← Quay lại trang sách

Q1 Chương 03.

Trên đường về Hoa Lư, vua Thuận Thiên và đoàn tuỳ tùng đi bằng đội long thuyền. Con đường nhà vua đã đi lại quen thuộc nhiều năm. Khi thuyền tới vùng đất Đại La, vua sai dừng lại để ngài ngắm cảnh. Nhà vua nhớ khi còn làm một chức quan nhỏ tại Lê triều, có lần ông tháp tùng thiền sư Vạn Hạnh khi qua đất này, sư cũng lên bờ ngắm thế đất, hình sông, bóng núi. Rồi sư nói, như nhắc bảo: “Linh khí nước Nam tụ kết nơi đây”. Lý Công Uẩn, nhìn bề ngoài, người ta ngỡ ông chỉ thiên về nghiệp võ hoặc việc nông tang. Ông có dáng người to, cao, gương mặt vuông chữ điền, vầng trán rộng, cặp mắt sáng, tóc dày, cứng, đen nhức; chân tay to; ngón tay cái cao quá đốt thứ hai của ngón tay trỏ. Đó là biểu hiện của một thứ quyền tinh vô thượng. So với các tiểu tăng cùng trang lứa, Lý Công Uẩn hơi khác thường ở chỗ học đâu nhớ đấy, học một biết hai. Bởi không chỉ tiếp nhận các điều thầy giảng, hoặc các điều sách nói, mà ông còn biết suy nghiệm để tìm nhẽ phải quấy, đục trong từ phía sau những lời kinh sách dạy. Ông thường tìm đọc rộng, vượt ra ngoài khuôn khổ của nội điển[14]. Bởi thế, ông thông hiểu cả Bách gia chư tử, tìm tới chỗ rốt ráo của y, lý và thuật số, phong thuỷ. Đúng là không điều gì ông không xem xét, không việc gì là ông không để tâm, để mắt tới.

Thấy ông là người vừa có cái tâm thiện, vừa có cái chí lớn, nên thiền sư Vạn Hạnh mới thâu nhận ông làm đệ tử và sư hết lòng truyền dạy cho. Nhà vua ngửa mặt nhìn trời. Bầu trời mùa xuân trong xanh. Mặt trời đang chính ngọ. Ánh nắng tươi vàng trải khắp bốn phương. Từ đâu đó một đàn sếu ào tới vắt ngang bầu trời, như một dải lụa khổng lồ, dài tới cả mấy chục trượng. Xa kia, hồ Dâm Đàm vẫn ùn ùn bốc lên khí sương trắng đục. Nhà vua kinh ngạc, bởi chưa một lần nào qua vùng Đại La này mà ngài không thấy khí hồ bốc lên; ngay cả vào ngày hè nắng nóng hoặc mùa thu mát dịu cũng vậy thôi. Tân quân đảo mắt nhìn dòng sông chảy dài từ thượng lưu xuống hạ lưu, có dáng cong cong như hình một lưỡi kiếm, che chắn nửa phía bắc của Đại La trải rộng. Xa xanh tít tắp về phía trời tây kia, dãy núi Tản bọc lấy phần còn lại như một bức trường thành vĩ đại, tạo cho Đại La một thế đứng uy nghi, lẫm liệt. Và hồ Dâm Đàm, chính là nơi kết tụ tú khí của thế núi, mạch sông của miền đất thiêng liêng này. Khi thuyền ngự vừa cập bến Hoa Lư, triều thần và chúng dân trăm họ với cờ, tán, xa giá, nghi trượng đã sẵn sàng nghênh đón đức vua hồi cung. Vua Thuận Thiên vừa bước chân lên bờ, dòng người xô lấn nhau để chiêm bái dung nhan ngài. Và tiếng hô: “Đức vua thiên tuế!”, “Đức vua vạn vạn tuế!” nổi lên ầm ầm như tiếng sấm rền. Âm vang lay động cả một vùng sơn động. Triều quan và dân chúng động Hoa Lư có lạ gì quan điện tiền đô chỉ huy sứ Lý Công Uẩn. Song họ muốn tận mắt bày tỏ tấm lòng ưu trọng đối với bậc vua hiền, mà từ lâu họ khát khao mong đợi. Thật khác xa với Lê Ngọa triều. Sinh thời ông vua này cứ xa giá ra khỏi hoàng cung, là dân chúng chạy dạt đi, y hệt như một bầy dê chợt trông thấy con cọp dữ. Khốn nạn cho kẻ nào không chạy kịp, nhà vua sai bắt lấy nhốt trong xe tù. Nếu cuộc đi săn ấy phải trở về tay không, thì chiếc xe tù được ném xuống sông Hoàng Long. Nếu đó là cuộc đi du ngoạn mà nhân lúc dòng sông cạn nước, vua sai đóng cọc dưới sông rồi trói người “tù” ấy vào cọc, để cho khi nước lên sẽ dìm chết họ trong lòng sông. Nhà vua nghĩ ra đủ trò ác hiểm để giết dân. Đối với vua Ngọa triều, bất cứ người dân nào mà ông ta trông thấy đều trở thành tội nhân, và nhà vua đều nghĩ ra cách giết họ một cách thật là khủng khiếp, để thoả lòng hiếu sát của ông. Bởi thế, khi vua Thuận Thiên vừa lên ngôi đã cho phá bỏ hết các loại hình phạt man rợ, lại xuống chiếu cho ai có nỗi oan mà quan xét chưa tỏ thì được phép vào tận trong cung để tâu bày. Phương sách gần dân phát xuất từ cái tâm thiện của nhà vua, khiến từ buổi sơ triều, dân đã yêu kính vua như cha mẹ mình vậy. Nhà vua vừa bước vào sân rồng, đã thấy một vị hoà thượng đầu đội mũ hoa sen, hai tay nâng một tờ sớ. Nhìn gương mặt vị sư già, vua thấy ngờ ngợ. Tay đỡ tờ sớ, mắt nhà vua lại lướt trên gương mặt sư, chợt vua nhìn thấy bên tai trái nhà sư bị cụt. Vua “à” lên một tiếng: - Quách thiền sư! - A-di-đà Phật! Chúc thánh thượng vạn an. Vua Thuận Thiên đỡ vị thiền sư đi vào trong cung. Cảnh tượng hãi hùng mấy năm trước hiện rõ trong óc não nhà vua. Bữa ấy Ngọa triều cho vời Thiền sư Quách Ngang vào cung. Vua bày các trò chơi như bắt nhà sư kể về sự tích Phật. Liền đó sai bọn hề nhại nhà sư đến trơ trẽn, tiếp đến là tiệc ăn mía. Vua sai đem dao sắc và mía đen vào để ngài tự róc lấy. Nhìn bên phải bên trái không thấy có gì để làm đòn kê. Vua bèn kéo áo sư đang ngồi hàng ghế dưới: - Hoà thượng ngồi nhích lại đây cho ta mượn cái đầu. Rồi vua dùng chiếc đầu trọc của sư làm đòn kê. Vua giả vờ trượt tay, lưỡi dao sắc hớt cụt mất một bên tai của nhà sư, máu chảy ròng ròng. Vua thản nhiên vừa ăn mía vừa cười ha hả. Sư không nói gì, bước ra khỏi hoàng cung vẻ mặt vẫn thanh thản. Trong khi đó quan điện tiền đô chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lòng buồn rượi. Ông lo cho số phận của hàng triệu sinh linh của đất nước này đang bị tên quỷ vương đe doạ. Vua xem xong tờ sớ, lòng bần thần quay hỏi thiền sư: - Vậy chớ hoà thượng định làm lễ cầu siêu cho vong linh của Ngọa triều? - Tâu hoàng thượng, đó là cái tâm của bần tăng. - Hoà thượng giữ được cái tâm vô nhiễm thế là tốt. Cầu sao Phật độ cho chúng sinh hồi tâm tĩnh trí. Vua phê vào tờ sớ rồi đưa lại cho thiền sư Quách Ngang. Lại sai quan nội hầu ban cho thiền sư mười đĩnh bạc để sư làm lễ cầu siêu cho Lê Ngọa triều. Tin hòa thượng Quách Ngang, người bị Lê Ngọa triều khi sinh thời đã róc mía trên đầu sư và phạt cụt một bên tai, nay lại đứng ra lập trai đàn cầu siêu cho kẻ bạo ngược ấy thì quả là một sự lạ. Lại còn chuyện vua Thuận Thiên ban cho sư mười đĩnh bạc thêm vào việc lập trai đàn cầu siêu cho Ngọa triều, cũng là một sự lạ được đồn thổi khắp trong ngoài thành Hoa Lư. Như thế có nghĩa rằng đức Thuận Thiên và người nhà Phật cùng có chung một tính thiện, hành xử theo cách “dĩ đức báo oán” tức là lấy ân mà trả oán để giải thoát cho chúng sinh. Thì vua chúa cũng là một chúng sinh, bởi Ngọa triều cũng là một con người chứ có khác gì. Mà với Ngọa triều thì y còn là một chúng sinh đầy trọc trược, chưa tiến hoá. Ở xóm đông kinh thành Hoa Lư có cư sĩ Mạnh Giác thờ Phật tại gia, ông là bậc thiện trí thức, thông tỏ mọi sự ở đời. Nghe nói, ông biết khá nhiều về lai lịch của vua Thuận Thiên. Ông nói với những người bà con xóm giềng đến dự khoá lễ chiều rằng: “Đức vua ta vốn là con Trời. Nghe nói mẫu thân ngài đi cắt cỏ trâu ở phía sau chùa Tiêu Sơn, gặp người thần giao cấu rồi sinh ra ngài. Ngài có uy nghi thiên tử từ lúc mới bẩm sinh. Đúng là Trời sai ngài xuống cứu nhân độ thế. Từ nay nước Nam ta mở mặt được rồi chứ không khốn đốn như thời hôn quân Ngọa triều nữa…”. Mọi người cứ há hốc mồm nghe ông Mạnh Giác kể về vị vua mới như kể truyện cổ tích. Từ ngày Lý Công Uẩn được quần thần tôn phù lên ngôi cửu ngũ[15], nhà vua lúc nào cũng lo lắng như người mặc áo cỏ khô ngồi bên đống lửa. Ngài lo cho dân sớm thoát cảnh lầm than. Lo sao cho đất nước yên ổn, không có trộm cướp, không có giặc giã. Lo sao cho việc hình án được rõ ràng, khoan giảm, để người dân không mắc vào vòng tội lỗi. Nhưng ngài cũng muốn thiên đô tới một nơi thoáng đãng. Kinh đô, theo ngài phải là nơi trung độ quy tụ được các vùng miền trong cả nước. Muốn vậy, kinh đô phải ở vào vị thế thuận tiện cho đường giao thông thuỷ bộ. Lại phải là nơi đông dân, sung túc, trù phú tiện cho việc nông việc công, việc thương và nhất là việc binh. Thế thì không đâu bằng vùng đất Đại La. Nhìn lại, động Hoa Lư vừa nhỏ hẹp, vừa không thuận cho việc giao lưu. Đất chật, dân nghèo, thật không xứng làm đất đế đô. Vả lại nhà Đinh, nhà Lê vừa lập nước, thế còn yếu lại luôn bị nhà Tống xâm lăng doạ nạt, nên phải dựa vào núi non, hang động hiểm trở cho dễ bề phòng bị. Nay thế nước đã khác xưa rồi. Ta khoan nới sức dân. Nhất định sức người sức của sẽ do đấy mà giàu thịnh lên. Còn như nhà Tống hiện đang lâm vào mạt thế. Cứ như biểu tâu trình của đoàn sứ giả ta cho sang Biện Kinh trở về, thì phía bắc nước Tống, đang bị quân Liêu uy hiếp nặng nề. Mà nội tình nước họ cũng lục đục, lo giữ nhà không xong, sao còn dám dòm ngó đất ta. Chính lúc này mới là lúc cần phải dời đô ra giữa vùng trời đất bao la, để tỏ với thiên hạ sức mạnh của triều đại ta. Nhà vua xăm xăm mở tráp lấy ra bức hoạ đồ do ngài tự hoạ về vùng đất Đại La. Nom hình vẽ, vua hình dung rất rõ nơi mà ngài có ý lựa chọn để dời đô. Nhà vua thầm nhủ: “Đây mới đúng là đất đế đô của muôn đời. Vả chăng ta lên ngôi, vừa thuận mệnh Trời, vừa hợp lòng dân. Nay Trời lại ban cho miền thắng địa này để định đô. Thế chẳng phải là THIÊN-ĐỊA-NHÂN đều dung hợp cả sao?”. Vua đem ý định dời đô tham bác ý tứ các quan. Lại sai tòa khâm thiên giám thử chiếu trong hoạ đồ với phân dã của các sao, xem kinh đô của ta sẽ nằm trong khu vực của sao nào sao nào, để còn xem xét sự vần xoay của vũ trụ mà lường biết hoạ phúc của người. Qua dò thăm ý tứ các quan mấy lần, vua bèn nhóm một buổi thiết triều. Mở đầu, vua nói: - Trẫm muốn nhân địa lợi của thành Đại La mà dời đô, như đã nhiều lần nói với các quan. Chẳng hay ý các quan thế nào? Vả chăng, vua Vũ nhà Chu xưa đã từng dạy, chọn đô phải: “Chọn ở nơi bằng phẳng thì vô sự”. Vậy chớ Đại La không phải là đất bằng phẳng sao? Vua đưa mắt hỏi quần thần. Quan Thái phó Đặng Văn Hiếu bước ra khỏi ban tâu: - Bệ hạ vì thiên hạ mà lập kế dài lâu, để trên cho công nghiệp to lớn được thịnh vượng, dưới cho dân được giàu của, nhiều người, việc lợi như thế, ai không dám không theo. Quan Thái phó vừa dứt lời, quan Thái bảo Đào Thạc Phụ liền tiếp: - Bệ hạ anh minh xét suy sau trước, định đô nơi linh địa ấy, dân sẽ được hưởng phúc muôn đời. Vả chăng triều đình của một nước, không thể cứ úi xùi ở nơi sơn động như thế này mãi được. Lại như việc dụng binh thì Đại La là nơi đất bằng mà rộng rãi. Phía đông bắc có sông Cái ngăn cách, thời thanh bình thì nom nó như một dải lụa hồng đào xen giữa rừng xanh và đồng lúa bạt ngàn; thời tranh chiến với giặc ngoại xâm, thì nó là một lưỡi gươm thần chém thẳng vào đại binh của giặc. Phía tây nam có dãy núi Tản làm bức trường thành, tiến lui, công thủ hai đường đều ưu thế cả. Bệ hạ đã có chủ kiến, tưởng nên kíp sai người về Đại La, lo xây cất cung điện, dinh thự sớm đi, để việc lớn mau thành. Quan lệnh thư gia là Lương Thức, người của triều trước còn được lưu dụng, bước ra khỏi ban tâu: - Bệ hạ tính kế trường tồn như vậy là chí phải, song thần trộm nghĩ, nhà Đinh dựng nước, nhà Lê mở mang, công ấy không phải là nhỏ. Hiềm vì Ngọa vương thất đức, nên trời bắt tuyệt diệt. Nay bệ hạ vì đức lớn mà được nước. Khắp bốn phương dân chúng đều như gà phải cáo, run sợ trông chờ ơn mưa móc của bệ hạ. Sợ rằng dời đô trong lúc này chưa thuận lòng người. Vì rằng dưới triều Lê Long Đĩnh, dân đã bị sưu cao thuế nặng, phu phen tạp dịch vắt đến kiệt sức. Vả lại các điện Phong Lưu, Tứ Hoa, Trường Xuân, Đại Vân… đã thật là sang quý. Còn như điện Bách Bảo Thiên Tuế tưởng đã đạt tới sự cùng xa cực xỉ. Vậy theo thiển ý của thần, chưa nên dời đô trong lúc này, xin bệ hạ lượng xét. Phần nhiều các quan đều dựa vào ý của quan Thái phó, Thái bảo mà bàn rộng ra. Vua mừng lắm, nhưng vẫn chưa quyết. Lại một bữa khác, vua tuyên triệu đại triều hội, và cung thỉnh vài vị tăng thống đạo cao đức trọng về triều tham vấn. Lâm triều, vua ban ý: - Nhà Đinh, nhà Lê đã có công nhất thống thiên hạ, giang sơn thu về một mối, khiến nhà Tống cũng phải nể phục, và không dám dòm dỏ đất nước ta nữa. Các triều đại ấy đều mở nghiệp và dựng nghiệp tại đất Hoa Lư này. Nơi đây, đã tạo lập biết bao lầu son gác tía, cung vàng điện ngọc nguy nga, muôn đời sau còn ghi nhớ. Nhưng sao đức nghiệp các triều đại ấy không tỏa sáng, truyền nối không được dài lâu. Trong nước thì các chúa động người Man không phục, đó đây vẫn nổi lên chống lại triều đình. Cõi xa như Lão Qua, Lâm Ấp, Chân Lạp không thần phục. Việc tiến cống họ đã lơ là, lại còn đem quân quấy nhiễu miền biên viễn, làm cho biên dân ta vô cùng điêu háo. Phải chăng đất này không thuận cho việc trị bình, không hội đủ anh linh tú khí, không phải là nơi chốn tiêu biểu cho một quốc gia hùng cường. Lòng ta vẫn muốn thiên đô về Đại La, như nhiều lần đã bàn bạc với các khanh. Bởi Đại La đất vừa rộng vừa bằng phẳng, vừa thuận tiện đường xe thuyền vào ra thuỷ bộ, vừa là nơi trung độ của cả nước. Tuy việc dời đô là rất tốn kém, vậy ý các khanh thế nào? Ngừng một lát, như để dò thăm ý tứ các quan, xem việc thiên đô có làm cho họ phật lòng, có gây xáo trộn không. Nhìn khắp lượt, không thấy có dấu hiệu gì tỏ ra khác thường, nhà vua lại nói: - Việc này, ta cầu lời nói thẳng, các khanh thử xem xét, cân nhắc lợi hại, cứ thực ý tỏ bày. Đây là việc quốc gia trọng đại, có quan hệ đến vận mệnh dài lâu của nước, chứ không phải việc riêng của nhà ta. Cũng không phải là việc riêng của một triều đại nào, mà nó chính là rường mối trường cửu, có quan hệ đến sinh mệnh toàn dân tộc; bởi vậy các khanh cứ bàn thảo cho ra nhẽ. Nếu lần này, ý các khanh đều cho là chưa nên thiên đô, thời ta lập tức bỏ ý định thiên đô, vì rằng ta lấy sự hiệp thông trên dưới làm trọng, lấy xã tắc làm trọng. Nào, các khanh nói đi, không việc gì phải tìm ý lựa lời để làm đẹp lòng ta. Triều hội im phăng phắc. Không khí bỗng chốc trở nên nặng nề khiến nhà vua có vẻ lo lắng. Quan Ngự sử Phạm Khiêm Ích bước ra khỏi ban tâu: - Muôn tâu bệ hạ, cứ như cái nhẽ nông sâu bệ hạ vừa phân tỏ, thời ý bệ hạ đã muốn dời đô tới tám chín phần rồi. Nhưng bệ hạ cho nói, thần cứ thực bụng tâu bày. Đúng là đất Hoa Lư nhỏ hẹp, đường bộ hiểm trở, đường sông thì ngắn, đường biển phải qua cửa Phúc Thành sóng nước dữ dằn, không năm nào không có tai hoạ. Quả thật đất này chỉ hợp với nước nhỏ, thế yếu phải dựa vào nơi sơn động để thủ thế, để ẩn tránh. Bởi thế việc dời đô là cần, nhưng theo ý thần, ta chưa nên làm vào lúc này. - Vì sao vậy? – Vua hỏi. - Tâu bệ hạ, Lê Ngọa triều tuy hoang dâm và tàn bạo, nhưng công nghiệp của Đại hành[16] hoàng đế lớn lắm. Kể từ nhà Ngô đánh đuổi quân Nam Hán lấy lại nước, đến nhà Đinh dẹp yên loạn thập nhị sứ quân, giang san thu về một mối, làm cho non sông rạng rỡ, rửa được mối nhục mất nước cả ngàn năm. Nhưng thử hỏi không có Đại hành hoàng đế chém tướng giặc Hầu Nhân Bảo trên vùng ải bắc Chi Lăng, đuổi lũ Trần Khâm Tộ, Tôn Toàn Hưng chạy như vịt, bắt bọn Quách Quân Biện, Triệu Phụng Hưng đưa về Hoa Lư cầm tù ra uy với nhà Tống sao có thể giữ yên bờ cõi. Tiến vào nam, cũng chỉ một trận là đạp đổ thành trì, quét sạch vua tôi nước Champa hỗn hào, lập lại kỷ cương, khiến quân kia không dám xâm phạm cõi giới nước ta nữa. Võ công hiển hách ấy, tưởng đến Hán Cao tổ, Đường Thái tông cũng không hơn được. Chỉ tiếc các con của Đại hành không nối được chí cha, làm các điều càn rỡ khiến đế nghiệp tan tành, non sông nghiêng ngả. Ta vừa lấy nước của con cháu người ta, lại xoá sạch cả cơ đồ người ta tạo dựng, e có gì sái với huân nghiệp mà đức Đại hành đã cung hiến cho đất nước chăng? Quan Ngự sử vừa dứt lời, quan Hữu điện tiền chỉ huy sứ Nguyễn Đê bị quan Tả tham tri huých nhẹ vào mạng sườn, ghé tai nói nhỏ: - Ông là người đồng quân ngũ với nhà vua, lại cũng gần gũi với Lê Ngọa triều, ý tứ ông thế nào cứ nói huỵch toẹt ra có được không. Vả lại như vua Bàn Canh nhà Thương, khi ông ta đã quyết dời đô, thì dù cả giới quý tộc có chống lại, ông ta vẫn cứ dời. Và sau đó nhà Thương trở nên cường thịnh suốt hai trăm năm sau không phải dời đô nữa. Thế là Điện tiền chỉ huy sứ bước ra khỏi ban: - Tâu bệ hạ, thưa các đồng liệt, quan ngự sử nói về huân nghiệp của đức Đại hành tỏ sáng như ban ngày, ai mà không kính giữ. Công ấy sẽ được ghi vào sử sách, muôn đời sau không mảy may phai nhạt. Nhưng nói vậy, vẫn là nói theo đạo lý, chứ cứ thực như tôi với đức vua ta đây nắm giữ quân cận vệ, gần gũi hôn quân, thời tôi thấy tội ác của chế độ bạo trị Lê Ngọa triều gieo rắc trong muôn dân, gieo rắc cả trong triều nội, thì đến trời cũng không dung, mà đất cũng không tha được, huống chi lòng người. Cho nên thiên đô là phải. Ngoài cái lợi như bệ hạ đã bày tỏ, tôi còn muốn đi cho khuất mắt, sớm ngày nào hay ngày ấy. Nói xong ông vái nhà vua hai vái, lại quay ra xá các quan một xá. Ai cũng khen ông ta bộc trực mà nho nhã như một bậc văn thần. Lý Công Uẩn lại đảo mắt nhìn xem các quan có ai còn muốn nói. Trong lòng nhà vua vừa mừng vừa lo, thật tình tân quân không muốn làm điều gì thất đức. Nhưng việc ổn định cương thống của một triều đại không thể không làm sớm. Chợt thấy quan Thái phó Đặng Văn Hiếu đang nhấp nhổm, vua bèn vẫy tay cho nói. Hiếu bước ra khỏi ban: - Tâu bệ hạ, đô thành là bộ mặt của một quốc gia. Nước Việt ta hiện đủ mạnh để rời khỏi miền sơn động. Ý của bệ hạ là sáng suốt, tưởng không nên khư khư giữ lấy cái đức nhỏ mà bỏ mất cái đạo lớn của một nước. Nếu để tỏ lòng kính ngưỡng với huân nghiệp của đức Đinh Tiên hoàng và Lê Đại hành, không gì bằng lập đền thờ hai vị ngay tại cung điện này, sau khi triều đại mới đã dời đổi đi nơi khác. Và đặt chức lễ quan cùng một ngàn mẫu ruộng dùng vào việc nối đời thờ tự các vị. Nói xong, quan Thái phó lui về ban ngồi. Các quan đều xem lời quan Thái phó hợp lòng người, thuận theo đạo trời nên không ai bàn bạc gì thêm nữa. Vua Thuận Thiên cũng lấy làm đẹp ý. Thực tình nhà vua không ngờ mọi việc lại êm xuôi, mau lẹ đến thế. Vốn kính trọng Đa Bảo thiền sư, và cũng cho việc dời đô là việc hệ trọng của một triều đại, nên trong cuộc luận bàn có tính xác quyết này, nhà vua cho thỉnh thiền sư đến tham vấn. Từ lúc khai triều tới giờ, thiền sư vẫn an toạ trên chiếc thái sư ỷ mà nhà vua cho kê bên tả chỗ ngài ngồi, tức là chiếc ghế cầu hiền. Thiền sư ngồi kiết già, đôi mắt khép hờ như người thiếp ngủ. Thiền sư vận áo cà sa màu vàng, đầu đội mũ hoa sen, cây thiền trượng dựng cạnh ghế. Gương mặt ngài an nhiên siêu thoát, nom ngài như một đức Phật sống. Nhà vua chợt nhớ hồi còn là một chú tiểu tăng gặp ngài về kiết hạ ở chùa Khai Quốc. Vừa trông thấy, ngài gọi lại gần dạy: - Ta trông người cốt cách tuấn tú phi phàm, mai sau tất sẽ đứng đầu thiên hạ. Lý Công Uẩn cả kinh sụp lạy: - Bạch hoà thượng, đấng thánh minh hiện đang ở ngôi, thiên hạ thái bình, cớ sao đại sư lại dạy bảo những lời diệt tộc như vậy. Hòa thượng mỉm cười đáp: - Mệnh trời đã định, trốn tránh sao được. Nếu quả như nhời bần tăng, mai này xin nhớ đến nhau. Đến đây lời tiên đoán của Đa Bảo thiền sư cũng như của Vạn Hạnh thiền sư đều đã ứng nghiệm. Nhà vua không thể không nhớ đến con mắt nhìn suốt tám cõi của các bậc đại lão thiền sư. Lạ thay, nhà vua vừa dừng ý nghĩ, đại sư mở bừng mắt nhìn mọi người, nhìn vua. Mắt thiền sư phát ra một thứ ánh sáng dịu mát, khiến mọi người đều có chung một cảm giác hoà ái. Vua Thuận Thiên đứng bật dậy vái đại sư hai vái, và nói: - Kính thỉnh đại lão hoà thượng, xin hoà thượng ban cho trẫm đôi lời. Hoà thượng với tay nắm lấy cây thiền trượng ung dung đứng thẳng người dậy, gõ cây thiền trượng xuống nền điện ba lần, đi lại vài bước, chợt dừng trước ghế, vái đáp lễ nhà vua hai vái, ngài nói: - Tâu bệ hạ, việc dời đô cũng như việc thay áo. Áo cũ đã rách vá, lại chật, thì phải may áo mới, có phải không thưa chư vị. Câu nói khôi hài của đại sư khiến mọi người cười ồ. Và vì thế mọi sự trở nên nhẹ nhàng. Sư nói tiếp: – Họ Hồng Bàng từ khi lập nước Văn Lang[17] kế tiếp các đời vua Hùng đều đóng đô ở đất Phong Châu, kể tới hơn hai ngàn sáu trăm năm. Nhưng khi Thục An Dương vương[18] lập ra nhà nước Âu Lạc, lại dời đô về đất Phong Khê tức Cổ Loa thành. Rồi đến Trưng nữ vương[19] đánh đuổi bọn đô hộ nhà Hán, lại thiên đô về Mê Linh. Và đến nhà tiền Lý, nhà Triệu[20] khôi phục đất nước, đóng đô ở Long Biên. Tới khi nhà Ngô[21] đuổi bọn đô hộ nhà Hậu Tấn, lại đem đô về đóng tại Cổ Loa thành. Kíp khi Đinh Bộ Lĩnh[22] dẹp yên mười hai sứ quân, nhất thống sơn hà, đô thành được đưa về Hoa Lư. Khi nhà Lê[23] tiếp nối, đức Đại hành hoàng đế vẫn giữ đất này làm kinh sư và bây giờ, đương kim hoàng thượng có dời đô về Đại La, là miền đất bằng phẳng ở giữa quốc gia, thời cũng là việc đương nhiên như các triều đại trước đã làm. Ngu ý của bần tăng, việc gì mà lợi cho dân cho nước, thì khó mấy cũng nên làm, còn việc gì thiệt dân, hại nước để thu lợi về cho một số người, thì dễ mấy cũng cứ nên bỏ. Nếu nhìn sang láng giềng, thì nhà Ân từ đất Bặc đã chuyển đô tới bốn lần đi nơi khác mà vẫn còn muốn chuyển nữa. Nhà Chu[24] cũng thiên đô từ phía tây về phía đông. Như Chu Công nói: “Tìm đất dựng đài thành ở chỗ giữa thiên hạ, đã là vị vua sáng của dân rồi, còn phải bàn thêm gì nữa”. Huống chi Đại La là thắng địa, là linh địa, phương Bắc thèm rỏ rãi ra mà không nuốt được. Cao Biền đào, khơi biết bao ngòi, hồ những mong đứt long mạch làm cho đất này tuyệt diệt. Thế nhưng âm mưu cơ hiểm của một nhúm người, sao chống lại được mệnh trời. Vậy chứ ta còn gì nữa để bàn? – Nói xong Hoà thượng ngồi xuống ghế, mắt khép hờ. Nom hoà thượng như mơ như thực. Tới đây, vua Thuận Thiên bèn quyết việc dời đô về Đại La. Điều cốt yếu là công việc xây cất, bao giờ hoàn tất, triều đình sẽ dời chuyển. Lại nói về đám cầu siêu cho Ngọa vương Lê Long Đĩnh do hoà thượng Quách Ngang đứng ra lo lễ lạt đàn chay, và đích thân thiền sư làm chủ lễ. Hành vi quảng độ lấy ân trả oán của sư, khiến không chỉ dân chúng đem lòng kính ái, mà ngay giới tu hành, giới quan lại, thế gia cũng suy tôn sư như một vị Bồ tát tại thế[25]. Mặc dù kính trọng thiền sư Quách Ngang, song không vì thế mà dân chúng kinh thành Hoa Lư có thể tha thứ cho Ngọa vương Lê Long Đĩnh. Bởi vậy đám cầu siêu vắng ngắt. Ngoài vài chục nhà sư chay đàn, với ít chú tiểu tăng dùng vào việc sai vặt, dân chúng tịnh không một người lai vãng tới chốn đàn chay. Ngay những người hành khất cũng không thèm tới lấy đồ bố thí. Dân chúng cho đây cũng là một sự lạ chưa từng thấy. Thiền sư Quách Ngang biết nghiệp căn của Lê Long Đĩnh quá nặng. Nhà vua đã gây biết bao tội ác, vì vậy việc trì tụng phải kéo tới bảy ngày đêm. Lễ cầu siêu cho Ngọa vương vừa dứt, chợt có người nhớ ra từ lâu không gặp lão thi nhân (mà dân chúng thường gọi là “ông đồ gàn”) Phạm Tổ Thu ở đâu cả. Bỗng ai đó nói, nhà thơ bị tống giam từ cách đây hai tháng. Thật ra thì suốt đời ông là một kiếp lưu đày. Ông sống trong triều đình của Lê Long Đĩnh như sống giữa một bầy hổ, mà con hổ thọt ác hiểm nhất lại chính là nhà vua. Mọi người đổ xô về phía các chuồng nuôi nhốt ác thú để tìm nhà thơ. Nhưng các chuồng cũi nhốt ác thú để hành hình tội nhân đã được vua Thuận Thiên sai tháo cũi, sổ chuồng cho chúng về lại chốn sơn lâm ngay từ bữa ngài mới đăng quang. Bởi vậy, chỉ còn trơ lại những dãy chuồng rỗng không. Biết thế, nhưng mọi người vẫn cứ ngơ ngác kiếm tìm. Chợt có ai đó reo lên: - Đây kia còn một chuồng nữa. Đó là một gian chuồng nằm khuất lấp vì có mỏm núi nhô ra che chắn. Gian chuồng nhốt những con khỉ đít đỏ to cao ngang với thân người. Trong thoáng lát, mọi người đã kéo đến vây kín gian chuồng khỉ. Chỉ thuần khỉ là khỉ, không hề thấy bóng dáng nhà thơ. Những con khỉ đột, lông lá bù xù, quần tụ nhau ở một góc chuồng. Đây là gian chuồng thú bỏ sót, không có ai phá cửa cho chúng ra. Và cũng chẳng có ai cho chúng ăn uống gì. Vì sao chúng còn sống được tới nay, kể cũng là một sự lạ nữa. Ai nấy đang bàn tán, chắc nhà thơ bị nhốt chung vào chuồng hổ, báo nên bị chúng ăn thịt lâu rồi. Trời không có gió mà các ngọn cây rung động ào ào. Mọi người ngước nhìn, thấy cơ man nào là khỉ ở trên đỉnh các lùm cây. Và chúng trút xuống gian chuồng khỉ những trái cây đỏ mọng, những bắp ngô vàng ươm, những củ khoai, những bông lúa… Các thứ củ, quả, hoa trái làm đồ ăn do bọn chúng trút xuống, rơi bắn tứ tung cả vào đầu vào mặt những người đứng vây quanh chuồng khỉ, khiến họ phải chạy dạt ra để bọn khỉ tiếp lương nuôi nhau. Những con khỉ đang ngồi buồn ủ rũ túm tụm vào nhau kia, chạy ùa đi tranh thức ăn, để lộ ra hình một mô đất cao, nom từa tựa một nấm mồ. Tới lúc này mọi người mới vỡ lẽ vì sao bầy khỉ bị nhốt chuồng, không có ai chăm sóc, cho ăn cho uống mà chúng vẫn sống được. Thì ra khỉ cũng là một loài vật có tình thương đồng loại. Bỗng có ai đó lấy con dao quắm chặt vào những sợi mây song khoá buộc cổng. Cánh cổng mở bung ra. Nhưng không một con khỉ nào chịu rời đàn để về lại chốn sơn lâm. Thấy vậy, mọi người hò la, ném đất, ném cây que vào chuồng, nhằm đuổi đàn khỉ ra phía cổng đã mở toang. Nhưng chúng chống trả quyết liệt. Chúng cũng lượm đất, lượm đá ném lại đoàn người. Mãi sau mọi người lấy củi đốt xung quanh khu chuồng trại, chỉ chừa lối cổng ra vào. Thấy lửa, đàn khỉ hoảng sợ, kêu thét chí choé, chạy lung tung, và cuối cùng thì cả đàn cũng ào chạy vào rừng như một đàn ong bốc bay vì mất ong chúa. Đoàn người ùa vào trong lồng trại, trước họ là một gò đất do mối đùn nom giống hình một người nằm ngửa, chân co chân duỗi. Ai nấy đều cho là một sự lạ, đang cố đoán xem đấy là điềm gì. Và có cái gì nằm trong gò mối này. Đang chưa hết ngạc nhiên thì ai nấy đều nhận ra, gò mối đang mỗi lúc một dâng cao, cao tới quá đầu, khiến người đứng bên này không nhìn thấy người đứng bên kia gò nữa. Mọi người hoảng hốt toan bỏ chạy, thì thấy chú hề cũ của Lê Ngọa triều từ đâu chạy xộc vào, tay cầm một bó hương đang bốc cháy đùng đùng. Chú hề vừa cắm bó hương vào gò mối vừa nói: “Hãy dừng lại, ông đồ gàn!”. Một sự kì lạ nữa lại xảy ra trước mắt mọi người. Tức là khi lời nói của chú hề vừa dứt thì gò mối thôi không đùn lên nữa. Chú hề miệng méo xệch, nước mắt chảy ròng ròng khấn: “Ông đồ gàn Phạm Tổ Thu sống dại chết thiêng, chứng giám cho tấm lòng thành của thằng bạn hề này, trước sau vẫn tôn kính ông như một bậc thánh, như một người bạn vong niên…” – Lời khấn lầm rầm mỗi lúc mỗi nhỏ đi không còn nghe được nữa. Khi chú hề vừa dừng lời, mọi người hỏi ngay: - Cứ theo như nhời chú khấn thì gò mối này chính là ngôi mộ của lão thi nhân Phạm Tổ Thu? - Phải! – Chú hề xác nhận. - Sao lại là như vậy, xin chú nói cho rõ ngọn ngành? – Một người hỏi. Chú hề nắn lại cho xô lệch vuông khăn đội đầu, sửa lại cho xộc xệch thêm hàng khuy áo, rồi nói với giọng điệu nghiêm trang không có vẻ hề một chút nào. - Hề tôi làm trò suốt đêm, ngày cũng không đủ cho cố hoàng thượng giải khuây. Vì thế, nhà vua cho vời lão thi nhân Phạm Tổ Thu đây, mà dân thường gọi yêu ông là “ông đồ gàn” vào cung, để đọc thơ cho vua nghe. Có khi còn làm thơ theo ý muốn của vua. Hoặc vua chỉ vào các đồ vật ra đề, bắt lão thi nhân phải vịnh thơ. Hoặc nhặt đâu được vế câu đối, bắt lão thi nhân phải đối. Thật ra nhà thơ được vời vào cung cấm, cũng tựa như ông bị trói buộc, giam cầm. Hề tôi bèn hỏi: “Có phải lão thi nhân coi việc ở triều như ở tù không?” Ông cười khẩy đáp: “Cả cái xã hội này là một nhà tù vĩ đại. Vả lại lòng ta đã thành nhà tù rồi. Nhà tù trong lòng đã không xoá được thì thân ta ở đâu mà chẳng như ở tù”. Lại một hôm vua chỉ vào chiếc lu đựng rượu, rồi hất hàm bảo lão thi nhân: - Mày vịnh cái này tao xem. Nhà thơ ứng khẩu đọc luôn: Cái lu mày dở quá chừng, Bụng to mồm bé ăn dưng ở rồi. Bao nhiêu của cải trên đời, Mình mày nuốt sạch dân thời đói so. Vua vỗ đùi đen đét khen: “Hay chả là hay!”. Nhưng rồi tên hề nịnh, vít cổ vua xuống nói thầm: “Lão thi nhân xỏ xiên nhà vua đấy. Nó ám chỉ vua ăn hết của dân. Thế mà không trị tội lại còn khen hay”. Lập tức nhà vua đập long án quát: - Lôi cổ nó ra đánh một trăm trượng. Các quan xúm vào khuyên can không được. Nhà thơ xin được nói, vua không cho. Nhưng ngài cho đổi hình phạt. Tức là sai lột hết quần áo rồi lấy bàn chông sắt chà khắp người. Đau quá, nhà thơ la hét, rồi réo gọi tên bố vua ra chửi. Vua thích chí cười sằng sặc. Lại sai chà xát thật đau cho nhà thơ luôn miệng chửi bố mình. Trò chơi man rợ ấy kéo dài mãi rồi vua cũng chán, cũng mệt. Vua sai đem nhốt lão thi nhân vào chuồng hổ. Bữa ấy bọn lính hổ bôn được vua cho uống say, nhẽ ra chúng phải nhốt nhà thơ vào chuồng hổ, thì chúng lại nhốt nhầm ông vào chuồng khỉ. Nói đến đây, chú hề liền thả ra một điệu cười hích hích. Rồi lại ôm mặt khóc hu hu. Một lát chú nói tiếp: – Hề tôi vốn phục tài lão thi nhân. Bởi chỉ có lão thi nhân mới dám chửi thẳng vào mặt vua bằng những vần thơ hóc hiểm như thế. Thật ra, vua của tôi ngu lắm, có biết biện biệt hay dở thế nào đâu mà khen chê thưởng phạt, nếu không có mấy tên cận thần khuyển mã nịnh hót mách bảo cho. Thương tình cùng là cánh áo ngắn, đi hầu hạ chốn cung đình, chẳng may mắc nạn, tôi bèn tìm đến mấy dãy chuồng hổ, thử xem có còn sót lại chiếc xương nào thì lượm về mai táng cho bác ấy. Nhưng chẳng thấy một dấu vết gì. Tôi thầm nghĩ: “Thế là nó ăn hết cả xương rồi”. Tôi vừa khóc vừa đi lang thang về phía này. Bỗng nghe văng vẳng tiếng người ngâm thơ. Giọng giống hệt giọng “ông đồ gàn”. Thế là tôi chạy như bay như biến lại phía chuồng khỉ này. Cảnh tượng diễn ra thật lạ lùng. “Ông đồ gàn” ngồi vắt vẻo giữa chạc cây trong gian chuồng, cao giọng đọc thơ. Còn lũ khỉ ngồi tất cả dưới mặt đất như một lũ học trò ngoan ngoãn nghe thầy giảng kinh sách thánh hiền. Nhiều con nước mắt chảy hoen đầy mặt. Chắc là chúng nó xúc động bởi lời thơ. Chú hề ghìm trong họng một tiếng thở dài. Ngừng một lát, hề lại nói: – Lạ thật, đến lũ khỉ còn cảm nhận được cái hay của thơ “ông đồ gàn”, thế mà đức vua của tôi thì không chịu nổi, lại giết ông cũng bởi các vần thơ ấy. Tôi cứ đứng nghe mãi tới khi đàn khỉ đánh hơi thấy người lạ, chúng chạy dạt về một phía, khiến lão thi nhân nhìn thấy tôi. Ông mừng quá, reo lên: - Chú hề, chú đến đây làm gì vậy? - Tôi đi tìm bác. Vẫn nghĩ bác bị hổ ăn thịt rồi. - Khốn nạn thân tôi, lũ lính say rượu dẫn tôi vào đây chứ không tống tôi vào chuồng cọp, nên lại phải sống. - Thế lũ khỉ có làm phiền gì bác không? - Lúc đầu thì có đấy. Mấy con khỉ đực đầu đàn xúm vào nạt nộ. Tôi mặc kệ chẳng thèm nói gì, chỉ cất giọng ngâm thơ. Không ngờ khi nghe thơ, mặt chúng dịu lại, rồi chúng nằm phủ phục ngay dưới chân tôi. Những con khác cũng ngoan ngoãn kéo nhau đến nằm kề. Nghe nhà thơ nói chú hề cười ngặt cười ngoẹo: - Thế thì tôi cam đoan với bác, cụ tổ của loài khỉ này nhất định phải là một đại thi hào. Người đứng trong chuồng kẻ ngoài chuồng nói chuyện mãi. Tôi thấy gương mặt lão gợn lên niềm vui sướng, mà những năm tháng sống trong triều đình, chưa bao giờ lão có niềm vui ấy. Chú hề lúc lắc cái đầu, nói tiếp: – Hôm sau tôi đến thì thấy lũ khỉ trên rừng kéo nhau về nghe lão thi nhân ngâm thơ, bu kín cả gian chuồng. Vừa thấy tôi, cả bọn tức giận, chúng xô đuổi tôi chạy bán sống bán chết. Sợ quá, hôm sau tôi không đến nữa. Qua mấy ngày được biết lũ lính hổ bôn đã tìm ra ông, định đem ông vứt sang chuồng hổ. Nhưng lũ khỉ xúm vào cắn xé đám lính để cứu nhà thơ. Bọn lính tức giận rút gươm chém chết nhà thơ, rồi bỏ đi. Chắc là lũ khỉ lôi ông về đặt nằm trên doi đất này. May ông chết gặp giờ linh, nên quan thổ thần sai âm binh đắp mả cho ông, mà người trần ta quen gọi là mối xông. Sau này dân chúng Hoa Lư thương quý ông, đem đá xếp bao quanh gò mối ở chân núi Mã Yên. Các nhà gom góp gạch ngói đem đến xây ngôi miếu trước gò thờ ông. Mấy người có chữ nghĩa bàn nhau nên đặt tên miếu như thế nào. Người bảo nên đặt là “Trung liệt miếu”, với cớ rằng lão thi nhân Phạm Tổ Thu xứng đáng đứng vào hàng những người trung liệt. Người khác lại bác ngay, bởi nhà thơ đâu phải đứa ngu trung. Lập tức có người bảo thế thì phải đặt là “Văn Thánh linh miếu”… Nhiều tên lắm, tên nào hề tôi nghe cũng thấy hay cả. Chợt có người như sực nhớ ra bèn nói: “Phải nên tránh cái tên “văn”, tên “thơ” vì sinh thời Lê Ngọa triều vốn ghét loại người này lắm. Nhỡ tái kiếp, ông ta lại đập miếu nhà thơ mất. Chi bằng ta cứ lấy một cái tên dung dị như “Thổ thần linh miếu” chẳng hạn. Vả lại, đây chỉ là một ngôi miếu nhỏ cho người đời hương khói, chứ nhà thơ có bao giờ sống nơi đền miếu”. Ai nấy đều cho là phải, vì chẳng biết thời thế đổi thay thế nào. Kể xong, chú hề lấy tay áo chùi nước mắt. Mọi người hỏi: - Bây giờ hề có được vào điện hầu vua mới nữa không? - Không. Đức Thuận Thiên bảo triều đình là chốn trang nghiêm, là nơi bàn quốc sự, không thể để cho hề tôi vào đấy nói leo, pha trò nhại các quan như thời vua Ngọa triều được. Nhà vua đã cắt đất, lại phong tước lộc và ban cho tôi ba chữ “HOAN LẠC NHÂN”, chắc vua bảo tôi là kẻ suốt đời vui vẻ, nay mai tôi phải về quê quán. Chợt hề buông một tiếng thở dài: – Chỉ tiếc không được ở lại với lão thi nhân cùng ngôi miếu này.