Vì hoàng hậu, họ ghen tuông với nhau, với tất cả đàn ông, đàn bà và trẻ con, thậm chí ghen với chính bản thân hoàng hậu, họ thờ phụng nàng còn hơn cả thờ phụng nữ thần Isis. Họ vừa si mê nàng, vừa căm ghét nàng, vì nàng là nguồn gốc cháy bỏng và vô tận của những nỗi đau khổ vừa tàn bạo, vừa ngọt ngào của họ.

Khắp Jerusalem truyền tụng những tin đồn ám muội, hung dữ, khủng khiếp và đầy quyến rũ mê hồn về hoàng hậu Astiz. Bố mẹ của các cậu con trai, con gái xinh đẹp tìm cách giữ con cái tránh xa cặp mắt của hoàng hậu, người ta không dám nhắc đến tên nàng trên giường ngủ của các cặp vợ chồng như dấu hiệu của những điều ô uế và bất hạnh. Nhưng tính hiếu kì đầy khêu gợi và say mê đã cuốn hút những linh hồn đến với nàng, trao những thể xác vào vòng tay quyền lực của nàng. Bất cứ ai dù chỉ một lần được hưởng những vuốt ve đẫm máu cuồng loạn của hoàng hậu Astiz thì sẽ không bao giờ quên được nàng và vĩnh viễn chịu số phận những kẻ nô lệ bị ruồng bỏ thảm hại của nàng. Sẵn sàng chấp nhận mọi sự nhục nhã, sẵn sàng phạm pháp và gây tội ác để lại được thêm một lần chiếm hữu thân thể nàng, họ trở nên giống như những kẻ bất hạnh một lần nếm thử thứ nước đắng a phiến của xứ Ophir mang lại những giấc mộng ngọt ngào, khiến từ nay họ chỉ thèm muốn, ao ước, ngưỡng mộ một mình nó cho đến khi phải rời bỏ cõi đời vì kiệt sức và điên loạn.

Chiếc quạt nhịp nhàng phe phảy bầu không khí nóng nực. Đám tư tế hoạn thị trong cơn ngây dại câm lặng ngồi chiêm ngưỡng bà chúa tể khủng khiếp của mình. Nhưng dường như hoàng hậu đã quên mất sự tồn tại của họ ở quanh mình. Khẽ gạt tấm màn vải sang bên, nàng nhìn không rời mắt qua phía đối diện ở bên kia bàn thờ, nơi trước đấy từ sau những nếp gấp tối thẫm của bức trướng cổ viền vàng thường hiện ra gương mặt rạng rỡ, tuấn nhã của nhà vua nước Israel. Chỉ một mình ngài là người được nàng Astiz hiếu dâm và tàn bạo, bà hoàng hậu bị ruồng bỏ, yêu bằng toàn bộ trái tim cuồng nhiệt và hư tật của mình. Nàng tìm khắp nơi một ánh nhìn thoáng qua, một lời nói dịu dàng, một cái chạm tay lướt nhẹ của ngài, mà không được. Trên các buổi thiết triều long trọng, giữa các bữa tiệc trong cung và vào những ngày xử án, vua Solomon đối xử với nàng một cách kính trọng như với một hoàng hậu, một công chúa con vua, nhưng tâm hồn ngài đã chết lạnh đối với nàng. Và rất nhiều lần bà hoàng hậu ngạo mạn đã phải ra lệnh vào những giờ thích hợp cố ý khiêng kiệu mình đi ngang qua cung Liban để dẫu từ xa, không ai nhận thấy, qua lần vải dày của tấm màn che, được nhìn thấy giữa đám đông triều thần khuôn mặt kiêu hãnh, khôi hùng của vua Solomon. Và đã từ lâu, tình yêu nhiệt cuồng của nàng đối với nhà vua đã hòa trộn với lòng căm thù cháy bỏng, đến mức chính hoàng hậu Astiz cũng không thể tách phân được chúng ra.

Trước đây vua Solomon vẫn ngự giá xuống đền Isis vào những ngày đại lễ và dâng vật tế lên nữ thần, thậm chí ngài còn nhận chức tư tế thượng phẩm, người thứ hai sau hoàng đế Ai Cập. Nhưng những nghi thức thần bí của lễ Tế Máu Sinh Thực đã khiến trí tuệ và trái tim ngài phải từ bỏ sự ngưỡng mộ Đức Mẹ và các thần.

- Người nào bị hoạn hoặc vì ngu dốt, hoặc bị cưỡng bức, hoặc bởi tai nạn, hoặc do bệnh tật, kẻ đó không có tội lỗi trước thần linh, - nhà vua nói. - Nhưng thật đau khổ cho kẻ nào lại tự mình đi gây tật cho mình.

Và thế là đã hàng năm nay, buồng của nhà vua trong ngôi đền bị bỏ trống. Và ánh mắt si mê cháy bỏng của hoàng hậu khao khát nhìn mãi lên tấm màn bất động chỉ hoài công vô ích.

Trong lúc đó, rượu vang, rượu seeker và mùi trầm hương ngào ngạt đã có tác động rõ rệt đến những người tụ tập trong đền. Đã vang lên nhiều hơn tiếng cười, tiếng la hét, tiếng bình, chén bằng bạc rơi lên sàn đá. Phút tế máu thần bí vĩ đại đang đến gần. Cơn cuồng hứng đã bao trùm lên tất cả.

Hoàng hậu đưa ánh mắt lơ đãng nhìn lướt qua ngôi đền và các tín đồ. Ở đây có rất nhiều những người đáng kính và danh tiếng thuộc đoàn tùy giá vua Solomon và những người thân cận, các tướng lĩnh của nhà vua: Ben-Geber, lãnh chúa đất Argov; Ahimaaz, phò mã, chồng công chúa con vua Basemath; Ben-Decker thông minh; Zavuf được mang tước hiệu cao quý theo phong tục phương Đông là “bạn vua”; anh trai Solomon, con vua David trong cuộc hôn nhân đầu tiên - Daluia, một người suy nhược, dở sống dở chết, mất trí, lẩm cẩm trước tuổi vì cuộc sống quá xa hoa và nghiện ngập. Tất cả bọn họ - một số do tín ngưỡng, một số vì các tính toán vụ lợi, một số do bắt chước, còn số khác do những mục đích hiếu sắc - đều là tín đồ của nữ thần Isis.

Thế rồi ánh mắt của hoàng hậu dừng lại rất lâu và chăm chú, với một vẻ nghĩ ngợi căng thẳng, trên khuôn mặt trẻ trung, tuấn tú của Eliab, một trong những người chỉ huy quân thị vệ của vua Solomon.

Hoàng hậu biết rõ vì sao gương mặt da ngăm ngăm của Eliab lại cháy bừng lên như vậy, vì sao cặp mắt nóng bỏng của gã với một nỗi u buồn da diết như vậy lại hướng về đây, lên tấm màn che khẽ lay động bởi những cử động của đôi cánh tay nuột nà đẹp tuyệt trần của hoàng hậu. Một lần, gần như đùa bỡn, tuân theo ý muốn nhất thời thoáng qua, nàng bắt Eliab hưởng cùng mình cả một đêm dài lạc thú. Đến sáng, nàng thả cho gã về, nhưng từ đó cho đến nay đã nhiều ngày liên tục, hoàng hậu thấy ở khắp nơi - trong cung vua, nơi đền thờ, ngoài đường phố - hai con mắt si mê, nhẫn nhục u buồn của gã bám riết dõi theo nàng.

Hai hàng lông mày đen nhánh nhíu lại và cặp mắt dài xanh biếc của hoàng hậu bỗng nhiên trở nên tối thẫm bởi một ý nghĩ khủng khiếp. Bằng cử động khó nhận thấy của bàn tay, nàng ra lệnh viên tư tế hoạn thị hạ quạt xuống, rồi nói khẽ:

- Tất cả ra khỏi đây. Husai, ngươi hãy đi gọi Eliab, quan chỉ huy thị vệ vào đây gặp ta. Nhớ là chỉ được đến một mình.

Chú thích:

[23] Isis: Nữ thần Đất màu, Nước và Gió, thần bảo vệ xác người chết, mẹ của thần Mặt trời Horus.

[24] Tháng Famenot: Tương đương giữa tháng ba lịch hiện đại.

[25] Phallus (tiếng Hi Lạp): Cơ quan sinh dục của đàn ông. Người xưa tin vào sức mạnh đặc biệt thiêng liêng của bộ phận sinh dục đàn ông như biểu tượng của phép sinh tạo trong tự nhiên, thần thánh hóa và thờ cúng nó qua các lời cầu nguyện, các bài hát, điệu múa mô phỏng hành động giao cấu, hiến dâng trinh tiết và tự thiến, như được nói đến trong truyện này.