← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 16 THẾ GIỚI NHƯ MỘT VÙNG ĐẤT LẤN BIỂN: -TẤT CẢ NHỮNG ĐIỀU ĐÓ CÓ Ý NGHĨA GÌ VỚI CHÚNG TA NGÀY NAY?

Giới thiệu - Những vấn đề nghiêm trọng nhất - Nếu chúng ta không xử lý… - Cuộc sống ở Los Angeles - Những lý lẽ phản đối giản đơn  Quá khứ và hiện tại - Những lý do để hy vọng.

Những chương trước của cuốn sách này đã thảo luận tại sao những xã hội trước đây cũng như hiện nay thành công hay thất bại trong việc giải quyết những vấn đề môi trường. Giờ chương cuối cùng này sẽ xem xét những liên hệ tới thực tế của cuốn sách: tất cả những điều đó có ý nghĩa gì với chúng ta hiện nay?

Tôi sẽ bắt đầu bằng việc lý giải hàng loạt những vấn đề môi trường chủ yếu mà các xã hội hiện đại đang phải đối mặt, và quá trình chúng gây ra những tổn hại. Để chứng minh tác động của những vấn đề này, tôi sẽ trình bày tỷ mỷ về nơi tôi đã sinh sống trong 39 năm qua, đó là nam California. Sau đó tôi sẽ trình bày những lý lẽ thường được đưa ra để phản đối tầm quan trọng của các vấn đề môi trường hiện nay. Có tới một nửa cuốn sách được dành để viết về các xã hội trước đây do chúng có thể mang lại những bài học quý báu cho các xã hội hiện đại, nên tôi sẽ xem xét những khác biệt giữa thế giới hiện đại và thế giới cổ xưa có ảnh hưởng thế nào tới những bài học mà chúng ta có thể rút ra từ quá khứ. Cuối cùng, với bất kỳ ai đặt câu hỏi: “Với tư cách cá nhân thì tôi có thể làm được gì?”, tôi sẽ đưa ra những gợi ý trong phần Đọc thêm.

Theo tôi, dường như những vấn đề môi trường nghiêm trọng nhất mà các xã hội trước đây và hiện nay đều phải đối mặt có thể chia thành 12 nhóm. 8 trong số 12 nhóm đã trở thành nghiêm trọng trong các xã hội trước đây, và bốn nhóm còn lại (các số 5, 7, 8 và 10 là năng lượng, quang hợp tối đa, các hóa chất độc hại và thay đổi không khí) gần đây mới trở nên nghiêm trọng. Bốn nhóm đầu bao gồm việc phá hoại hay gây tổn hại các nguồn tài nguyên thiên nhiên; ba nhóm tiếp theo liên quan tới việc sử dụng tối đa các nguồn tài nguyên thiên nhiên; ba nhóm tiếp theo nữa bao gồm những điều có hại do chúng ta tạo ra hay di chuyển chúng; và hai nhóm cuối cùng là các vấn đề dân số. Chúng ta hãy bắt đầu với những nguồn tài nguyên thiên nhiên mà chúng ta đang tàn phá hay gây tổn hại, đó là: các môi trường sống tự nhiên, các nguồn lương thực từ thiên nhiên hoang dã, đa dạng sinh học và đất.

1. Với tốc độ ngày càng tăng, chúng ta đang tàn phá các môi trường sống tự nhiên hay biến đổi chúng thành những môi trường sống nhân tạo, như những thành phố và làng mạc, những đồn điền và đồng cỏ, những con đường và sân gôn. Những môi trường sống bị tổn hại gây tranh cãi nhiều nhất là những khu rừng, các đầm lầy, các dải san hô và đáy đại dương. Như đã trình bày ở chương trước, hơn một nửa diện tích rừng nguyên sinh của thế giới hiện đã bị chuyển sang những mục đích sử dụng khác, và với tốc độ chuyển đổi như hiện nay, trong vòng nửa thế kỷ tới 1/4 số rừng còn lại sẽ tiếp tục bị chuyển đổi. Những khu rừng bị tổn hại chính là những tổn thất của con người chúng ta, nhất là bởi những khu rừng cung cấp gỗ và các nhiên liệu thô khác cho chúng ta, và bởi chúng mang lại cho chúng ta những lợi ích sinh thái như bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất khỏi bị xói mòn, tạo ra những bước cần thiết trong chu trình hình thành nước để mang lại phần lớn lượng mưa của chúng ta, và là môi trường sống cho hầu hết những loài động, thực vật trên cạn. Phá rừng là một hoặc chính là yếu tố quan trọng trong sự sụp đổ của tất cả các xã hội trước đây mà cuốn sách này đã đề cập. Hơn nữa, như đã thảo luận trong Chương 1 về Montana, những vấn đề hiện đang khiến chúng ta lo lắng không chỉ là tàn phá và biến đổi rừng, mà còn là những thay đổi trong cấu trúc môi trường sống của số rừng còn lại. Cùng với những vấn đề khác, cấu trúc rừng thay đổi sẽ làm thay đổi cách thức cháy rừng khiến những rừng gỗ, rừng cây bụi và các thảo nguyên có nguy cơ cháy lớn hơn với mức độ nghiêm trọng hơn.

Ngoài rừng, những môi trường sống tự nhiên quý giá khác cũng đang bị tàn phá. Diện tích đầm lầy nguyên sinh trên thế giới đang bị tàn phá, gây tổn hại hay biến đổi còn lớn hơn cả diện tích rừng. Những hậu quả đối với chúng ta là đầm lầy có vai trò quan trọng trong việc duy trì chất lượng các nguồn nước của con người và là yếu tố quan trọng đảm bảo sự tồn tại của ngành thủy sản nước ngọt thương mại, trong khi thậm chí ngành thủy sản nước mặn cũng phụ thuộc vào những rừng đước đầm lầy để tạo ra môi trường sống cho giai đoạn phát triển của nhiều loài cá. Khoảng 1/3 dải san hô của thế giới, có thể coi như những khu rừng nhiệt đới dưới biển bởi chúng là môi trường sống của nhiều loài hải sản, hiện đã bị tàn phá nghiêm trọng. Nếu xu hướng này còn tiếp tục, từ nay tới năm 2030, khoảng một nửa số dải san hô còn lại sẽ bị hủy diệt. Những dải san hô bị tàn phá và gây tổn hại do hậu quả của việc sử dụng thuốc nổ để đánh cá, bị các loài tảo (rong biển) xâm lấn do những loài cá lớn chuyên ăn tảo đã bị đánh bắt, ảnh hưởng của các loại bùn đất lắng đọng và chất ô nhiễm từ những vùng đất cạnh biển bị phát quang hay hoán cải thành đất nông nghiệp tràn xuống biển, và san hô đang bị chết do nhiệt độ nước biển tăng lên. Gần đây con người đã nhận ra rằng đánh cá bằng lưới rà vét đang hủy hoại phần lớn môi trường sống ở đáy những vùng biển nông và tàn sát những loài sinh vật sinh sống ở đó.

2. Các nguồn lương thực từ thiên nhiên hoang dã, nhất là cá và ở một mức độ thấp hơn là các loài giáp xác, cung cấp lượng protein lớn cho con người. Quả thực, đây là nguồn protein không mất tiền của con người (ngoại trừ chi phí đánh bắt và vận chuyển cá), và làm giảm nhu cầu protein từ các loài động vật mà chúng ta phải chăn nuôi như các loài gia súc. Khoảng hai tỷ người, đa phần là người nghèo, sống phụ thuộc vào nguồn protein từ biển. Nếu trữ lượng cá tự nhiên được quản lý hợp lý, thì chúng ta có thể duy trì và khai thác chúng mãi mãi. Đáng tiếc là, vấn đề mang tên thảm kịch chung (Chương 14) thường vô hiệu hóa những nỗ lực quản lý các loài thủy sản bền vững, và phần lớn các loài thủy sản quý giá hoặc đã tuyệt chủng hay đang trên đà suy giảm nghiêm trọng (Chương 15). Các xã hội trước đây đã từng đánh bắt cá quá mức bao gồm đảo Phục Sinh, Mangareva và Henderson.

Tôm, cá được nuôi trồng ngày càng nhiều, về mặt nguyên tắc, hứa hẹn trong tương lai đây là cách rẻ nhất để sản xuất protein động vật. Trong một số khía cạnh, mặc dù nuôi trồng thủy sản hiện đang được áp dụng phổ biến nhưng lại khiến các loài thủy sản tự nhiên suy giảm càng trầm trọng hơn chứ không tốt hơn lên. Cá nuôi chủ yếu được nuôi bằng thức ăn chế biến từ cá tự nhiên và bởi vậy cá nuôi tiêu thụ lượng loại thức ăn này nhiều hơn (tới 20 lần) nếu so với thức ăn trong tự nhiên của chúng. Cá nuôi có hàm lượng độc tố cao hơn cá tự nhiên. Cá nuôi thường xuyên thoát ra ngoài và giao phối với cá tự nhiên, do vậy gây tổn hại tới trữ lượng gen của cá tự nhiên, bởi các loài cá nuôi được tuyển chọn để tăng trưởng nhanh hơn, đổi lại khả năng sinh sống trong tự nhiên kém hơn (khả năng sinh sống của cá hồi nuôi ngắn hơn cá hồi tự nhiên 50 lần). Những loại chất thải từ nuôi trồng thủy sản thoát ra ngoài gây ô nhiễm và tích tụ các chất dinh dưỡng. Chi phí nuôi trồng thủy sản thấp hơn đánh bắt cá khiến giá cá xuống thấp, buộc ngư dân khai thác những nguồn cá tự nhiên mạnh hơn để duy trì mức thu nhập ổn định do giá cá hạ.

3. Một phần lớn các loài thực vật hoang dã, số lượng và đa dạng di truyền đã bị suy giảm và mất, và với tốc độ như hiện nay, trong nửa thế kỷ tới một số lượng lớn các loài còn lại sẽ tiếp tục bị mất đi. Một số loài, như những loài động vật lớn có thể ăn thịt, hay những loài cây gỗ tốt hoặc có hoa quả có thể ăn được, rõ ràng rất giá trị với chúng ta. Trong nhiều xã hội trước đây tự làm hại mình khi hủy diệt những loài này có các cư dân đảo Phục Sinh và Henderson mà chúng ta đã thảo luận.

Nhưng tổn hại đa dạng sinh học đối với những sinh vật nhỏ bé, không ăn được thường gây ra phản ứng: “Ai sẽ quan tâm? Chẳng lẽ bạn lại ít coi trọng con người hơn là mấy con cá, cây cỏ dại nhỏ bé, vô dụng như mấy con chim ăn ốc sên hay cỏ sắt Furbish?” Người đặt câu hỏi đã quên mất rằng toàn bộ thế giới thiên nhiên hoang dã là do các loài sinh vật hoang dã tạo ra, mang lại cho chúng ta những lợi ích rất quan trọng mà trong nhiều trường hợp chúng ta không thể tự đáp ứng. Tiêu diệt nhiều loài nhỏ bé thường gây ra những hậu quả lớn cho con người, giống như việc tùy tiện nhổ bỏ những chiếc đinh vít nhỏ bé, vô dụng liên kết với nhau trên một chiếc máy bay. Có vô số những ví dụ như vậy: Vai trò của giun trong tái tạo đất và duy trì kết cấu của đất (một trong những lý do khiến lượng oxy trong tầng sinh quyển giảm, gây tổn hại tới cuộc sống của con người và đang tàn phá cuộc sống của một đồng nghiệp của tôi, do không có những loại giun đất thích hợp để làm biến đổi đất/trao đổi khí trong không khí); các vi khuẩn trong đất có tác dụng tập trung chất dinh dưỡng nito cần thiết cho hoa màu, nếu không chúng ta sẽ phải tốn kém nhiều chi phí để cung cấp chất dinh dưỡng cho hoa màu dưới dạng phân bón; ong và các loài côn trùng thụ phấn khác (giúp thụ phấn miễn phí cho hoa màu của chúng ta, nếu chúng ta tự thụ phấn cho hoa thì sẽ rất tốn kém); chim và các loài động vật có vú gieo rắc các loài hoa quả hoang dã (những người trồng rừng hiện vẫn chưa tìm ra cách gieo hạt những loài cây thương mại giá trị nhất trên quần đảo Solomon, bởi những loại hạt này thường được loài dơi ăn hoa quả gieo rắc tự nhiên, nhưng hiện chúng đã bị tuyệt chủng); tiêu diệt cá voi, cá mập, gấu, cáo và những loài động vật ăn thịt khác trên biển cũng như trên đất liền làm thay đổi toàn bộ hệ sinh vật liên quan tới các loài này; và nhiều loài động, thực vật hoang dã khác có tác dụng phân hủy các loại chất thải, tái tạo chất dinh dưỡng, làm sạch nước và không khí cho chúng ta.

4. Đất canh tác được sử dụng để trồng hoa màu đang bị nước và gió làm xói mòn với tốc độ nhanh gấp 10-40 lần tốc độ hình thành đất, và từ 500 - 10.000 lần so tốc độ xói mòn của đất có rừng che phủ. Bởi tốc độ xói mòn đất cao hơn tốc độ hình thành nhiều lần, có nghĩa là đất đang mất dần. Ví dụ, khoảng một nửa số đất mặt của bang Iowa, một trong những bang có sản lượng nông nghiệp cao nhất nước Mỹ, đã bị xói mòn trong vòng 150 năm qua. Trong chuyến thăm gần đây tới Iowa, những người dân ở đây đã chỉ cho tôi một chiếc sân nhà thờ là bằng chứng rõ ràng của tình trạng mất đất do xói mòn. Nhà thờ này được xây dựng ở giữa khu đất canh tác từ thế kỷ XIX, và từ đó tới nay vẫn được dùng làm nhà thờ, trong khi đất xung quanh được sử dụng làm đất canh tác. Do đất trên những cánh đồng xói mòn nhanh hơn đất trong sân nhà thờ nên hiện nhà thờ trông như một hòn đảo nhỏ, nổi bật giữa khu đất canh tác, sân nhà thờ cao hơn xung quanh tới 3 mét.

Những hình thái gây tổn hại đất khác do hoạt động nông nghiệp của con người gây ra bao gồm mặn hóa, như đã thảo luận trong các chương về Montana, Trung Quốc và Australia; đất bạc màu, do trồng trọt làm đất mất các chất dinh dưỡng nhanh hơn khả năng phục hồi bởi hiện tượng phong hóa các tầng đá bên dưới; và tình trạng đất bị axit hóa tại một số vùng, hay bị biến đổi, kiềm hóa tại một số vùng khác. Tất cả những loại tác động tiêu cực này đều khiến lượng lớn đất canh tác trên thế giới, dao động từ khoảng 20%-80%, bị tổn hại nghiêm trọng, trong khi dân số ngày càng tăng khiến chúng ta cần nhiều đất canh tác hơn. Cũng như phá rừng, những vấn đề đất đai góp phần khiến tất cả những xã hội trước đây được đề cập trong cuốn sách này bị sụp đổ.

Ba vấn đề tiếp theo liên quan tới mức độ tiêu thụ tối đa năng lượng, nước ngọt và năng suất quang hợp. Trong mỗi trường hợp, mức độ tối đa này không phải là cứng nhắc và cố định mà rất mềm dẻo: chúng ta có thể khai thác tài nguyên cần thiết nhiều hơn, nhưng với chi phí ngày càng tăng.

5. Các nguồn năng lượng chính của thế giới, đặc biệt trong các xã hội công nghiệp, là các nhiên liệu hóa thạch như dầu lửa, khí tự nhiên và than. Mặc dù có nhiều tranh cãi về trữ lượng dầu và khí còn lại có thể khai thác, và trong khi trữ lượng than được cho rằng vẫn còn lớn, nhưng các quan điểm phổ biến hiện nay là dường như trữ lượng dầu lửa và khí tự nhiên hiện chỉ có thể khai thác trong vài thập kỷ nữa mà thôi. Không nên hiểu nhầm quan điểm này rằng tất cả dầu lửa và khí tự nhiên trên Trái đất tới thời điểm đó sẽ bị cạn kiệt. Thay vào đó, những trữ lượng mới được phát hiện sẽ ở mức sâu hơn, ô nhiễm hơn, chi phí khai thác và chế biến tốn kém hơn, hay các chi phí môi trường liên quan sẽ cao hơn. Tất nhiên, các loại nhiên liệu hóa thạch không phải là những nguồn năng lượng duy nhất của chúng ta, và tôi sẽ đề cập tới những vấn đề phát sinh từ những nguồn năng lượng thay thế ở phần sau.

6. Phần lớn trữ lượng nước ngọt của thế giới trong các sông hồ hiện đang được dùng cho tưới tiêu, phục vụ các mục đích sinh hoạt và công nghiệp, dùng làm các hành lang vận tải đường thủy, nuôi trồng thủy sản và giải trí. Số sông, hồ chưa bị tận dụng chủ yếu nằm cách xa những khu dân cư, như ở tây bắc Australia, Siberia và Iceland. Trên toàn thế giới, những tầng ngậm nước ngọt dưới lòng đất đang bị suy kiệt với tốc độ nhanh hơn tốc độ tái sinh tự nhiên của chúng, do vậy hiển nhiên chúng sẽ bị cạn kiệt. Tất nhiên, nước ngọt có thể được tạo ra bằng cách khử mặn từ nước biển, nhưng như vậy sẽ rất tốn kém chi phí và năng lượng, như việc bơm nước đã được khử mặn vào đất liền để sử dụng. Bởi vậy, khử mặn, mặc dù rất hữu ích đối với từng quốc gia, nhưng lại quá tốn kém nếu sử dụng như một giải pháp cho vấn đề thiếu nước trên toàn cầu. Người Anasazi và Maya thuộc số những xã hội trước đây bị sụp đổ do các vấn đề về nước, trong khi hiện nay hơn một tỷ người dân trên toàn cầu không được tiếp cận với những nguồn nước sinh hoạt ổn định và an toàn.

7. Mới đầu dường như ánh nắng được cung cấp vô tận, như vậy thì khả năng tăng trưởng của hoa màu và thực vật hoang dã trên Trái đất dường như cũng vô tận. 20 năm trở lại đây, thế giới đã nhận ra rằng không phải vậy, không chỉ bởi thực vật tại các vùng Bắc Cực và hoang mạc trên thế giới phát triển chậm trừ khi chúng được tiếp xúc với ánh nắng và nước. Nói chung, lượng năng lượng Mặt trời trên mỗi mẫu đất được ấn định bởi hiện tượng quang hợp của thực vật, bởi vậy sự tăng trưởng của thực vật trên mỗi mẫu phụ thuộc vào nhiệt độ và lượng mưa. Với một nhiệt độ và lượng mưa nhất định, sự tăng trưởng của thực vật có thể được hỗ trợ bởi lượng ánh nắng trên mỗi mẫu bị giới hạn bởi hình dáng và đặc điểm sinh hóa của thực vật, thậm chí thực vật có thể hấp thụ ánh nắng hiệu quả tới mức không còn một lượng tử ánh sáng nào có thể chiếu qua các cây cối và rơi xuống đất. Tính toán đầu tiên của quang hợp tối đa này, được thực hiện vào năm 1986, đánh giá rằng con người hồi đó đã sử dụng (ví dụ cho hoa màu, các đồn điền trồng cây và sân gôn) hay biến đổi hoặc lãng phí (ví dụ như để ánh nắng rơi xuống các con đường bê tông và các tòa nhà) tới một nửa năng suất quang hợp của Trái đất. Với dân số Trái đất ngày càng tăng, và nhất là tác động từ dân số (xem điểm 12 bên dưới), từ năm 1986, chúng ta dự kiến sẽ sử dụng tối đa năng suất quang hợp trên cạn của thế giới vào khoảng giữa thế kỷ này. Đó là bởi phần lớn năng lượng thu được từ ánh nắng sẽ được sử dụng phục vụ các mục đích của con người, và chỉ một chút được để lại hỗ trợ cho sự sinh trưởng của cộng đồng thực vật tự nhiên, như những khu rừng tự nhiên.

Ba vấn đề tiếp theo liên quan tới những điều hại mà chính chúng ta tạo ra hay di chuyển chúng, đó là: các hóa chất độc hại, những sinh vật ngoại lai và các loại khí trong khí quyển.

8. Ngành công nghiệp hóa chất và nhiều ngành khác sản xuất hay thải vào môi trường không khí, đất, đại dương, và sông hồ nhiều loại hóa chất độc hại, trong đó có một số hóa chất “phi tự nhiên” và hoàn toàn con người tạo ra, một số loại khác trong tự nhiên có nồng độ thấp (như thủy ngân) hay những sinh vật sống có thể tạo ra, nhưng số lượng con người tạo ra và thải vào môi trường lớn hơn các sinh vật tự nhiên khác nhiều lần (như các loại hoocmon). Những hóa chất độc hại đầu tiên được chú ý rộng rãi là các loại thuốc trừ sâu, thuốc diệt các loài sinh vật hại và thuốc diệt cỏ với những tác động tiêu cực tới các loài chim, cá và những loài động vật khác được tác giả Rachel Carson công khai trong cuốn sách Silent Spring (tạm dịch: Mùa xuân im lặng) xuất bản năm 1962. Từ đó, con người nhận rằng chính các hóa chất do mình chế tạo lại gây ra những ảnh hưởng độc hại lớn cho con người. Thủ phạm không chỉ là các loại thuốc trừ sâu, thuốc diệt các loài gây hại và thuốc diệt cỏ, mà còn là thủy ngân và các loại kim loại khác, các hóa chất dập lửa, các chất làm lạnh trong tủ lạnh, chất tẩy rửa và các thành phần của nhựa. Các chất độc này xâm nhập cơ thể chúng ta qua đường thức ăn và nước, không khí và hấp thụ qua da. Thường chỉ với một nồng độ rất nhỏ, chúng cũng gây ra những hậu quả khác nhau từ sinh con dị dạng, chậm phát triển trí não, tổn hại hệ miễn dịch và sinh sản tạm thời hoặc vĩnh viễn. Một số hóa chất gây rối loạn nội tiết, chúng xâm nhập vào các hệ thống sinh sản của chúng ta bằng cách mô phỏng hay cản trở những tác dụng của các hoocmon giới tính của chúng ta. Có thể chúng là một trong những nguyên nhân chính gây suy giảm nghiêm trọng số lượng tinh trùng của nhiều nam giới trong vài thập kỷ qua, và rõ ràng làm tăng nguy cơ vô sinh ở các cặp vợ chồng, kể cả tình trạng làm tăng tuổi kết hôn ở một số nước. Ngoài ra, số người chết ở Mỹ do ô nhiễm không khí (không tính nạn nhân của ô nhiễm nước và đất) đã được đánh giá dè dặt là trên 130.000 người mỗi năm.

Nhiều loại hóa chất độc hại phân hủy trong môi trường rất chậm (như DDT và PCBs) hay không hề phân hủy (như thủy ngân), và chúng tồn tại trong môi trường trong một thời gian dài trước khi bị phân hủy. Bởi vậy, chi phí làm sạch nhiều khu vực ô nhiễm ở Mỹ lên tới hàng tỷ đô-la (như kênh Love, sông Hudson, vịnh Chesapeake, vụ tràn dầu Exxon Valdez và các mỏ đồng ở Montana). Nhưng những khu vực ô nhiễm nhất của Mỹ cũng khó có thể so sánh với ô nhiễm ở những mỏ khai thác ở Liên Xô cũ, Trung Quốc và nhiều nước Thế giới thứ ba, với chi phí làm sạch lớn tới mức không ai dám nghĩ đến.

9. Thuật ngữ “sinh vật ngoại lai” nhằm chỉ những loài sinh vật mà chúng ta di chuyển, vô tình hay cố ý, từ nơi chúng sinh ra tới một nơi xa lạ với chúng. Một số sinh vật ngoại lai hiển nhiên rất giá trị với chúng ta như các loại hoa màu, gia súc và các loài sinh vật cảnh. Nhưng có những loài gây hại tiêu diệt các loài sinh vật bản địa khác mà chúng tiếp xúc, bằng cách ăn thịt, sống ký sinh, đầu độc hoặc lấn át chúng. Các sinh vật ngoại lai gây ra những ảnh hưởng lớn bởi các sinh vật bản địa trước đó chưa hề tiếp xúc với chúng hoặc không thể chống lại chúng (như bệnh đậu mùa hay bệnh AIDS mới phát sinh với con người). Hiện có hàng trăm trường hợp các sinh vật ngoại lai gây thiệt hại trong một khoảng thời gian hoặc kéo dài nhiều năm tốn kém hàng trăm triệu, thậm chí hàng tỷ đô-la. Những ví dụ hiện đại bao gồm hai loài thỏ và cáo của Australia, các loài cỏ dại trong nông nghiệp như cây xa cúc đốm và đại kích lá rậm (Chương 1), các loài địch hại và mầm bệnh đối với cây cối, hoa màu và vật nuôi (như rệp vừng lan tràn trên những cây dẻ và tàn phá cây du của Mỹ), bèo Nhật Bản làm tắc nghẽn các tuyến đường thủy, giống trai vằn bít nguồn năng lượng của thực vật, và cá mút đá đã tiêu diệt những loài cá thương mại trước đây ở những hồ lớn ở Bắc Mỹ (Phụ bản 30, 31). Những ví dụ cổ xưa bao gồm việc du nhập loài chuột góp phần làm tuyệt chủng loài cọ trên đảo Phục Sinh do chúng gặm nhấm những hạt cọ, hút trứng và ăn thịt những loài chim sinh sản trên các đảo Phục Sinh, Henderson và tất cả các đảo Thái Bình Dương khác trước đó chưa hề có chuột.

10. Các hoạt động của con người sản sinh ra các loại khí thoát vào khí quyển, khiến chúng hoặc tàn phá tầng ozone bảo vệ Trái đất (như ảnh hưởng trước đây của các chất làm lạnh có trong tủ lạnh từng lan tràn phổ biến) hoặc trở thành khí nhà kính hấp thụ ánh nắng khiến khí hậu toàn cầu nóng dần lên. Các loại khí góp phần khiến khí hậu toàn cầu nóng lên là carbon dioxide do đốt cháy các nguyên liệu và sự hô hấp của các loài, và khí metan lên men từ phân của các loài động vật nhai lại. Tất nhiên, những vụ cháy tự nhiên và sự hô hấp của động vật cũng sản sinh ra carbon dioxide, và những loài vật nhai lại hoang dã cũng sản sinh ra khí metan, nhưng việc chúng ta đốt củi hoặc các loại nhiên liệu hóa thạch làm tăng mạnh khí carbon dioxite, và những đàn gia súc, đàn cừu làm tăng mạnh khí metan.

Trên thực tế, các nhà khoa học đã tranh cãi trong nhiều năm liền về nguyên nhân và mức độ của hiện tượng khí hậu toàn cầu nóng lên: Có phải xét về mặt lịch sử về việc hiện nhiệt độ thế giới đang lên cao không, nếu đúng thì tăng lên bao nhiêu, và có phải con người là nguyên nhân gây ra tình trạng này không? Các nhà khoa học lỗi lạc nhất đồng ý rằng, mặc dù nhiệt độ mỗi năm tăng giảm thất thường nhưng cũng cần có những phân tích chi tiết nhằm xác định những khuynh hướng nhiệt độ tăng lên, gần đây nhiệt độ của bầu khí quyển thực sự đang tăng mạnh bất thường, và các hoạt động của con người góp phần hoặc chính là nguyên nhân chính gây ra tình trạng này. Những băn khoăn còn lại chủ yếu liên quan tới mức độ nghiêm trọng của hiện tượng này trong tương lai: Ví dụ, liệu nhiệt độ trung bình toàn cầu sẽ tăng “chỉ” 1,5 độ C hay tới 5 độ C trong vòng thế kỷ tới. Những con số này nghe chừng không có gì to tát, cho tới khi hiểu ra rằng nhiệt độ trung bình toàn cầu “chỉ” giảm có 5 độ tại thời kỳ đỉnh điểm của Kỷ Băng hà cuối cùng.

Mặc dù ban đầu mọi người có thể nghĩ rằng chúng ta nên vui mừng trước hiện tượng khí hậu toàn cầu nóng lên bởi nhiệt độ cao hơn có nghĩa là thực vật tăng trưởng nhanh hơn, nhưng hóa ra hiện tượng này đem lại cả những điều thuận lợi và bất lợi. Thực tế hoa màu ở những vùng có khí hậu lạnh lẽo, nhiệt độ không thuận lợi cho hoạt động nông nghiệp thì sản lượng có thể tăng lên, trong khi các loại hoa màu ở những vùng đã có khí hậu ấm áp và khô hanh thì sản lượng sẽ giảm. Tại Montana, California và nhiều vùng khác có khí hậu hanh khô, sự biến mất của những đỉnh núi bốn mùa tuyết phủ sẽ làm giảm lượng nước cung cấp cho các mục đích sinh hoạt và tưới tiêu, và gây ra những ảnh hưởng tiêu cực tới sản lượng hoa màu tại những vùng này. Mực nước biển toàn cầu tăng do băng, tuyết tan chảy gây ra những nguy cơ lụt lội và xói mòn bờ biển, nguy hại đối với những đồng bằng ven biển nằm ở những vùng đất thấp và đông dân, cùng những châu thổ của các con sông hiện chỉ ở trên rất ít hoặc thậm chí còn ở dưới mực nước biển. Những khu vực đang đứng trước nguy cơ này bao gồm Hà Lan, Bangladesh, vùng bờ biển phía đông nước Mỹ, nhiều đảo thấp ở Thái Bình Dương, các vùng châu thổ của sông Nile và sông Mekong, các thành phố ven biển hoặc bên bờ sông của Anh (như London), Nhật Bản, Ấn Độ và Philippines. Khí hậu toàn cầu ấm lên cũng còn sản sinh ra những tác động thứ cấp khác khó có thể dự đoán chính xác và có nhiều khả năng chúng sẽ gây ra những vấn đề lớn, như khí hậu thay đổi mạnh mẽ hơn do những thay đổi dòng hải lưu bởi những tảng băng Bắc Cực đang bị tan chảy.

Hai vấn đề còn lại liên quan tới tình trạng dân số thế giới tăng lên.

11. Dân số thế giới đang tăng lên. Dân số đông hơn khiến nhu cầu lương thực, không gian, nước, năng lượng và các nguồn tài nguyên khác cũng cao hơn. Tỷ lệ và thậm chí kể cả xu hướng phát triển của dân số trên thế giới đã thay đổi mạnh mẽ, với tỷ lệ tăng trưởng dân số cao nhất (4% mỗi năm trở lên) ở một số nước Thế giới thứ ba, tỷ lệ tăng trưởng thấp (từ 1% mỗi năm trở xuống) ở một số nước Thế giới thứ nhất như Italia và Nhật Bản, và tỷ lệ tăng trưởng âm (dân số suy giảm) diễn ra ở các nước đang phải đối mặt với những khủng hoảng lớn về sức khỏe cộng đồng, như Nga và các nước châu Phi đang phải đối mặt với dịch bệnh AIDS. Tất cả mọi người thừa nhận rằng dân số thế giới đang tăng lên, nhưng tỷ lệ tăng hằng năm không cao như cách đây một, hai thập kỷ. Tuy nhiên, vẫn có sự bất đồng về vấn đề liệu dân số thế giới sẽ ổn định ở một giá trị nào đó trên mức độ hiện nay không (gấp đôi dân số hiện nay?), và (nếu vậy) bao nhiêu năm nữa (30 năm? 50 năm?) thì dân số thế giới mới đạt tới mức độ đó, hay liệu dân số sẽ vẫn tiếp tục tăng.

Có một đà nội tại lớn khiến dân số thế giới phát triển bởi cái gọi là “lợi thế nhân khẩu học” hay “đà dân số”, ví dụ như hiện tượng mất cân đối về số lượng trẻ em và những người trẻ trong độ tuổi sinh sản trong dân số hiện nay là hậu quả của sự phát triển dân số gần đây. Giả sử các cặp vợ chồng trên thế giới đều quyết định chỉ sinh tới hai con, đây chính là số lượng trẻ em cần thiết để dân số thế giới ổn định về lâu dài bởi số trẻ em này sẽ thay thế chính xác số những bậc làm cha mẹ sẽ chết đi (thực tế, tỷ lệ trẻ em là 2,1 không tính tỷ lệ trẻ tử vong, những cặp vợ chồng không sinh con và số trẻ ngoài giá thú). Dù sao, dân số thế giới vẫn tiếp tục tăng trong vòng khoảng 70 năm tới, bởi hiện số người trong hoặc đang vào độ tuổi sinh sản đông hơn số người già và người hết độ tuổi sinh sản. Trong vài thập kỷ gần đây, vấn đề tăng trưởng dân số được chú ý nhiều và tạo điều kiện cho những phong trào như Tăng trưởng Dân số Bằng không phát triển với mục đích làm chậm hay ngăn chặn tăng trưởng dân số.

12. Nhưng mối quan tâm thực sự không phải chỉ là số lượng con người, mà còn cả tác động của họ tới môi trường. Nếu phần lớn số 6 tỷ người trên thế giới hiện nay nằm trong kho đông lạnh mà không ăn uống, hít thở hay cũng không có quá trình chuyển hóa, thì dân số lớn đó cũng chẳng gây ảnh hưởng gì tới môi trường. Nhưng không phải vậy, dân số thế giới hiện đang gây ra nhiều vấn đề môi trường bởi chúng ta tiêu thụ những nguồn tài nguyên và tạo ra rác thải. Tỷ lệ tác động môi trường theo đầu người - các nguồn tài nguyên được tiêu thụ và các loại rác thải phát sinh của mỗi người - trên thế giới rất khác nhau, cao nhất là Thế giới thứ nhất và thấp nhất là Thế giới thứ ba. Trung bình, mỗi công dân Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản tiêu thụ tài nguyên, như các loại nhiên liệu hóa thạch, và thải ra rác thải cao gấp 32 lần so với công dân của Thế giới thứ ba (Phụ bản 35).

Nhưng những nước có tỷ lệ tác động thấp đang trở thành những nước có tỷ lệ tác động cao vì hai lý do: Mức sống ở các nước Thế giới thứ ba đang tăng lên bởi mục tiêu của người dân các nước này là nâng tiêu chuẩn sống lên ngang bằng Thế giới thứ nhất; và nhập cư, cả hợp pháp và bất hợp pháp, của người dân các nước Thế giới thứ ba vào Thế giới thứ nhất, do các vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội trong nước. Nhập cư từ các nước có tỷ lệ tác động thấp hiện đang là nguyên nhân chính khiến dân số Mỹ và châu Âu tăng lên nhanh chóng. Cũng vì lý do này mà vấn đề dân số trầm trọng nhất thế giới không phải là tỷ lệ tăng trưởng dân số cao tại Kenya, Rwanda và một số nước Thế giới thứ ba nghèo khổ khác, mặc dù chắc chắn nó sẽ gây ra những khó khăn nhất định cho các nước này, và mặc dù đó là vấn đề dân số được thảo luận nhiều nhất. Thay vào đó, vấn đề lớn nhất chính là tỷ lệ tác động tổng thể của con người tới môi trường tăng do mức sống của Thế giới thứ ba tăng, và tình trạng người dân Thế giới thứ ba di cư sang Thế giới thứ nhất và tuân theo các tiêu chuẩn sống của Thế giới thứ nhất.

Nhiều “người lạc quan” cho rằng thế giới có thể nuôi sống số dân gấp đôi như hiện nay, và con người chỉ tăng về số lượng còn tỷ lệ tác động môi trường trung bình trên mỗi đầu người là không tăng. Nhưng tôi chưa từng gặp ai nghiêm túc cho rằng thế giới có thể chịu đựng những tác động lớn gấp 12 lần như hiện nay, mặc dù hệ số tăng đó là do tất cả cư dân Thế giới thứ ba đang theo đuổi các tiêu chuẩn sống của Thế giới thứ nhất. (Hệ số 12 đó thấp hơn hệ số 32 mà tôi đã đề cập ở phần trên, bởi bản thân cư dân Thế giới thứ nhất đã có mức sống tác động cao, cho dù số dân không thể sánh kịp Thế giới thứ ba). Thậm chí nếu chỉ riêng người dân Trung Quốc đạt tiêu chuẩn sống tương đương Thế giới thứ nhất, trong khi tiêu chuẩn sống của các nước khác vẫn giữ nguyên, thì tác động của con người tới môi trường thế giới đã tăng gấp đôi (Chương 12).

Người dân Thế giới thứ ba ước ao được sống như người dân của Thế giới thứ nhất. Khát vọng của họ càng cháy bỏng khi xem truyền hình, xem những quảng cáo về các sản phẩm tiêu dùng của Thế giới thứ nhất đang bán trên đất nước họ và quan sát những du khách đến từ Thế giới thứ nhất. Thậm chí ngay tại những ngôi làng, những trại tị nạn xa xôi nhất hiện nay mọi người đều biết về cuộc sống ở thế giới bên ngoài. Khát vọng của công dân các nước Thế giới thứ ba được các cơ quan phát triển của Thế giới thứ nhất và Liên Hợp quốc khuyến khích khi luôn vẽ ra triển vọng biến giấc mơ thành hiện thực nếu họ có những chính sách đúng đắn như cân đối ngân sách quốc gia, đầu tư vào giáo dục và cơ sở hạ tầng, v.v...

Nhưng không một ai trong các chính phủ của Thế giới thứ nhất sẵn lòng thừa nhận những điều không tưởng của giấc mơ, đó là: Thế giới sẽ không thể chống đỡ được nếu toàn bộ dân số của Thế giới thứ ba đạt được mức sống hiện nay của Thế giới thứ nhất. Thế giới thứ nhất sẽ không thể giải quyết vấn đề này bằng cách ngăn cản những nỗ lực của Thế giới thứ ba nhằm vươn tới mục tiêu này. Các nước Hàn Quốc, Malaysia, Singapore, Hongkong, Đài Loan và Mauritius đã thành công hoặc sắp thành công; Trung Quốc và Ấn Độ đang phát triển nhanh chóng; và 15 nước Tây Âu giàu có hợp thành Liên minh châu Âu vừa kết nạp thêm 10 thành viên là những nước Đông Âu nghèo hơn, và cam kết hỗ trợ nâng mức sống của các nước này lên ngang bằng những thành viên cũ. Thậm chí kể cả nếu không có Thế giới thứ ba, thì chỉ riêng các nước Thế giới thứ nhất cũng khó có thể duy trì được tiến trình phát triển như hiện nay, bởi hiện các nước này đang đi trên con đường không vững chắc do các nguồn tài nguyên bản địa cũng như nhập khẩu từ Thế giới thứ ba đang dần suy kiệt. Hiện tại, về mặt chính trị, lãnh đạo các nước Thế giới thứ nhất đã buộc phải thừa nhận với các công dân của mình rằng mức sống của họ đang giảm đi, được thể hiện qua mức tiêu thụ tài nguyên và phát sinh rác thải giảm đi. Điều gì sẽ diễn ra nếu cuối cùng tất cả những người dân của Thế giới thứ ba phát hiện ra rằng họ không thể đạt được mức sống như Thế giới thứ nhất, và rằng Thế giới thứ nhất không chấp nhận tự nguyện từ bỏ mức sống của mình? Cuộc sống đầy những lựa chọn khó khăn dựa trên sự có đi có lại mà chúng ta phải giải quyết: khuyến khích và giúp đỡ tất cả mọi người trên thế giới nâng cao mức sống, nhưng lại không muốn tiêu chuẩn sống bị ảnh hưởng bởi những áp lực quá lớn đối với các nguồn tài nguyên trên toàn cầu.

Tôi đã mô tả 12 vấn đề môi trường một cách riêng biệt nhưng thực tế chúng có liên quan tới nhau: vấn đề này làm vấn đề kia nghiêm trọng hơn hay khiến việc giải quyết nó khó khăn hơn. Ví dụ, tăng trưởng dân số ảnh hưởng tới tất cả 11 vấn đề: dân số đông hơn có nghĩa là phá rừng nhiều hơn, hóa chất độc hại nhiều hơn, nhu cầu tiêu thụ cá tự nhiên cao hơn, v.v. Vấn đề năng lượng có liên quan tới những vấn đề khác bởi việc sử dụng các nhiên liệu hóa thạch để sản xuất năng lượng góp phần làm tăng các loại khí nhà kính, khắc phục hiện tượng đất bạc màu bằng cách sử dụng phân bón nhân tạo đòi hỏi cần phải có năng lượng để sản xuất phân bón, khan hiếm nhiên liệu hóa thạch khiến chúng ta tăng cường xây dựng các nhà máy năng lượng nguyên tử với những nguy cơ “độc hại” lớn nhất trong trường hợp xảy ra sự cố, khan hiếm nhiên liệu hóa thạch cũng khiến việc giải quyết các vấn đề về nước ngọt của chúng ta tốn kém hơn do phải sử dụng năng lượng để khử mặn nước biển. Suy kiệt các nguồn thủy hải sản và các nguồn lương thực tự nhiên khác làm tăng áp lực đối với việc chăn nuôi gia súc, trồng trọt hoa màu và nuôi trồng thủy sản để thay thế các nguồn lương thực tự nhiên đã mất, từ đó dẫn tới tình trạng mất đất mặt và dư thừa chất dinh dưỡng trong nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản diễn ra trầm trọng hơn. Các vấn đề về phá rừng, thiếu nước và suy thoái đất ở Thế giới thứ ba càng tạo điều kiện cho những cuộc chiến tranh bùng nổ và khiến số người tỵ nạn và di cư bất hợp pháp sang Thế giới thứ nhất ngày càng đông.

Xã hội của chúng ta hiện đang đi trên con đường không bền vững, và bất kỳ vấn đề nào trong 12 vấn đề không bền vững mà chúng ta vừa điểm qua cũng đủ gây ảnh hưởng tới mức sống của chúng ta trong vài thập kỷ tới. Chúng như những trái bom nổ chậm mà giờ nổ chưa tới 50 năm nữa. Ví dụ, những khu rừng nhiệt đới dễ tiếp cận ở những vùng đất thấp, ngoài các công viên quốc gia, hiện rõ ràng đã bị hủy diệt hoàn toàn ở bán đảo Malaysia, và với tốc độ như hiện nay rồi thì chỉ chưa đầy một thập kỷ nữa sẽ tới lượt quần đảo Solomon, Philippines, Sumatra và Sulawesi, và chỉ trong vòng 25 năm nữa sẽ tới lượt tất cả những cánh rừng khác trên toàn thế giới, trừ những cánh rừng trong khu vực lưu vực Amazon và Congo. Với tốc độ hiện nay, chúng ta sẽ khai thác kiệt quệ hoặc tàn phá phần lớn những nguồn hải sản còn lại của thế giới, khai thác kiệt quệ những trữ lượng dầu lửa và khí tự nhiên sạch, rẻ, dễ tiếp cận và tận dụng tối đa năng suất quang hợp chỉ trong vài thập kỷ tới. Khí hậu toàn cầu nóng lên dự kiến sẽ đạt tới ít nhất một độ C, và một phần lớn các loài động thực vật hoang dã của thế giới sẽ rơi vào tình trạng nguy hiểm hay bị tuyệt chủng và không thể phục hồi, chỉ trong vòng nửa thế kỷ nữa. Mọi người thường hỏi nhau: “Vấn đề dân số, môi trường đơn lẻ nào quan trọng nhất mà thế giới ngày nay đang phải đối mặt?” Câu trả lời hài hước sẽ là: “Vấn đề đơn lẻ quan trọng nhất là chúng ta đã nhầm lẫn khi chú trọng xác định vấn đề đơn lẻ quan trọng nhất”. Câu trả lời đó thực chất lại chính xác, bởi bất kỳ vấn đề nào trong số 12 vấn đề trên nếu không được giải quyết cũng gây thiệt hại cực kỳ to lớn cho chúng ta, và bởi tất cả chúng đều có quan hệ tương tác với nhau. Nếu chúng ta giải quyết 11 vấn đề mà bỏ qua vấn đề thứ 12, chúng ta vẫn gặp rắc rối, cho dù đó là bất kỳ vấn đề nào. Chúng ta cần phải giải quyết tất cả 12 vấn đề trên.

Do vậy, bởi chúng ta đang tiến rất nhanh trên con đường không bền vững này, nên bằng cách này hay cách khác, các vấn đề môi trường của thế giới sẽ được các thế hệ trẻ hiện nay giải quyết. Vấn đề ở đây là liệu chúng có được giải quyết bằng những cách thích hợp do chính chúng ta chọn lựa hay không, hay bằng những cách tiêu cực mà chúng ta không muốn chọn lựa như chiến tranh, diệt chủng, dịch bệnh và các xã hội sụp đổ. Trong khi tất cả các hiện tượng tàn khốc trên luôn gắn chặt với lịch sử xã hội loài người, nhưng mức độ nghiêm trọng của suy thoái môi trường và áp lực dân số sẽ kéo theo đói nghèo và bất ổn chính trị.

Thế giới có rất nhiều ví dụ về những giải pháp tiêu cực trước những vấn đề về dân số và môi trường, cả trong thế giới hiện đại và thế giới cổ xưa. Trong đó có những cuộc tàn sát diễn ra gần đây ở Rwanda, Burundi và Nam Tư cũ; chiến tranh, nội chiến hay chiến tranh du kích ở Sudan, Philippines và Nepal hiện đại, và trong xã hội Maya cổ xưa; tục ăn thịt người ở đảo Phục Sinh và Mangareva thời tiền sử và Anasazi trước đây; nạn đói ở nhiều đất nước châu Phi hiện đại và ở đảo Phục Sinh thời tiền sử; dịch bệnh AIDS ở châu Phi và đang lan tràn sang những nơi khác; và sự sụp đổ của chính quyền Nhà nước ở Somalia, quần đảo Solomon và Haiti hiện đại, và trong xã hội Maya cổ xưa. Một hậu quả khác ít nghiêm trọng hơn kịch bản toàn thế giới sụp đổ có thể “chỉ là” sự tràn lan của tình trạng hỗn loạn như Haiti hay Rwanda sang các nước đang phát triển, trong khi chúng ta, những cư dân của Thế giới thứ nhất hiện vẫn tiếp tục cuộc sống tiện nghi của mình, nhưng trong tương lai sẽ phải đối mặt với nguy cơ điều kiện sống bị suy giảm do những cuộc khủng bố triền miên, chiến tranh và dịch bệnh bùng nổ. Không rõ liệu Thế giới thứ nhất có duy trì được mức sống riêng biệt như hiện nay khi phải đối mặt với làn sóng những người nhập cư tuyệt vọng chạy trốn khỏi những nước Thế giới thứ ba đang sụp đổ, mà số lượng người tị nạn lớn hơn gấp nhiều lần so với dòng người di cư hiện đã không thể ngăn chặn được. Tôi muốn nhắc lại bức tranh mà tôi đã phác họa về kết thúc thảm hại của trang trại Thánh đường Gardar và những đàn gia súc khổng lồ của Greenland đã bị những dòng người Norse tuyệt vọng từ những trang trại nghèo hơn, nơi gia súc đã chết hoặc bị ăn thịt hết, tràn đến tàn phá.

Nhưng trước khi chúng ta chịu bó tay trước kịch bản bi quan một chiều này, hãy nghiên cứu kỹ hơn những vấn đề mà chúng ta đang phải đối mặt và mức độ phức tạp của chúng. Theo tôi, điều này sẽ giúp chúng ta có một cái nhìn lạc quan, thận trọng hơn.

Để kết luận bên trên bớt trừu tượng, giờ tôi sẽ chứng minh 12 vấn đề môi trường trên tác động như thế nào tới đời sống của phần trái đất mà tôi quen thuộc nhất: thành phố Los Angeles ở Nam California, nơi tôi sống. Lớn lên ở Bờ biển phía đông nước Mỹ và đã sống vài năm ở châu Âu, năm 1964 lần đầu tiên đến California, ngay lập tức tôi đã bị cuốn hút và chuyển tới đây năm 1966.

Bởi vậy, tôi tận mắt chứng kiến Nam California thay đổi như thế nào trong vòng 39 năm qua, chủ yếu theo chiều hướng tiêu cực, khiến nó ít lôi cuốn hơn. Theo tiêu chuẩn thế giới, những vấn đề môi trường của Nam California tương đối nhẹ nhàng. Nói theo cách đùa của người Mỹ ở Bờ biển phía đông là vùng này chưa có nguy cơ xã hội sẽ bị sụp đổ ngay lập tức. Theo tiêu chuẩn thế giới và thậm chí cả tiêu chuẩn của Mỹ, thì đây là vùng dân cư giàu có và có nhận thức cao về môi trường. Los Angeles nổi tiếng về một số vấn đề ô nhiễm môi trường, nhất là hiện tượng mây khói, nhưng phần lớn các vấn đề môi trường và dân số của nó ở mức độ bình thường hay điển hình khi so sánh với các thành phố hàng đầu khác của Thế giới thứ nhất. Những vấn đề môi trường này ảnh hưởng thế nào tới cuộc sống của người dân Los Angeles và cá nhân tôi?

Những phàn nàn của người dân Los Angeles chủ yếu là những vấn đề liên quan trực tiếp tới tình trạng đông dân và vẫn đang tiếp tục tăng lên, đó là: tắc đường và giá nhà quá cao (Phụ bản 36), do hàng triệu người chỉ tập trung làm việc trong vài khu vực trung tâm, và bởi khu vực dân sinh xung quanh các trung tâm này rất hạn chế; nên hậu quả là người dân Los Angeles phải sinh sống ở những nơi cách chỗ làm việc tới hai giờ đồng hồ lái xe hoặc tới gần 100 kilômét, và phải lái xe đi lại giữa nơi ở và nơi làm việc. Từ năm 1987, Los Angeles đã trở thành một trong những thành phố có tình trạng giao thông tồi tệ nhất nước Mỹ và từ đó tới nay vẫn chưa hề được cải thiện. Mọi người đều công nhận rằng trong thập kỷ qua, những vấn đề này ngày càng tồi tệ hơn. Hiện chúng là nguyên nhân lớn nhất ảnh hưởng tới khả năng thu hút và giữ chân người lao động của các nhà tuyển dụng ở Los Angeles, và khiến cư dân thành phố ngại lái xe tham dự các sự kiện hoặc đi thăm bạn bè. Với quãng đường gần 20 kilômét từ nhà tôi vào thành phố Los Angeles hay tới sân bay, giờ tôi phải đi mất tới 1h15’. Trung bình người Los Angeles mỗi năm phải mất tới 368 giờ đồng hồ, tương đương 15 ngày, để đi lại giữa nơi làm việc và nơi ở, đó là chưa tính thời gian lái xe đi làm những việc khác.

Hiện chưa có giải pháp nào có thể giải quyết triệt để các vấn đề, mà chắc chắn chỉ khiến vấn đề thêm tồi tệ hơn. Như việc xây dựng đường cao tốc đang được đề xuất hay thực hiện nhằm giải tỏa tắc nghẽn ở một số điểm trọng điểm nhưng chắc chắn sẽ sớm trở lại cảnh tắc nghẽn do số lượng xe hơi vẫn không ngừng tăng lên. Hiện không rõ tình trạng tắc nghẽn giao thông của Los Angeles sẽ còn trở nên tệ hại như thế nào, bởi hàng triệu người ở những thành phố khác trên thế giới cũng đang phải đối mặt với tình trạng tắc đường nghiêm trọng hơn nhiều. Như bạn bè tôi ở Bangkok, thủ đô Thái Lan, cho biết họ còn phải mang theo xe một chiếc bệ vệ sinh hóa học nhỏ bởi họ thường phải lái xe rất lâu và rất chậm; có lần họ khởi hành ra khỏi thị trấn để đi nghỉ cuối tuần, nhưng cuối cùng phải bỏ cuộc và quay về sau 17 giờ lái xe mà chỉ đi được có 5 kilômét qua một đoạn tắc đường. Mặc dù những người lạc quan lý giải những ích lợi của dân số tăng và thế giới sẽ nuôi nấng số dân đó như thế nào, nhưng tôi chưa bao giờ gặp một người dân Los Angeles (và rất ít người ở những nơi khác trên thế giới) mong muốn dân số trong khu vực sinh sống của mình tăng lên.

Sự góp phần của Nam California làm tăng mức tác động trung bình của con người tới môi trường của thế giới, do hậu quả của việc di cư của con người từ Thế giới thứ ba sang Thế giới thứ nhất, từ nhiều năm nay đã trở thành vấn đề nhạy cảm nhất trong nền chính trị California. Tăng trưởng dân số của California đang tăng mạnh, hầu như hoàn toàn do nhập cư và quy mô gia đình trung bình của người nhập cư cũng lớn hơn sau khi họ tới đây. Biên giới giữa California và Mexico dài và hầu như không thể kiểm soát được tình trạng người nhập cư trái phép từ các nước Trung Mỹ vào Mỹ để tìm kiếm việc làm và để đảm bảo an toàn tính mạng. Tháng nào cũng có tin những người nhập cư trái phép bị chết ở sa mạc hay bị cướp hoặc bị bắn giết, nhưng điều đó không ngăn cản được họ. Nhiều người nhập cư bất hợp pháp khác đến từ những nước xa xôi như Trung Quốc hay các nước Trung Á, trên những con thuyền thả họ ngay ở ngoài khơi. Người dân California cũng có những quan điểm khác nhau về những người nhập cư từ Thế giới thứ ba tới đây nhằm tìm kiếm một cuộc sống như ở Thế giới thứ nhất. Một mặt, nền kinh tế của chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào người nhập cư để bù đắp số lao động thiếu hụt trong các ngành dịch vụ, xây dựng và nông nghiệp. Mặt khác, những công dân California phàn nàn rằng người nhập cư tranh giành nhiều việc làm với những công dân bản địa đang thất nghiệp, làm giảm tiền lương và khiến cho hệ thống giáo dục và y tế công cộng vốn đã quá tải giờ càng trở nên nặng nề hơn. Năm 1994, một biện pháp (Đề xuất 187) được đưa ra trưng cầu dân ý bằng cách bỏ phiếu kín và được đa số cử tri ủng hộ, nhưng sau đó bị các tòa án hiến pháp hủy bỏ, đề xuất này đồng ý cắt bỏ phần lớn những khoản trợ cấp từ nguồn kinh phí của bang dành cho những người nhập cư bất hợp pháp. Từ đó, không một công dân hay một quan chức nào của California dám đề xuất một giải pháp mâu thuẫn tương tự, điều này gợi nhớ tới thái độ phân biệt của người Dominica với người Haiti, bởi vừa cần người nhập cư để làm việc nhưng lại phủ nhận sự tồn tại và những nhu cầu cần thiết của họ.

Nam California cũng là một trong những nơi góp phần lớn gây ra khủng hoảng năng lượng. Hệ thống xe điện trước kia của thành phố chúng ta đã sụp đổ do phá sản từ những năm 1920 và 1930, và quyền sử dụng các tuyến đường đã rơi vào tay các nhà sản xuất xe hơi và bị phân chia nên khiến nó không thể phục hồi được (hiện chỉ gồm toàn xe hơi). Người Los Angeles thích sống ở nhà riêng hơn là những căn hộ cao tầng, cùng với khoảng cách giữa nơi làm việc và nơi sinh sống quá xa khiến chính quyền thành phố không thể thiết kế được hệ thống vận tải công cộng nào đáp dứng được nhu cầu của phần lớn người dân. Bởi vậy, người Los Angeles phụ thuộc nhiều vào xe hơi.

Mức tiêu thụ khí của chúng ta cũng cao, những ngọn núi bao quanh phần lớn lưu vực Los Angeles, với những hướng gió gây ra vấn đề mây khói nổi tiếng của thành phố Los Angeles (Phụ bản 38). Mặc dù những thập kỷ gần đây đã có những tiến bộ trong việc khắc phục tình trạng mây khói, và có những thay đổi theo mùa (mây khói tồi tệ nhất vào thời điểm cuối mùa hè và đầu mùa thu) và theo vị trí địa lý (càng sâu trong đất liền tình trạng mây khói càng tồi tệ), nhưng Los Angeles vẫn tiếp tục đứng gần cuối danh sách chất lượng không khí tại các thành phố của Mỹ. Sau nhiều năm được cải thiện, trong những năm gần đây chất lượng không khí của chúng ta lại suy giảm trở lại. Một vấn đề độc hại khác ảnh hưởng tới đời sống và sức khỏe của con người là sự lan tràn của vi khuẩn roi gây bệnh đường ruột trong các sông hồ của California trong vài thập kỷ qua. Khi tôi mới chuyển tới đây sinh sống trong những năm 1960 và chạy bộ trên những sườn núi, thì uống nước suối vẫn rất an toàn; nhưng bây giờ thì chắc chắn đã bị nhiễm khuẩn roi.

Vấn đề quản lý môi trường sống mà chúng ta lo lắng nhất là nguy cơ hỏa hoạn trong hai môi trường sống chính của Nam California, chaparral (một khu rừng bụi tương tự như macchia của Địa Trung Hải) và rừng sồi. Trong những điều kiện tự nhiên, cả hai khu rừng này đều đã từng bị cháy do sét đánh, giống như tình trạng những khu rừng ở Montana mà tôi đã thảo luận trong Chương 1. Giờ đây, những người đang sống ở gần hay trong những khu rừng dễ cháy đó yêu cầu phải dập cháy ngay lập tức. Hằng năm, vào thời điểm cuối hè và đầu thu, thời điểm nóng nhất, khô nhất và gió nhất của Nam California, là mùa cháy khi một số vùng hay thậm chí hàng trăm ngôi nhà dễ dàng bốc cháy. Hẻm núi nơi tôi sống, sau khi để xảy ra một vụ cháy lớn thiêu rụi 600 căn nhà, từ năm 1961 tới nay chưa hề xảy ra vụ cháy rừng mất kiểm soát nào. Một giải pháp lý thuyết cho vấn đề này, giống như trong các khu rừng của Montana, đó là thường xuyên tạo ra những đám cháy nhỏ có kiểm soát để giảm những nhiên liệu dễ cháy trong rừng, nhưng những vụ cháy này cũng có thể đôi khi trở nên nguy hiểm trong khu vực đô thị đông dân như Los Angeles và công chúng sẽ không cho phép điều đó.

Những sinh vật ngoại lai là một hiểm họa và gánh nặng kinh tế lớn đối với nền nông nghiệp California, trong đó nghiêm trọng nhất là loài ruồi giấm Địa Trung Hải. Những hiểm họa ngoài nông nghiệp là những loại bệnh dịch ngoại lai đang đe dọa làm chết những cây sồi và thông của chúng ta. Bởi một trong hai cậu con trai của tôi quan tâm tới các loài động vật lưỡng cư (ếch và kỳ giông) ngay từ nhỏ, nên tôi phát hiện ra rằng phần lớn số sinh vật lưỡng cư bản địa đã bị tuyệt chủng ở 2/3 số dòng suối của hạt Los Angeles, do sự lan tràn của ba loài động vật ngoại lai ăn thịt các loài lưỡng cư (tôm, ễnh ương và cá đớp muỗi), trong khi những loài lưỡng cư ở Nam California không thể chống chọi được bởi chúng chưa từng gặp phải hiểm họa này.

Vấn đề đất đai lớn ảnh hưởng tới nền nông nghiệp California là tình trạng mặn hóa do các hoạt động tưới tiêu trong nông nghiệp gây ra, tàn phá những dải đất nông nghiệp rộng lớn ở thung lũng Trung tâm của California, vùng nông nghiệp trù phú nhất nước Mỹ.

Bởi lượng mưa ở Nam California thấp, nên Los Angeles phải phụ thuộc vào những hệ thống dẫn nước lớn, chủ yếu từ rặng núi Sierra Nevada, những thung lũng lân cận của Bắc California và từ sông Colorado ở biên giới phía đông của bang này. Với tốc độ tăng trưởng dân số của California, sự cạnh tranh các nguồn cung cấp nước giữa các nông dân và các thành phố ngày càng gay gắt. Do khí hậu toàn cầu nóng dần lên, những khu vực tuyết phủ của núi Sierra cung cấp phần lớn nước cho chúng ta, sẽ suy giảm như tại Montana, làm tăng nguy cơ khan hiếm nước tại Los Angeles.

Về sự sụp đổ của ngành thủy hải sản, ngành đánh bắt cá mòi của Bắc California đã sụp đổ từ đầu thế kỷ XX, ngành bào ngư của Nam California đã sụp đổ từ vài chục năm trước ngay sau khi tôi chuyển tới đây, và ngành cá quân của Nam California hiện cũng đang sụp đổ và trở thành đối tượng bị hạn chế đánh bắt nghiêm ngặt hay cấm triệt để như trong năm qua. Giá cá ở các siêu thị của Los Angeles đã tăng gấp bốn lần kể từ khi tôi chuyển tới đây.

Cuối cùng, tình trạng tổn hại đa dạng sinh học đã ảnh hưởng tới hầu hết những loài sinh vật đặc thù của Nam California. Biểu tượng của bang California, và của trường đại học của tôi (trường Tổng hợp California), là chú gấu vàng California, nhưng hiện cũng đã bị tuyệt chủng (Giờ trở thành một biểu tượng khủng khiếp cho cả bang và trường đại học của tôi). Rái cá biển của Nam California đã bị tuyệt chủng từ thế kỷ trước, và gần đây chính quyền đã có những nỗ lực nhằm khôi phục loài rái cá này nhưng vẫn chưa đạt kết quả. Trong thời gian tôi sống ở Los Angles, số lượng hai loài chim độc đáo nhất Los Angeles là gà lôi đuôi dài và chim cút California đã giảm mạnh. Các loài lưỡng cư của Nam California đang trên đà suy giảm là sa giông California và ếch California sống trên cây.

Bởi vậy, các vấn đề dân số và môi trường đang hủy hoại nền kinh tế và chất lượng cuộc sống ở Nam California. Chúng là nguyên nhân gây ra tình trạng thiếu nước, thiếu năng lượng, rác thải chồng chất, những trường học đông nghẹt học sinh, thiếu nhà cửa, giá cả tăng và tắc nghẽn giao thông. Trong phần lớn những vấn đề mà tôi đề cập, ngoại trừ tình trạng tắc nghẽn giao thông và chất lượng không khí đặc biệt tồi tệ, những vấn đề khác của chúng ta cũng chưa tệ hại bằng nhiều nơi khác của nước Mỹ.

Phần lớn những vấn đề môi trường không rõ ràng đều trở thành đối tượng tranh cãi. Tuy nhiên, ngoài ra còn có nhiều lý do thường được viện dẫn để phủ nhận tầm quan trọng của những vấn đề môi trường, nhưng theo đánh giá của tôi đó là do người đưa ra những lý đó chưa hiểu biết tường tận vấn đề. Những lý