← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 15 CÁC DOANH NGHIỆP LỚN VÀ MÔI TRƯỜNG: -ĐIỀU KIỆN KHÁC NHAU, HẬU QUẢ KHÁC NHAU

Khai thác tài nguyên - Hai mỏ dầu - Động cơ của những công ty dầu lửa - Hoạt động khai thác khoáng sản rắn - Động cơ của các công ty khai thác mỏ - Những khác biệt của các công ty khai thác mỏ - Ngành khai thác gỗ - Hội đồng Quản trị Rừng thế giới - Ngành hải sản - Kinh doanh và công chúng.

Tất cả các xã hội hiện đại đều phụ thuộc vào việc khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, cả tài nguyên không tái sinh (như dầu lửa và kim loại) và tài nguyên tái sinh (như gỗ và cá). Hầu hết năng lượng của chúng ta là từ dầu lửa, khí và than. Hiển nhiên tất cả công cụ, các hộp đựng, máy móc, xe cộ và nhà cửa của chúng ta đều làm từ kim loại, gỗ, nhựa tổng hợp và các chất tổng hợp khác. Chúng ta viết và in trên giấy làm từ gỗ. Các nguồn thực phẩm tự nhiên chủ yếu của chúng ta là cá và các nguồn hải sản khác. Hàng chục quốc gia có nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào các ngành khai thác tài nguyên: ví dụ, trong ba nước mà tôi tiến hành phần lớn công tác thực địa, những ngành kinh tế chính của Indonesia là khai thác gỗ, sau đó tới khai thác mỏ, tại quần đảo Solomon là khai thác gỗ và đánh bắt cá, tại Papua New Guinea là khai thác dầu lửa, khí tự nhiên, khai mỏ và khai thác gỗ (đang ngày càng tăng). Bởi xã hội của chúng ta gắn bó chặt chẽ với việc khai thác các nguồn tài nguyên này, nên câu hỏi duy nhất là chúng ta khai thác tài nguyên thiên nhiên ở đâu? Với số lượng bao nhiêu? Và bằng phương tiện nào?

Một dự án khai thác tài nguyên thường đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu lớn, do đó đa phần hoạt động khai thác tài nguyên là do các doanh nghiệp lớn tiến hành. Thường có sự mâu thuẫn giữa các nhà môi trường và các doanh nghiệp kinh tế lớn, mà bên này luôn coi bên kia như kẻ thù. Các nhà môi trường buộc tội các doanh nghiệp gây thiệt hại cho cuộc sống con người do tàn phá môi trường, và thường xuyên đặt lợi ích tài chính của doanh nghiệp lên trên lợi ích của công chúng. Vâng, thường là đúng như vậy. Ngược lại, các doanh nghiệp cũng lên án các nhà môi trường thường xuyên bỏ qua và không quan tâm tới các thực tiễn kinh doanh, không quan tâm tới mong muốn của cư dân địa phương và chính phủ các nước về vấn đề việc làm và phát triển, đặt vấn đề bảo vệ chim chóc lên trên bảo vệ con người, và không khen ngợi các doanh nghiệp khi họ thực hiện tốt các chính sách môi trường. Vâng, những ý kiến này cũng thường rất đúng.

Trong chương này, tôi sẽ chỉ rõ rằng lợi ích của các doanh nghiệp lớn, các nhà môi trường cũng như toàn xã hội luôn luôn có quan hệ chặt chẽ với nhau, không như những gì mà các bạn có thể suy đoán từ những lời trách cứ lẫn nhau của các bên. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, thực sự có những xung đột lợi ích: những gì mang lại lợi nhuận cho một doanh nghiệp, ít nhất trong thời gian trước mắt, có thể gây tổn hại cho toàn xã hội. Trong những tình huống này, hành vi của các doanh nghiệp trở thành một ví dụ trên quy mô lớn về hành vi lý trí của một tập thể (trong trường hợp này là một doanh nghiệp) trở thành một quyết định tai hại của xã hội, như đã thảo luận ở chương trước. Chương này sẽ lấy bốn ngành khai thác tài nguyên mà tôi có kinh nghiệm làm việc trực tiếp để làm ví dụ, nhằm tìm hiểu một số lý do vì sao các công ty khác nhau có những nhận thức về lợi ích khác nhau để áp dụng những chính sách khác nhau, hoặc gây tổn hại hoặc bảo vệ môi trường. Động cơ thực tế của tôi là xác định những thay đổi nào có tác động lớn nhất đến các công ty hiện đang gây tổn hại môi trường để họ chuyển sang tích cực bảo vệ môi trường hơn. Các ngành khai thác mà tôi sẽ thảo luận là dầu lửa, khai thác khoáng sản rắn và than, khai thác gỗ và đánh bắt hải sản.

Trong lĩnh vực dầu lửa, tôi từng làm việc tại hai mỏ dầu ở khu vực New Guinea có những tác động môi trường trái ngược nhau, một mỏ thì gây tổn hại môi trường còn mỏ kia nỗ lực bảo vệ môi trường. Tôi thấy những kinh nghiệm này rất hữu ích, bởi trước đó tôi từng nghĩ rằng ngành dầu lửa chủ yếu gây tổn hại môi trường. Cũng như phần lớn công chúng, tôi cũng không ưa ngành dầu lửa, và tôi cực kỳ nghi ngờ bất kỳ ai dám nói tốt về hoạt động của ngành này hay đóng góp của nó với xã hội. Nhưng những quan sát của tôi buộc tôi thay đổi định kiến của mình và nghĩ về những yếu tố có thể khuyến khích nhiều công ty khác trở thành những tấm gương tích cực.

Mỏ dầu đầu tiên mà tôi tiếp xúc nằm trên đảo Salawati, ngoài khơi New Guinea thuộc Indonesia. Mục tiêu tôi tới đây chẳng liên quan gì tới dầu mà nó là một phần của chương trình khảo sát các loài chim trên các đảo New Guinea; hóa ra phần lớn đảo Salawati đã được công ty dầu khí quốc gia Indonesia là Pertamina thuê để thăm dò dầu lửa. Tôi tới Salawati năm 1986 với vai trò là khách của Pertamina, và được phó Chủ tịch và nhân viên quan hệ công chúng chu đáo cho mượn một chiếc xe để lái dọc những con đường của công ty.

Do họ chu đáo, nên tôi cũng cảm thấy buồn khi phải thuật lại những gì tôi đã chứng kiến. Từ xa đã có thể nhận ra mỏ dầu bởi ngọn lửa lớn phụt ra từ một tháp cao, do khí tự nhiên, sản phẩm phụ trong quá trình khai thác dầu, bị đốt cháy bởi chẳng biết dùng làm gì. (Ở đây không có những cơ sở hóa lỏng và vận chuyển khí tự nhiên cho mục đích thương mại). Để xây dựng những con đường xuyên qua những khu rừng của Salawati, những vạt rừng rộng chừng 80 mét đã bị phát trụi, một khoảng trống quá rộng để nhiều sinh vật của rừng nhiệt đới New Guinea như các loài bò sát, ếch nhái, chim chóc và động vật có vú có thể vượt qua. Tôi chỉ bắt gặp ba loài chim ăn quả lớn, trong số 14 loài được ghi nhận ở Salawati và là những mục tiêu ưa thích của những người thợ săn trong vùng New Guinea bởi chúng có trọng lượng lớn, nhiều thịt và ngon. Một nhân viên Pertamina chỉ cho tôi vị trí sinh sản của hai đàn chim, nơi anh ta cho biết thường tới đó bắn chim bằng súng ngắn. Tôi nghĩ chắc hẳn số chim trong khu khai thác dầu lửa này suy thoái do bị săn bắn quá nhiều.

Mỏ dầu thứ hai mà tôi có dịp làm quen là Kutubu, chi nhánh của tập đoàn dầu lửa quốc tế lớn Chevron khai thác tại lưu vực sông Kikori của Papua New Guinea. (Tôi sẽ gọi tắt công ty điều hành là “Chevron” tại thời điểm tôi tới thăm, nhưng đúng ra phải là Chevron Nuigini Pty.Ltd., một chi nhánh thuộc sở hữu của tập đoàn Chevron; còn mỏ dầu là một liên doanh của sáu công ty dầu lửa, trong đó có Chevron Nuigini Pty.Ltd.; năm 2001, công ty mẹ là tập đoàn Chevron đã sáp nhập với Texaco thành Chevron Texaco; và năm 2003 Chevron Texaco đã bán phần vốn của mình trong liên doanh và chuyển giao vai trò điều hành mỏ dầu cho một bên khác trong liên doanh là công ty Oil Search Limited). Môi trường tại lưu vực sông Kikori rất nhạy cảm và gây nhiều khó khăn cho khai thác dầu bởi thường xuyên xảy ra lở đất, địa hình chủ yếu là đá vôi, và là một trong những nơi có lượng mưa cao nhất thế giới (trung bình 10.922 milimét mỗi năm, tới 355,5 xăngtimét mỗi ngày). Năm 1993, Chevron cam kết với Quỹ Thiên nhiên Hoang dã Thế giới (WWF) chuẩn bị một dự án phát triển và bảo tồn hợp nhất trên quy mô lớn trong toàn lưu vực. Chevron hy vọng sẽ giúp đỡ WWF giảm thiểu những tổn hại môi trường, vận động chính quyền Papua New Guinea bảo vệ môi trường, trở thành một đối tác tin cậy trong mắt các nhóm hoạt động môi trường, mang lại lợi ích kinh tế cho cộng đồng cư dân địa phương, và thuyết phục Ngân hàng Thế giới tài trợ cho các dự án của địa phương. Từ năm 1998-2003, tôi đã bốn lần tới làm việc ở mỏ dầu và lưu vực sông này với tư cách là cố vấn của WWF, mỗi lần kéo dài một tháng. Tôi được tự do đi lại trong khắp khu vực khai thác trên chiếc xe của WWF và được phỏng vấn riêng những công nhân của Chevron.

Khi bay từ thủ đô Port Moresby của Papua New Guinea tới sân bay của mỏ dầu Kutubu tại Moro, lúc sắp hạ cánh, nhìn qua cửa sổ máy bay tôi tưởng sẽ thấy những dấu hiệu các cơ sở hạ tầng của mỏ dầu hiện dần ra. Nhưng tôi bối rối khi chỉ thấy những cánh rừng nhiệt đới ngút tầm mắt, trải dài tới tận chân trời. Cuối cùng tôi cũng phát hiện ra một con đường, nhưng đó chỉ là một vệt nhỏ rộng khoảng 8 mét chạy xuyên qua khu rừng nhiệt đới, nhiều đoạn cây cối còn lấn cả sang hai bên đường, thật như mơ với một người quan sát chim như tôi. Một trong những khó khăn lớn trong nghiên cứu các loài chim rừng nhiệt đới là khó nhìn thấy những con chim trong chính khu rừng đó, và cơ hội tốt nhất để quan sát chúng là men theo những con đường nhỏ để có thể theo dõi chúng từ phía bên kia. Ở đây có một con đường nhỏ dài chừng 160 kilômét, từ giếng dầu cao nhất ở độ cao gần 1.800m so với mực nước biển trên núi Moran chạy xuống bờ biển. Ngày hôm sau, khi tôi bắt đầu đi bộ dọc theo con đường thẳng tắp đó để tiến hành khảo sát, tôi đã thấy những con chim thường xuyên bay ngang qua, và những loài vật có vú, thằn lằn, rắn, ếch nhái chạy hoặc bò qua con đường. Hóa ra con đường này được thiết kế chỉ vừa đủ rộng cho hai chiếc xe tải đi ngược chiều. Ban đầu, những trạm thăm dò địa chấn và các giếng thăm dò dầu lửa được xây dựng tại khu vực này, nhưng không hề xây dựng bất cứ con đường nào dẫn vào những khu vực này, mà chỉ dùng trực thăng hoặc đi bộ.

Từ khi hạ cánh xuống sân bay Moro của Chevron, tôi đi hết từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Mặc dù hành lý của tôi đã được nhân viên hải quan Papua New Guinea kiểm tra khi nhập cảnh, nhưng cả lúc đến và đi tại sân bay của Chevron tôi đều phải mở hết các túi xách để kiểm tra một lần nữa, còn kỹ hơn cả lần tôi tới sân bay Tel Aviv của Israel. Vậy những nhân viên này kiểm tra cái gì? Lúc đến, những đồ vật bị cấm hoàn toàn là các loại súng hay dụng cụ săn bắn, ma túy và rượu; lúc đi nghiêm cấm đưa ra ngoài bất kỳ loài động thực vật nào, kể cả lông hay các bộ phận cơ thể của động vật có thể bị buôn lậu. Nếu vi phạm những nguyên tắc này, ngay lập tức người vi phạm sẽ bị tự động trục xuất khỏi các khu vực thuộc quyền quản lý của công ty, như một thư ký WWF vô tình và dại dột mang hộ một gói đồ cho một người khác (nhưng đáng tiếc trong đó lại có ma túy) nên đã bị trục xuất.

Sáng hôm sau tôi lại ngạc nhiên, sau khi ra đường từ lúc rạng đông để quan sát các loài chim trong vài giờ. Khi trở về, nhân viên an toàn của trại gọi tôi tới văn phòng thông báo tôi đã vi phạm hai quy định của Chevron và cảnh cáo không được phép tái phạm. Thứ nhất, tôi đã bước sâu vào làn đường vài mét để quan sát một con chim. Điều đó có thể khiến tôi bị xe tải đâm phải, hoặc để tránh không đâm phải tôi, chiếc xe có thể đổi hướng đâm vào một đường ống dẫn dầu bên lề đường và gây ra tràn dầu. Từ đó trở đi, tôi phải cách xa đường khi quan sát chim. Thứ hai, tôi đã không đội mũ bảo hiểm trong khi đây là khu vực bắt buộc đội mũ bảo hiểm, và nhân viên an toàn đưa cho tôi một mũ bảo hiểm, từ đó trở đi tôi phải đội để đảm bảo an toàn cho bản thân mỗi khi quan sát chim, ví dụ như đề phòng cây đổ chẳng hạn.

Đó chỉ là bước làm quen với sự quan tâm cực kỳ của Chevron về an toàn và bảo vệ môi trường, nhưng công nhân của công ty thường xuyên thấm nhuần điều này. Trong bốn lần tới đây, tôi chưa thấy nơi nào bị tràn dầu, nhưng tôi có đọc những thông báo đăng trên bản tin hằng tháng của Chevron về những sự cố và nguy cơ xảy ra sự cố là mối quan tâm chính của các nhân viên an toàn, những người phải thường xuyên đi lại bằng máy bay hoặc xe tải để điều tra từng sự cố. Vì quan tâm, tôi đã ghi lại tất cả 14 sự cố từ tháng 3/2003. Những nguy cơ gây sự cố nghiêm trọng nhất đòi hỏi phải khảo sát kỹ lưỡng và kiểm tra lại các quy trình an toàn trong tháng đó là một chiếc xe tải trong lúc lùi đã húc đổ một biển báo dừng, một chiếc xe tải khác thì bị mất phanh, một thùng hóa chất mất giấy tờ lý lịch cần thiết, và phát hiện rò rỉ khí từ một chiếc van kim nén.

Tôi lại một lần nữa ngạc nhiên trong khi đang quan sát chim. New Guinea có nhiều loại chim và động vật có vú, mà sự xuất hiện và số lượng của chúng được coi là những chỉ số nhạy cảm với sự xáo trộn do con người gây ra, bởi chúng hoặc có trọng lượng lớn nên bị săn bắn để lấy thịt, lấy những bộ lông đặc biệt, hoặc bị hạn chế trong những khu rừng chưa bị tác động và không xuất hiện trong môi trường sống thứ cấp đã bị thay đổi. Những loài vật đó bao gồm chuột túi cây (động vật có vú bản địa lớn nhất New Guinea); đà điểu đầu mèo, chim mỏ sừng, và loài chim cu lớn (loài chim lớn nhất của New Guinea); chim thiên đường, vẹt Pesquet và những loài vẹt sặc sỡ khác (những bộ lông của chúng rất có giá trị); và hàng trăm loài vật khác ở sâu trong rừng. Khi tôi bắt đầu quan sát chim tại khu vực Kutubu, tôi đã dự kiến mục tiêu chính là xác định số lượng những loài vật này trong khu vực các giếng dầu, các cơ sở sản xuất và đường ống dẫn dầu của Chevron giảm bao nhiêu so với khu vực bên ngoài.

Nhưng tôi sửng sốt khi phát hiện số lượng những loài vật này trong khu vực hoạt động của Chevron còn đông hơn nhiều lần so với bất cứ nơi nào mà tôi từng tới trên đảo New Guinea, trừ một số vùng xa xôi không có con người sinh sống. Nơi duy nhất tôi nhìn thấy loài chuột túi cây hoang dã tại Papua New Guinea, trong suốt 40 năm tôi sinh sống ở đây, chính là trong phạm vi vài kilômét của các trại của Chevron; nếu ở những nơi khác, chúng sẽ là loài thú đầu tiên bị săn bắn và chỉ có vài con sống sót và phải học cách kiếm ăn ban đêm, nhưng trong vùng Kutubu tôi đã thấy chúng thản nhiên hoạt động ban ngày. Vẹt Pesquet, chim ưng Harpy của New Guinea, chim thiên đường, chim mỏ sừng và những con chim cu lớn có rất nhiều trong những vùng tiếp giáp khu khai thác dầu, tôi đã thấy những con vẹt Pesquet đậu trên những tháp thông tin của khu khai thác. Có được điều này là do công ty Chevron nghiêm cấm công nhân và nhà thầu săn bắn các loài thú hay đánh bắt cá bằng bất kỳ phương tiện nào trong khu vực dự án, và bởi các cánh rừng còn nguyên, không hề bị đụng chạm. Chim và thú cảm nhận thấy điều đó và trở nên dạn dĩ với con người. Do vậy, hoạt động bảo vệ môi trường của mỏ dầu Kutubu vượt xa công viên quốc gia lớn nhất và được bảo vệ nghiêm ngặt nhất Papua New Guinea.

Trong nhiều tháng, tôi đã cực kỳ bối rối trước những điều kiện này của mỏ dầu Kutubu. Xét cho cùng, Chevron không phải là một tổ chức môi trường phi lợi nhuận, cũng chẳng phải một công viên quốc gia. Mà thực chất nó là một tập đoàn dầu lửa hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận và thuộc sở hữu của các cổ đông. Nếu Chevron chi tiền cho các chính sách môi trường mà cuối cùng làm giảm lợi nhuận của các hoạt động khai thác dầu lửa của mình, thì chắc chắn các cổ đông sẽ kiện công ty. Rõ ràng công ty đã xác định rằng những chính sách môi trường này cuối cùng cũng giúp mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho hoạt động kinh doanh của công ty. Vậy chúng có tác dụng như thế nào?

Các ấn phẩm của tập đoàn Chevron đều nhấn mạnh vấn đề môi trường như một động lực thúc đẩy tập đoàn phát triển. Không thể nghi ngờ gì, sự thực đúng là như vậy. Tuy nhiên, trong những cuộc chuyện trò trong suốt sáu năm qua với hàng chục nhân viên cấp thấp cũng như cấp cao của Chevron, nhân viên của các công ty dầu lửa khác và những người ngoài ngành dầu lửa, tôi nhận ra rằng còn có nhiều yếu tố khác góp phần tạo nên những chính sách môi trường này.

Một trong những yếu tố đó là tầm quan trọng của việc tránh để xảy ra những thảm họa môi trường cực kỳ tốn kém. Khi tôi hỏi một nhân viên an toàn của Chevron, trước đây từng làm nghề quan sát chim, về động cơ thúc đẩy Chevron thực hiện những chính sách môi trường này, anh ta trả lời ngắn gọn: “Exxon Valder, Piper Alpha và Bhopal”. Anh ta muốn nói đến sự cố tràn dầu lớn do tàu chở dầu Exxon Valder của tập đoàn Exxon bị mắc cạn ngoài khơi Alaska năm 1989, thảm họa cháy dàn khoan dầu Piper Alpha của tập đoàn Occidental Petroleum trên Biển Bắc làm chết 167 người (Phụ bản 33), và thảm họa rò rỉ hóa chất tại nhà máy hóa chất Bhopal của tập đoàn Union Carbide tại Ấn Độ năm 1984 giết chết 4.000 người và làm bị thương 200.000 người khác (Phụ bản 34). Đây là ba thảm họa công nghiệp nghiêm trọng nhất, tốn kém nhất và bị công chúng chỉ trích nhiều nhất xảy ra trong thời gian gần đây. Các công ty để xảy ra sự cố thiệt hại hàng tỷ đô-la, và sự cố Bhopal khiến Union Carbide mất khả năng tồn tại độc lập. Anh nhân viên an toàn của Chevron cũng đề cập tới thảm họa tràn dầu tại dàn khoan A của công ty Union Oil tại eo biển Santa Barbara, ngoài khơi Los Angeles năm 1969, có vai trò như một hồi chuông cảnh tỉnh ngành khai thác dầu lửa. Do đó Chevron và một số tập đoàn dầu lửa quốc tế lớn khác đã nhận ra một điều rằng, thà mỗi năm chi thêm vài triệu đô-la cho dự án, hay thậm chí vài chục triệu đô la, về lâu dài, họ sẽ tiết kiệm được những khoản tiền lớn hơn bởi giảm thiểu nguy cơ thiệt hại hàng tỷ đô-la nếu xảy ra một sự cố kiểu này, hay thậm chí khiến cả một dự án phải ngừng hoạt động và mất toàn bộ những khoản đầu tư. Một giám đốc của Chevron giải thích với tôi rằng ông đã hiểu ra giá trị kinh tế của các chính sách môi trường sạch khi ông chịu trách nhiệm làm sạch những hầm dầu tại một mỏ dầu ở Texas và thấy rằng chi phí làm sạch cho một hầm dầu nhỏ trung bình tốn 100.000 đô-la. Thông thường chi phí làm sạch ô nhiễm tốn kém hơn chi phí ngăn chặn ô nhiễm nhiều lần, giống như các bác sĩ thấy rằng việc điều trị những bệnh nhân bị ốm thường tốn kém và ít hiệu quả hơn nhiều so với việc phòng bệnh ngay từ đầu bằng những biện pháp chăm sóc sức khỏe cộng đồng đơn giản và ít tốn kém.

Từ khi thăm dò rồi xây dựng một mỏ dầu, một công ty dầu lửa phải đầu tư ban đầu lớn cho một lĩnh vực có tài sản tạo ra lợi nhuận trong vòng từ 20 - 50 năm. Nếu chính sách môi trường và an toàn của bạn làm giảm nguy cơ gây tràn dầu lớn, tới mức trung bình mỗi thập kỷ “chỉ” để xảy ra một lần, như thế thì cũng khó có thể thu lợi nhuận bởi trong thời gian hoạt động từ 20 - 50 năm, bạn sẽ phải đối phó với ít nhất từ 2 - 5 vụ tràn dầu. Như vậy cần phải nghiêm ngặt hơn. Lần đầu tiên tôi tiếp xúc với triển vọng lâu dài này của các tập đoàn dầu lửa là khi giám đốc một văn phòng ở London của tập đoàn dầu lửa Royal Dutch Shell liên hệ với tôi. Công việc của văn phòng này là cố gắng dự đoán những tình huống có thể xảy ra trên thế giới trong vòng 30 năm tới. Ông giám đốc giải thích rằng Shell lập ra văn phòng này bởi họ dự kiến sẽ mở thêm một giếng dầu mới hoạt động trong vài thập kỷ, nên cần phải hiểu hình thái thế giới trong vài thập kỷ tới sẽ như thế nào để có được những quyết định đầu tư thông minh.

Một yếu tố khác liên quan tới chính sách môi trường là những yêu cầu của công chúng. Không như những dòng nước thải mỏ độc hại sẽ được thảo luận dưới đây, tràn dầu thường diễn ra đột ngột và rõ ràng (như khi một đường ống, một giàn khoan hay một tàu chở dầu bị vỡ hoặc bị nổ). Tác động của tràn dầu cũng rất rõ ràng như hình những con chim chết lông dính đầy dầu xuất hiện nhan nhản trên truyền hình và báo chí. Bởi vậy công chúng sẽ phản đối mãnh liệt trước những sự cố môi trường lớn kiểu này, dường như rất dễ xảy ra với các công ty dầu lửa.

Những tính toán về yêu cầu của công chúng và giảm thiểu thiệt hại môi trường là điều cực kỳ quan trọng ở Papua New Guinea, đất nước với chế độ dân chủ phân quyền cùng một chính quyền trung ương tương đối yếu kém, lực lượng cảnh sát và quân sự mong manh và tiếng nói của các cộng đồng dân cư bản địa có ảnh hưởng mạnh mẽ. Bởi những tá điền bản địa tại các mỏ dầu tại Kutubu chỉ sinh sống dựa vào các khu vườn, những cánh rừng và những dòng sông, vì vậy một sự cố tràn dầu sẽ ảnh hưởng tới đời sống của họ nghiêm trọng hơn nhiều so với ảnh hưởng của những con chim dính dầu tới cuộc sống của những khán giả truyền hình Mỹ. Như một nhân viên Chevron giải thích với tôi: “Chúng tôi nhận ra rằng tại Papua New Guinea, không một dự án khai thác tài nguyên thiên nhiên nào có thể thành công lâu dài mà không có sự ủng hộ của những cư dân và tá điền bản địa. Họ sẽ phá vỡ và buộc dự án phải ngừng hoạt động, như họ đã từng làm tại Bougainville [xem phần giải thích bên dưới], nếu họ nhận thức được rằng hành vi gây tổn hại môi trường đang ảnh hưởng tới đất đai và nguồn lương thực của họ. Chính quyền trung ương không có khả năng ngăn chặn những hành vi cản trở của các tá điền, vì vậy chúng tôi cần đi những bước thận trọng để giảm thiểu những tổn hại và duy trì mối quan hệ hữu nghị với cư dân bản địa”. Một nhân viên khác của Chevron cũng bày tỏ ý kiến tương tự bằng những lời nói khác: “Ngay từ đầu chúng tôi đã hiểu rằng sự thành công của dự án Kutubu sẽ phụ thuộc vào khả năng hợp tác của chúng tôi với cộng đồng tá điền bản địa, tới mức họ sẽ tin rằng khi chúng tôi còn ở lại đây thì cuộc sống của họ sẽ tốt hơn so với khi chúng tôi ra đi”.

Một khía cạnh nhỏ khác trong việc người New Guinea bản địa thường xuyên giám sát chặt chẽ các hoạt động của Chevron vì họ hiểu rằng có thể kiếm được tiền bằng cách gây áp lực với những doanh nghiệp có túi tiền lớn, như các tập đoàn dầu lửa. Họ đếm số cây bị chặt trong khi xây dựng một con đường, tính toán giá trị cụ thể của từng cây mà trên đó có chim thiên đường, rồi gửi hóa đơn đòi đền bù thiệt hại. Tôi từng nghe kể về một trường hợp, khi những tá điền người New Guinea biết rằng Chevron dự kiến xây dựng một con đường dẫn tới khu vực khai thác dầu, họ đổ xô trồng cà phê trên khu vực dự kiến có đường chạy qua, để đòi bồi thường cho mỗi cây cà phê bị phá bỏ. Đó cũng là một lý do để Chevron giảm đến mức tối thiểu phá rừng bằng cách làm đường càng hẹp càng tốt, và di chuyển tới khu vực khai thác dầu bằng trực thăng bất cứ lúc nào có thể. Nhưng một rủi ro khác lớn hơn nhiều là nếu các tá điền tức giận vì đất đai của họ bị tổn hại thì họ có thể buộc toàn bộ dự án phải ngừng hoạt động. Nhân viên Chevron nhắc tới trường hợp ở Bougainville là nói đến mỏ đồng Bougainville, một dự án đầu tư và phát triển lớn nhất Papua New Guinea, bị đóng cửa bởi những tá điền tức giận do môi trường bị phá hoại vào năm 1989, và không thể mở cửa trở lại mặc dù Chính phủ đã phải huy động lực lượng cảnh sát và quân đội nhỏ bé của mình, để rồi gây ra một cuộc nội chiến. Số phận của mỏ Bougainville cảnh cáo Chevron rằng dự án mỏ dầu Kutubu cũng sẽ phải chịu chung số phận nếu nó cũng gây tổn hại môi trường.

Một tín hiệu cảnh cáo khác đối với Chevron là mỏ dầu Point Arguello, do Chevron phát hiện ở ngoài khơi California vào năm 1981, được đánh giá là mỏ dầu lớn nhất được tìm thấy tại Mỹ kể từ sau khi phát hiện mỏ dầu tại vịnh Prudhoe. Do công chúng không còn ưu ái những công ty dầu lửa, cùng với sự phản đối của cộng đồng dân cư địa phương và tầng tầng lớp lớp những quy định gây khó khăn của Chính phủ, mãi tới 10 năm sau hoạt động khai thác dầu mới được bắt đầu, và cuối cùng Chevron phải giảm bớt một phần lớn vốn đầu tư của mình. Mỏ dầu Kutubu đem lại cho Chevron cơ hội khôi phục lại lòng tin của công chúng bằng cách thể hiện rằng tập đoàn sẽ bảo vệ môi trường một cách tốt nhất mà không bị kích động bởi những quy định quá chặt chẽ của chính phủ.

Về điểm này, dự án Kutubu chứng minh được giá trị của việc dự đoán rằng các tiêu chuẩn môi trường của chính phủ sẽ ngày càng nghiêm ngặt. Xu hướng chung của toàn thế giới (tất nhiên cũng có những ngoại lệ rõ ràng) là càng về sau những quy định môi trường của các chính phủ càng chặt chẽ hơn. Thậm chí ngay cả các nước đang phát triển mới đầu chưa mấy quan tâm tới vấn đề môi trường, nay các yêu cầu môi trường cũng ngày càng khắt khe hơn. Ví dụ, một nhân viên của Chevron đang làm việc tại Bahrain kể với tôi rằng, mới gần đây khi công ty anh ta khoan một giếng dầu ngoài khơi, lần đầu tiên chính phủ Bahrain yêu cầu phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường chi tiết, trong đó quy định tiến hành giám sát môi trường trong quá trình khoan, đánh giá những tác động sau khi khoan và giảm tối thiểu những ảnh hưởng tới loài lợn biển và nơi sinh sản của loài chim cốc. Giờ đây, các tập đoàn dầu lửa đã học được rằng, xây dựng một cơ sở sạch sẽ, trang bị đầy đủ thiết bị phòng ngừa sự cố và bảo vệ môi trường ngay từ đầu rẻ hơn nhiều so với việc sau này phải bổ sung trang thiết bị khi tiêu chuẩn môi trường của Chính phủ chặt chẽ hơn. Các công ty nhận thức được rằng, nếu một đất nước mà họ đang hoạt động hiện chưa quan tâm tới vấn đề môi trường, thì chắc chắn ý thức bảo vệ môi trường sẽ được nâng cao hơn trong vòng đời của dự án.

Chính sách môi trường còn mang lại một lợi thế khác cho Chevron, đó là đôi khi uy tín môi trường của tập đoàn mang lại lợi thế cạnh tranh giúp tập đoàn thắng trong những cuộc đấu thầu. Ví dụ, gần đây chính phủ Na Uy, một đất nước mà cả chính phủ và người dân đều rất quan tâm tới các vấn đề môi trường, mời đấu thầu phát triển một mỏ dầu khí tại Biển Bắc. Chevron cũng tham gia đấu thầu và đã giành được hợp đồng, có lẽ một phần bởi uy tín bảo vệ môi trường của họ. Nếu đúng như vậy, một số bạn bè tôi làm việc cho Chevron thừa nhận rằng hợp đồng với Na Uy có lẽ là khoản lợi nhuận tài chính lớn nhất của tập đoàn kể từ khi thực hiện các chính sách môi trường nghiêm ngặt tại các mỏ dầu ở Kutubu.

Những người theo dõi hoạt động của tập đoàn không chỉ là công chúng, các chính phủ và những tá điền bản địa mà ngay cả các công nhân của họ. Một mỏ dầu thường có những vấn đề về quản lý, xây dựng và công nghệ đặc biệt phức tạp, và phần lớn đội ngũ nhân viên của các tập đoàn dầu lửa đều là những người có trình độ chuyên môn và bằng cấp cao. Do vậy họ cũng có ý thức môi trường cao. Chi phí đào tạo nhân viên rất tốn kém, trong khi họ lại được hưởng mức lương cao. Mặc dù phần lớn nhân viên của dự án Kutubu là công dân Papua New Guinea, nhưng cũng có không ít nhân viên là người Mỹ hay Australia chỉ tới Papua New Guinea làm việc trong thời gian năm tuần, rồi lại bay về nghỉ ngơi với gia đình năm tuần và chi phí vé máy bay của họ cũng rất tốn kém. Tất cả các nhân viên này tận mắt nhìn thấy hiện trạng môi trường tại các mỏ dầu, và họ cũng thấy tập đoàn nỗ lực thực hiện những chính sách môi trường sạch sẽ như thế nào. Nhiều nhân viên của Chevron thừa nhận với tôi rằng cả quan điểm môi trường và tinh thần nhân viên đều do các chính sách môi trường hiện hữu của công ty tạo nên và còn là động lực đầu tiên thúc đẩy áp dụng các chính sách này.

Cụ thể, ý thức môi trường là một trong những tiêu chuẩn để lựa chọn ban lãnh đạo tập đoàn, và hai Giám đốc Điều hành gần đây nhất của Chevron, đầu tiên là Ken Derr rồi tới David O’Reilly, đều là hai người hết sức lo lắng cho các vấn đề môi trường. Nhân viên của Chevron ở một số nước cho tôi biết, hằng tháng họ và tất cả những nhân viên khác của Chevron trên khắp thế giới nhận được một thư điện tử từ Giám đốc Điều hành thông báo về tình hình hoạt động của công ty. Những thư điện tử này cũng thường xuyên đề cập tới các vấn đề an toàn và môi trường và nhấn mạnh đó là những ưu tiên hàng đầu, và mang lại những lợi ích kinh tế cho tập đoàn. Bởi vậy, các nhân viên rất coi trọng các vấn đề môi trường, chứ không phải chỉ là một hình thức lòe bịp công chúng và ngay cả tập đoàn cũng không quan tâm. Nhận xét đó đúng như một kết luận mà Thomas Peters và Robert Waterman Jr. viết trong cuốn sách về quản trị kinh doanh bán rất chạy của họ In Search of Excellence: Lessons from America’s Best-Run Companies (tạm dịch: Bài học thành công của các tập đoàn quản trị tốt nhất nước Mỹ). Hai tác giả thấy rằng nếu các nhà quản lý muốn nhân viên của mình cư xử theo một cách nào đó, thì động cơ hiệu quả nhất đối với nhân viên chính là học tập cách cư xử của bản thân các nhà quản lý.

Cuối cùng, hiện các công nghệ mới cũng giúp các tập đoàn dầu lửa hoạt động sạch hơn so với trước đây. Ví như, một số giếng ngang hoặc nghiêng giờ có thể khoan từ cùng một vị trí trên mặt đất, trong khi trước đây tất cả các giếng đều phải khoan dọc từ một vị trí riêng biệt trên mặt đất, và mỗi giếng đều gây ra những tác động môi trường. Những mảnh đá vụn bị nghiền nhỏ trong khi khoan giếng giờ có thể được bơm vào một hệ địa chất biệt lập dưới lòng đất chứa dầu không sử dụng được, thay vì phải chôn đá thải xuống một hầm mỏ hay đổ xuống biển như trước đây. Sản phẩm phụ khí tự nhiên thu được trong quá trình hút dầu giờ hoặc được phun trở lại vào một tầng chứa ngầm dưới đất (đã được sử dụng trong dự án Kutubu), hoặc (như ở một số mỏ dầu khác) được vận chuyển ra ngoài bằng đường ống hay được hóa lỏng để dự trữ và vận chuyển bằng tàu biển và mang đi bán, chứ không phải đốt lãng phí. Tại nhiều mỏ dầu, như phần lớn các mỏ dầu ở Kutubu, việc điều hành công tác khoan thăm dò giờ được thực hiện chủ yếu bằng trực thăng, thay vì phải xây dựng những con đường; tất nhiên sử dụng trực thăng cũng tốn kém, nhưng làm đường và những tác động môi trường liên quan còn tốn kém hơn nhiều.

Bởi vậy, đây là những lý do vì sao Chevron và chỉ một số ít các tập đoàn dầu lửa quốc tế lớn khác coi trọng các vấn đề môi trường. Tất cả đều thừa nhận rằng các hoạt động bảo vệ môi trường đem lại lợi nhuận cao hơn cho họ và về lâu dài, giúp họ tiếp cận những mỏ dầu, khí mới dễ dàng hơn. Nhưng tôi cũng phải khẳng định lại rằng không phải tất cả mọi hoạt động của ngành dầu lửa đều mang tính trách nhiệm, sạch sẽ và đáng khen ngợi. Trong số những vấn đề nghiêm trọng, tồn tại dai dẳng và bị dư luận chỉ trích nhiều nhất là những sự cố tràn dầu lớn diễn ra gần đây ở ngoài biển do những chiếc tàu chở dầu vỏ đơn chất lượng kém, ít được bảo dưỡng bị chìm (như vụ tàu chở dầu Prestige 26 năm tuổi bị đắm ngoài khơi Tây Ban Nha năm 2002). Số tàu già cỗi này chủ yếu thuộc về các công ty vận tải biển chứ không phải các tập đoàn dầu lửa lớn, hầu hết đã chuyển sang sử dụng tàu chở dầu vỏ kép. Những vấn đề lớn khác bao gồm sự kế thừa những cơ sở cũ kỹ, lạc hậu và ô nhiễm môi trường được xây dựng từ trước khi xuất hiện những công nghệ sạch và rất khó hay rất tốn kém để nâng cấp với những thiết bị mới (ví dụ như tại Nigeria và Ecuador); và những hoạt động dưới sự bảo hộ của các chính phủ lạm quyền và tham nhũng, như ở Nigeria và Indonesia. Trường hợp công ty Chevron Nuigini lại là một minh họa về khả năng của một công ty dầu lửa hoạt động theo cách mang lại những lợi ích môi trường cho vùng đất mà công ty đang hoạt động và cho những người dân ở đó - nhất là khi so sánh với những lợi ích dự kiến khi sử dụng chính khu vực này vào các hoạt động khác như khai thác gỗ, hay thậm chí chỉ là săn bắn và trồng trọt kiếm kế sinh nhai. Trường hợp này cũng chứng tỏ những yếu tố kết hợp mang lại kết quả tại các mỏ dầu Kutubu mà không một dự án công nghiệp lớn nào khác có thể đạt được, và vai trò tiềm năng của công chúng trong việc chi phối những kết quả này.

Đặc biệt, tôi vẫn phân vân tại sao năm 1986, khi tôi tới thăm mỏ dầu Salawati của công ty dầu lửa Pertamina Indonesia chỉ thấy sự thờ ơ trước những vấn đề môi trường, nhưng năm 1998, khi tới thăm mỏ dầu Kutubu của Chevron, tôi lại tận mắt chứng kiến các hoạt động bảo vệ môi trường nghiêm ngặt. Có một số khác biệt giữa hoàn cảnh của Pertamina với vai trò là một công ty dầu lửa quốc gia của Indonesia vào năm 1986, và hoàn cảnh của Chevron như một công ty quốc tế hoạt động tại Papua New Guinea năm 1998, đây có thể chính là nguyên nhân đem lại những kết quả khác nhau. Chính phủ, pháp luật và công chúng Indonesia năm 1986 ít quan tâm và không yêu cầu nhiều đối với hành vi của các công ty dầu lửa so với các đối tác Mỹ và châu Âu là những khách hàng chủ yếu của Chevron. Nhân viên Indonesia của Pertamina cũng ít quan tâm hơn tới các vấn đề môi trường so với các nhân viên người Australia và người Mỹ của Chevron. Papua New Guinea là một nền dân chủ mà công dân được quyền tự do ngăn cản những dự án phát triển, nhưng Indonesia năm 1986 là một chế độ độc tài quân sự mà công dân không có quyền tự do này. Ngoài ra, chính quyền Indonesia bị kiểm soát bởi những người từ hòn đảo Java đông dân nhất nước này, và họ coi phần đất New Guinea thuộc Indonesia như một nguồn thu nhập và là nơi giải tỏa số dân dư thừa của Java, và không mấy quan tâm tới ý kiến của người New Guinea như chính quyền Papua New Guinea, sở hữu nửa phía đông trên cùng một hòn đảo. Pertamina không phải đối mặt với vấn đề tiêu chuẩn môi trường của chính phủ Indonesia ngày càng cao, như các công ty dầu lửa quốc tế phải đối mặt. Pertamina là công ty dầu lửa trong nước, chủ yếu hoạt động ở Indonesia và ít cạnh tranh giành giật hợp đồng ở nước ngoài so với các tập đoàn quốc tế lớn, bởi vậy Pertamina không có động cơ phải tạo lợi thế cạnh tranh quốc tế từ việc thực hiện các chính sách môi trường sạch. Pertamina cũng không có những Giám đốc Điều hành hằng tháng gửi bản tin nhấn mạnh môi trường là vấn đề ưu tiên cao nhất. Cuối cùng, chuyến thăm của tôi tới mỏ dầu Salawati của Pertamina là vào năm 1986; tôi cũng không biết liệu từ đó tới nay các chính sách của Pertamina có thay đổi không.

Giờ chúng ta hãy chuyển từ ngành dầu, khí sang ngành khai thác khoáng sản rắn. (Thuật ngữ này chỉ các mỏ khai thác quặng để chiết xuất kim loại, khác với các mỏ khai thác than). Hiện đây là ngành gây ô nhiễm độc hại hàng đầu nước Mỹ, chịu trách nhiệm tới một nửa tình trạng ô nhiễm công nghiệp. Gần một nửa số sông phía tây nước Mỹ có những đoạn thượng nguồn bị ô nhiễm do khai thác mỏ. Phần lớn ngành khai thác khoáng sản rắn của Mỹ hiện đang trên đà suy thoái, có xu hướng chấm dứt hoạt động hoàn toàn, chủ yếu bởi chính những hành vi gây tổn hại môi trường nghiêm trọng của nó. Các nhóm môi trường đa phần không khó khăn khi tìm hiểu những thực tế cốt yếu của ngành khai thác khoáng sản rắn và đã từ chối tham gia sáng kiến quốc tế đầy triển vọng mà ngành này khởi xướng năm 1998 nhằm thay đổi hành vi của mình.

Những đặc điểm này và một số đặc điểm khác của ngành công nghiệp khai thác khoáng sản rắn ban đầu gây bối rối, bởi ngành này bề ngoài dường như rất giống với ngành khai thác dầu khí mà chúng ta vừa thảo luận, và cũng rất giống ngành than. Cả ba ngành này đều tham gia khai thác các nguồn tài nguyên không tái sinh từ lòng đất? Đúng như vậy, nhưng tuy nhiên chúng có những điểm khác biệt bởi ba lý do: kinh tế và công nghệ khác nhau, quan niệm của mỗi ngành cũng khác nhau, quan niệm của công chúng và chính phủ đối với mỗi ngành cũng khác nhau.

Khai thác khoáng sản rắn gây ra một số vấn đề môi trường nghiêm trọng. Đầu tiên là mặt đất bị phá vỡ do bị đào tung lên. Vấn đề này diễn ra đặc biệt phổ biến ở các mỏ nằm sát mặt đất, mỏ lộ thiên, do quặng nằm sát mặt đất và chỉ cần bóc lớp đất phủ bên trên. Ngược lại, hiện chẳng ai khai thác dầu lửa bằng cách bóc toàn bộ lớp đất mặt của một thành hệ chứa dầu; thay vào đó, các công ty dầu lửa thường chỉ bóc lớp đất mặt trên một diện tích nhỏ đủ để khoan một giếng xuyên vào thành hệ chứa dầu. Tương tự, có một số mỏ thân quặng không nằm gần mặt đất mà nằm sâu dưới lòng đất, và những mỏ sử dụng phương pháp hầm lò cùng những đống đất đá thải chỉ làm xáo trộn một diện tích đất mặt nhỏ để đào sâu xuống thân quặng.

Những vấn đề môi trường khác mà ngành khai thác khoáng sản rắn gây ra liên quan tới ô nhiễm nước do chính các chất kim loại, các loại hóa chất xử lý quặng, nước thải axit và cặn lắng gây ra. Kim loại và các yếu tố như kim loại có trong quặng, nhất là đồng, cadimi, chì, thủy ngân, kẽm, thạch tín, antimo và selen là những chất độc và có khả năng gây bệnh cho con người nếu thấm vào những dòng suối bên cạnh hay các mực nước ngầm do các hoạt động khai thác mỏ. Một ví dụ điển hình là hàng loạt ca mắc các bệnh về xương do một mỏ khai thác chì và kẽm thải cadimi vào sông Jinzu của Nhật Bản. Có khá nhiều loại hóa chất được sử dụng trong khai thác mỏ như xyanua, thủy ngân, axit sunfuric và nitrat do thuốc nổ sinh ra, cũng là những chất độc hại. Mới gần đây, con người ngày càng nhận thức sâu sắc rằng axit thoát ra từ các loại quặng có chứa sulfua có thể thấm vào nước và phát tán vào không khí qua các hoạt động khai thác mỏ, gây ô nhiễm nước nghiêm trọng và mang theo những chất kim loại. Cặn lắng thoát ra khỏi mỏ theo nguồn nước thải cũng có thể gây hại cho các loài thủy sinh, bồi lắng khiến lòng sông, suối nơi sinh sản của cá dâng cao. Ngoài những loại hình ô nhiễm đó, chỉ riêng vấn đề tiêu thụ nước của nhiều mỏ cũng đã là một vấn đề quan trọng.

Vấn đề môi trường còn lại liên quan tới bãi thải, nơi đổ các loại chất thải đào lên trong quá trình khai thác, bao gồm bốn thành phần: đất đá phủ (lớp đất đá bề mặt phải bóc đi để tiếp cận tới quặng); đá thải tìm thấy nhưng chứa quá ít quặng có giá trị kinh tế; quặng thải, phần bã quặng đã nghiền nhỏ sau khi tuyển khoáng; và phần bã trên nền các đống quặng hòa tách sau khi tuyển khoáng. Hai loại bã thải sau thường bị để lại ngay trong bể chứa quặng thải của xưởng tuyển khoáng hoặc trên nền của đống quặng, trong khi lớp đất đá thải được đổ ra các bãi thải. Tùy thuộc vào pháp luật của nước nơi khai thác, thì phương pháp xử lý quặng thải (nước bùn và các chất thải rắn) hoặc là đổ xuống sông, biển hoặc đổ thành bãi thải trên đất liền, hoặc (phổ biến nhất) là chất đống chúng đằng sau chiếc đập ngăn chất thải. Đáng tiếc là số đập này có tỷ lệ vỡ cao do chúng được thiết kế không đủ bền (để tiết kiệm tiền), và thường được xây bằng chính những loại chất thải từ khai thác rẻ tiền chứ không phải bằng bê tông, và chúng được xây dựng trong thời gian quá lâu, vì vậy trạng thái của chúng cần phải được giám sát thường xuyên và không được kiểm tra nghiệm thu để tuyên bố chúng đã hoàn tất và đủ độ an toàn. Trung bình mỗi năm trên toàn thế giới có một vụ tai nạn nghiêm trọng xảy ra liên quan tới đập chắn quặng thải. Sự cố lớn nhất là thảm họa Buffalo Creek xảy ra tại Tây Virginia, Mỹ năm 1972, làm chết 125 người.

Một số vấn đề môi trường này được thể hiện rõ ràng ở thực trạng của bốn mỏ giá trị nhất của New Guinea và những đảo lân cận, nơi tôi từng khảo sát thực địa. Mỏ đồng tại Panguna trên đảo Bougainville của Papua New Guinea trước đây từng là doanh nghiệp lớn nhất và là nguồn thu ngoại tệ lớn nhất nước, và còn là một trong những mỏ đồng lớn nhất thế giới. Mỏ này đổ tất cả quặng thải trực tiếp xuống một nhánh của sông Jaba, gây ra những tác động môi trường cực kỳ lớn. Khi chính phủ bất lực, không giải quyết được vấn đề ô nhiễm này, cùng với ảnh hưởng từ một loạt vấn đề chính trị và xã hội khác, người dân vùng Bougainville đã nổi loạn, gây ra cuộc nội chiến cướp đi mạng sống của hàng ngàn người và suýt nữa chia cắt đất nước Papua New Guinea. Mười lăm năm sau cuộc nổi dậy, hòa bình vẫn chưa hoàn toàn được khôi phục ở Bougainville. Tất nhiên mỏ Panguna phải đóng cửa và không có triển vọng phục hồi sản xuất, những chủ sở hữu và chủ nợ (có cả ngân hàng Mỹ, ngân hàng Xuất Nhập khẩu Mỹ, những nhà đầu tư và chủ nợ Nhật Bản) mất toàn bộ những khoản đầu tư. Sự kiện này là một trong những lý do vì sao Chevron hợp tác chặt chẽ với các tá điền bản địa tại các mỏ dầu Kutubu để được cư dân địa phương chấp thuận.

Mỏ vàng trên đảo Lihir đổ quặng thải xuống biển qua một đường ống dài (phương pháp mà các nhà môi trường đánh giá là gây tổn hại rất lớn), và những người chủ mỏ vàng cho rằng biện pháp này là vô hại. Cho dù tác động của mỏ vàng đó tới đời sống biển xung quanh đảo Lihir như thế nào, thì thế giới cũng sẽ gặp phải một vấn đề lớn nếu nhiều mỏ khác cũng bắt chước mỏ này đổ quặng thải của họ xuống biển. Mỏ đồng Ok Tedi trên lục địa New Guinea cũng xây dựng một đập chắn quặng thải, nhưng trước khi nó được xây dựng, các chuyên gia được xem xét thiết kế của đập đã cảnh báo rằng chiếc đập sẽ sớm bị vỡ. Quả thực, chỉ vài tháng sau chiếc đập đã vỡ, và hiện mỗi ngày có 200.000 tấn quặng thải và đất đá thải của mỏ bị thải vào sông Ok Tedi và phá hủy hoàn toàn ngành thủy sản ở đây. Dòng chảy của Ok Tedi đổ trực tiếp vào dòng sông Fly River lớn nhất và có nguồn thủy sản giá trị nhất New Guinea, mức độ cặn lơ lửng hiện đã tăng gấp năm lần, dẫn tới lũ lụt, đất đá thải của mỏ lắng đọng trên đáy sông, giết chết toàn bộ các loài thực vật sinh sống dưới đáy sông trên một diện tích tới nay rộng 321 kilômét vuông. Ngoài ra, một xà lan chở đầy những thùng xyanua cung cấp cho mỏ đã bị đắm trên sông Fly River, vỏ thùng dần dần bị ăn mòn khiến xyanua rò rỉ vào nước sông. Năm 2001, BHP, tập đoàn khai thác mỏ lớn thứ tư thế giới điều hành mỏ Ok Tedi, đã đóng cửa mỏ này và tuyên bố: “Ok Tedi không tương thích với các giá trị môi trường của chúng tôi, và lẽ ra chúng tôi không nên khai thác mỏ này”. Tuy nhiên, do Ok Tedi chiếm tới 20% tổng doanh thu xuất khẩu của Papua New Guinea nên chính phủ nước này lại thu xếp để mỏ tiếp tục hoạt động, mặc dù BHP đã rút lui. Cuối cùng là mỏ đồng và vàng Grasberg-Ertsberg của vùng đất New Guinea thuộc Indonesia, một mỏ lộ thiên lớn giá trị nhất Indonesia, cũng đổ trực tiếp quặng thải xuống sông Mimika, tràn tới tận vùng nước nông của biển Arafura nằm giữa New Guinea và Australia. Cùng với mỏ Ok Tedi và một mỏ vàng khác ở New Guinea, mỏ Grasberg-Ertsberg là một trong số ba mỏ lớn duy nhất trên thế giới hiện đang do một tập đoàn quốc tế điều hành và đổ chất thải vào các dòng sông.

Chính sách phổ biến hiện nay của các công ty khai thác mỏ đối với vấn đề tổn hại môi trường là chỉ làm sạch và phục hồi môi trường khu vực đã khai thác sau khi mỏ đã ngừng hoạt động, không như ngành than tiến hành hoàn nguyên ngay trong quá trình khai thác; ngành khai thác khoáng sản rắn phản đối chiến lược này. Các công ty cho rằng cái gọi là phục hồi sau khi “rời đi” sẽ thích hợp hơn bởi phương pháp này sẽ giảm tối thiểu chi phí làm sạch và phục hồi, và chỉ tiến hành trong thời gian từ 2-12 năm sau khi đóng cửa mỏ (và rồi thì công ty có thể chuyển đi nơi khác mà hoàn toàn không phải chịu trách nhiệm gì nữa), và công việc phục hồi sẽ chỉ là tạo lại độ nghiêng của khu vực đã bị phá hủy để ngăn chặn xói mòn, áp dụng phương pháp trồng thực vật như tận dụng lớp đất mặt để tái trồng cây, xử lý nước thải chảy ra từ khu vực mỏ trong thời gian vài năm. Thực tế, chiến lược “rời đi” chi phí thấp này sẽ không bao giờ áp dụng được với bất kỳ mỏ hiện đại lớn nào và thường xuyên có nước thải vi phạm tiêu chuẩn chất lượng nước. Thay vào đó, cần làm sạch và trồng lại cây đối với toàn bộ các khu vực có thể là nguồn thoát nước thải axit, thu giữ và xử lý toàn bộ nguồn nước ngầm và nước mặt ô nhiễm chảy ra từ mỏ cho tới khi nước không còn ô nhiễm, có nghĩa là mãi mãi. Các chi phí trực tiếp và gián tiếp làm sạch và hoàn nguyên trên thực tế thường cao gấp 1,5-2 lần so với phương pháp “rời đi” đối những mỏ không có nước thải axit, và cao gấp 10 lần đối với những mỏ có nước thải axit. Điểm mù mờ nhất trong các chi phí này là xác định một mỏ có thải ra nước axit không, đây là một vấn đề mới được thừa nhận gần đây tại các mỏ đồng mặc dù trước đó đã được đánh giá tại các mỏ khác, và hầu như chưa từng đánh giá chính xác.

Các công ty khai thác khoáng sản rắn phải đối mặt với các chi phí làm sạch môi trường thường lẩn trốn trách nhiệm bằng cách tuyên bố phá sản và chuyển giao tài sản cho các công ty khác do chính những cá nhân đó lập ra. Một trong những ví dụ đó là mỏ vàng Zortman-Landusky của Montana đã đề cập trong Chương 1 và do công ty Pegasus Gold Inc. của Canada điều hành. Năm 1979, khi mới thành lập đây là mỏ vàng lộ thiên quy mô lớn đầu tiên của Mỹ khai thác bằng phương pháp hòa tách đống có sử dụng xyanua và là mỏ vàng lớn nhất Montana. Mỏ này liên tục gây ra hàng loạt những vụ rò rỉ, tràn xyanua và nước thải axit, và còn được bao che bởi thực tế cả chính quyền liên bang và chính quyền bang Montana đều không yêu cầu công ty phải thử nghiệm tìm nước thải axit. Năm 1992, thanh tra của bang xác định rằng mỏ này đang gây ô nhiễm các dòng suối với các kim loại nặng và axit. Năm 1995, Pegasus Gold chấp thuận đền bù 36 triệu đô-la để giải quyết tất cả những vụ kiện của chính quyền liên bang, chính quyền tiểu bang và các bộ lạc Da đỏ ở địa phương. Cuối cùng, năm 1998, thời điểm chưa tới 15% khu mỏ được hoàn nguyên bề mặt, ban lãnh đạo Pegasus Gold biểu quyết tự thưởng cho mình hơn 5 triệu đô-la, và chuyển giao toàn bộ phần tài sản còn lại vẫn còn khả năng sinh lời của Pegasus cho một công ty mới là Apollo Gold mà họ vừa thành lập, rồi tuyên bố Pegasus Gold phá sản. (Cũng giống như hầu hết ban lãnh đạo các mỏ khác, những lãnh đạo của Pegasus Gold không sống ở hạ lưu của nguồn nước ô nhiễm do mỏ Zortman-Landusky gây ra, vì vậy họ chính là những đối tượng không bị tác động từ những hậu quả do hành động của họ gây ra như đã thảo luận trong Chương 14). Sau đó chính quyền tiểu bang và liên bang thông qua một kế hoạch hoàn nguyên bề mặt với chi phí lên tới 52 triệu đô-la, trong đó 30 triệu đô-la nằm trong khoản 36 triệu đô-la do Pegasus thanh toán, và những người đóng thuế của nước Mỹ phải gánh chịu 22 triệu đô-la. Tuy nhiên, kế hoạch hoàn nguyên bề mặt này vẫn chưa bao gồm những chi phí xử lý nước thải vĩnh viễn, như vậy khoản chi phí mà những người chịu thuế gánh chịu sẽ cao hơn nhiều. Hoá ra 5 trong số 13 mỏ lớn khai thác khoáng sản rắn gần đây của Montana, thì có bốn mỏ khai thác bằng phương pháp hòa tách đống lộ thiên bằng xyanua (kể cả mỏ Zortman-Landusky), đều thuộc sở hữu của Pegasus Gold Inc., đã bị phá sản và 10 mỏ lớn sẽ bị yêu cầu xử lý nước mãi mãi, do vậy làm tăng chi phí đóng cửa mỏ và hoàn nguyên của các mỏ này lên tới 100 lần so với dự kiến trước đó.

Một vụ phá sản khác khiến người đóng thuế Mỹ tốn kém nhiều hơn cũng là một mỏ vàng khai thác bằng phương pháp hòa tách đống thuộc sở hữu của một công ty Canada khác, đó là mỏ Summitville của công ty Galactic Resources nằm ở vùng miền núi của Colorado, mỗi năm có tuyết rơi dày tới hơn 9 mét. Năm 1992, tám năm sau khi bang Colorado cấp giấy phép hoạt động cho Galactic Resources, công ty tuyên bố phá sản và nhanh chóng đóng cửa mỏ trong thời gian chưa đến một tuần kể từ ngày thông báo, để lại một khoản nợ thuế lớn với chính quyền địa phương, sa thải nhân viên, chấm dứt các biện pháp bảo vệ môi trường thiết yếu và bỏ hoang mỏ này. Vài tháng sau, khi mùa đông đến và tuyết bắt đầu rơi, hệ thống hòa tách đống bị tràn, xyanua thoát ra ngoài hủy diệt cả một đoạn sông Alamosa dài 29 kilômét. Sau này công chúng mới phát hiện ra rằng tiểu bang Colorado chỉ buộc Galactic Resources phải đặt cọc số tiền bảo lãnh 4,5 triệu đô-la khi cấp giấy phép hoạt động, nhưng chi phí làm sạch ô nhiễm do công ty này gây ra lên tới 180 triệu đô-la. Sau khi chính phủ đòi thêm được một khoản 28 triệu đô-la như một phần của thủ tục giải quyết phá sản, thì những người đóng thuế vẫn phải gánh chịu 147.500.000 đô-la thông qua Cơ quan Bảo vệ Môi trường.

Từ những kinh nghiệm đó, rốt cuộc chính quyền các tiểu bang và liên bang Mỹ đã bắt đầu yêu cầu các công ty khai thác khoáng sản rắn phải đặt cọc một số tiền bảo lãnh đủ để thanh toán chi phí làm sạch và khôi phục môi trường, đề phòng công ty sau này không chịu thanh toán hay mất khả năng tài chính để làm sạch môi trường. Đáng tiếc là những chi phí bảo lãnh này thường được quyết định dựa trên tính toán chi phí làm sạch do chính công ty khai thác đưa ra, bởi các cơ quan quản lý nhà nước không có thời gian, chuyên môn và kế hoạch khai thác mỏ cần thiết để tự tính toán. Trong nhiều trường hợp, các công ty khai thác không thực hiện nghĩa vụ làm sạch môi trường buộc chính quyền phải dùng tới khoản bảo lãnh này, và chi phí làm sạch thực tế có khi tốn kém gấp 100 lần so với đánh giá mà công ty khai thác đã đưa ra. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên bởi đánh giá là của công ty nên họ thường đánh giá thấp do không có biện pháp tài chính khuyến khích nào cũng như quy định pháp luật nào buộc họ phải đánh giá chính xác. Khoản bảo lãnh được nộp bằng một trong ba hình thức: tiền mặt hoặc thư tín dụng, hình thức an toàn nhất; trái phiếu mà công ty khai thác mua của một công ty bảo hiểm với một khoản phí thường niên; và một khoản “tự bảo lãnh” có nghĩa là công ty tự nguyện cam kết thực hiện nghĩa vụ làm sạch môi trường và lấy tài sản của họ để bảo lãnh. Tuy nhiên, do các cam kết thường xuyên bị vi phạm nên “tự bảo lãnh” trở thành hình thức vô nghĩa, và hiện không còn được chấp nhận cho những mỏ hoạt động trên đất của liên bang, nhưng vẫn là hình thức được áp dụng phổ biến nhất tại Arizona và Nevada, hai tiểu bang thân thiện với ngành mỏ nhất nước Mỹ.

Những người đóng thuế Mỹ hiện đang phải gánh trách nhiệm làm sạch và phục hồi các mỏ khoáng sản rắn với số chi phí lên tới 12 tỷ đô-la. Tại sao trách nhiệm của chúng ta lại lớn tới vậy khi chính phủ đã yêu cầu bảo lãnh tài chính để làm sạch môi trường? Trong các khó khăn đó có phần bởi những khoản bảo lãnh tài chính do các công ty khai thác đưa ra nên luôn bị đánh giá thấp như vừa đề cập bên trên, và hai tiểu bang mà người đóng thuế phải chịu trách nhiệm lớn nhất (Arizona và Nevada) lại chấp nhận hình thức “tự bảo lãnh” của các công ty và không bắt buộc phải phát hành trái phiếu. Thậm chí ngay cả khi có mua trái phiếu của công ty bảo hiểm nhưng chi phí không đủ, thì người chịu thuế cũng phải chịu khoản chi phí tăng thêm giống như trường hợp bất cứ ai trong chúng ta cũng muốn được bồi thường bảo hiểm nhiều hơn nếu chẳng may bị cháy nhà. Công ty bảo hiểm thường đòi giảm số tiền thanh toán từ trái phiếu theo lối nói hoa mỹ là “thương lượng”: Ví dụ, “nếu anh không chấp nhận khoản thanh toán thấp hơn, thì hãy nghĩ tới khoản chi phí thuê luật sư và chờ đợi năm năm để tòa án phân xử vụ kiện”. (Một người bạn của tôi bị cháy nhà từng phải mất hơn một năm khốn khổ vì những thương lượng kiểu này). Sau đó công ty bảo hiểm thanh toán số tiền theo trái phiếu hoặc như đã thương lượng trong suốt thời gian làm sạch và phục hồi môi trường, nhưng trái phiếu lại không có điều khoản tính toán c