Q1 Chương 04.
Đêm tịch mịch, khí núi xông vào tận long sàng, khiến vua Thuận Thiên vừa chợp mắt đã lại tỉnh giấc. Tấm chăn độn lông chim nhẹ bẫng đã tụt xuống cuối giường. Nhà vua không kéo chăn đắp mà ngồi nhỏm dậy. Ngài tĩnh toạ giữa long sàng, tựa như khi ngồi kiết già hồi còn là một sa môn theo học thiền sư Vạn Hạnh nơi chùa Lục Tổ. Nhà vua nghe rõ từng hơi thở của mình, nghe rõ cả tiếng thì thầm của rừng cây ngay sát dưới chân hoàng thành. Tiếng mang tác rõ mồn một. Tiếng từng đàn lợn rừng chạy ào ào rung chuyển cả rừng cây, vách núi. Loáng đã bặt vắng, chỉ còn tiếng côn trùng rỉ rả như tiếng ti, tiếng trúc thoảng vương từ đâu đó. Đêm tĩnh lặng khiến nhà vua có cảm giác mơ hồ, như ngài đang sống trong một thế giới hư ảo, nơi tầng trời Đâu suất của ba ngàn Thế giới Phật. Phải tới mấy giây sau nhà vua mới nhớ lại buổi thiết triều sớm nay. Những tưởng vẫn còn những cựu thần nhà Lê, vì lòng luyến nhớ chủ cũ, không muốn rời khỏi nơi sơn động này. Ai ngờ việc lại sớm êm thuận. Có đúng mọi người cũng thấy ở đây là bất tiện cho một quốc gia đang trong vận hội mở mang; hay vì các quan ngại ta, sợ oai ta nên cũng dâng lời tán dương cho qua chuyện. Rồi họ lại ngấm ngầm phản bác lại ta. Nhà vua tự hỏi. Và tự trả lời: – Ta đã dò thăm ý tứ từng người, sâu nông đều có cả, rồi mới bày tỏ sự lợi hại của việc dời đô qua mấy buổi thiết triều cho các quan bàn bạc. Nói cho đúng thì cung điện Hoa Lư không phải là không đẹp. Bách Bảo Thiên Tuế là điện coi chầu, đức Lê Đại hành cho dựng rất nguy nga, các cột đều dát vàng dát bạc rực rỡ, thềm cao chín bậc lát đá huyền. Mái điện lợp ngói hoàng lưu ly. Rồi các điện Phong Lưu, điện Tử Hoa, điện Bồng Lai, điện Cực Lạc, lầu Đại Vân… Điện, lầu nào cũng lộng lẫy không kém điện Bách Bảo Thiên Tuế. Nhất là điện Trường Xuân – nơi Lê Đại hành ngủ nghỉ thì cột dát bằng vàng, ngói lợp bằng bạc. Cách ăn ở này đã đạt tới tột cùng của sự xa hoa. Nay phải rời bỏ những cung điện, những lầu các đình tạ như thế này, sao ta không tiếc. Nhưng không thể không rời bỏ chúng. Vả lại, tâm nguyện của bá quan và trăm họ khi tôn ta lên ngôi cửu ngũ là mong ta đem lại cho dân, cho nước sự an lạc và giàu thịnh, chớ đâu họ có ý đặt ta vào ngôi vị ấy để ta thụ hưởng dục lạc.
Mặc dù nhiều cung điện sang quý, nhưng Hoa Lư cũng chỉ là nơi xó rừng, góc núi, không thể là bộ mặt của một quốc gia. Dời đô, việc lớn đó coi như đã tạm yên. Cái còn lại trong lúc này là công việc của đám thợ sơn tràng, thợ mộc, thợ chạm, thợ hồ, thợ sơn vẽ… Tất cả đều phải gấp gáp nhưng lại phải làm đúng như bản hoạ mà thiền sư Vạn Hạnh đã dụng công bày xếp theo Thái cực đồ. Mặc dù từ lâu Đại La đã là một lỵ sở, một đô thị, nhưng để trở thành quốc đô thì còn phải sắp xếp lại, phải xây cất thêm nhiều lắm. Vì vậy, từ mấy tháng nay ta đã cho xây đắp hoàng thành, xây cất các nơi đồn đóng quân cơ, các kho tích chứa quân lương, khí giới. Các đường đi lối lại, một phần làm mới, nhưng chủ yếu là ta sửa và mở rộng đường cũ sao cho xe song mã, xe tứ mã có thể tránh nhau, cho kiệu có thể quay đòn không vướng mắc. Và hệ thống đường thuỷ như kênh lạch nối từ trong thành ra hồ Dâm Đàm, ra sông Tô Lịch, sông Cái để thuyền bè ra vào được thuận tiện. Các việc bây giờ phải dồn sức vào là dựng điện thiết triều, nhà thái miếu[26], điện chí kính[27], điện kính thiên[28] cùng các cung thất. Trù liệu việc dời đô xong, nhà vua nhẩm tính các việc phải làm tiếp để phân phái về cho các đài, sảnh, viện. Chẳng hạn như việc cấp phát tiền gạo cho dân lưu tán dưới thời Lê Ngọa triều trở về quê cũ làm ăn. Đành rằng ngân khố, quốc khố đều trống rỗng, ta đã có chiếu kêu gọi các nhà hào phú cho vay và họ đã ứng hợp ngoài sự mong đợi của ta. Cái chính lúc này là phải kiểm xét sự cấp phát gạo tiền đó có đến tay người dân không, hay vẫn bị bọn nha lại, bọn hào lý ăn chặn như ở thể chế cũ. Lại nữa để cho dân khỏi thiếu đói, thời phải khích lệ dân chúng khai khẩn đất hoang hoá, bãi bồi. Ai khai khẩn được bao nhiêu, cho giữ làm tư điền, lại miễn thuế từ ba đến năm năm, gặp chỗ khó khăn gai góc hoặc đất bạc màu thì miễn thuế từ bảy đến mười năm. Rồi những người quan, quả cô đơn thì ai cứu giúp, ai nuôi nấng? Chẳng nhẽ triều đình bỏ mặc họ đói rét, lang thang cơ cực lúc tuổi già, khi đau yếu? Lại việc học hành của con cái các nhà lương dân thì ai dạy, và chúng học ở đâu? Nhẽ nào triều đại mới không làm được việc gì để người dân nhìn thấy và sờ thấy được ư? Nhà Lý hay nhà Lê đối với người dân, rốt cuộc vẫn chỉ là miếng cơm manh áo. Tất cả các việc đó cùng với việc triều đình tha tô thuế trong ba năm liền, kể từ năm Canh Tuất (1010) này, nhà vua đã trao cho Trung thư sảnh thảo chiếu và đã bố cáo cho toàn thiên hạ biết chính sách mới của triều đình. Không những thế, nhà vua còn băn khoăn về bộ máy của triều đình, nhất là các xã quan, đôi khi cả quan châu, quan lộ nhiều người còn chưa biết chữ, sổ sách xuất nhập là những cuộn dây thừng với các nút buộc thắt khác nhau. Vì vậy phải đẩy nhanh việc học thời mới có người có học vấn tham gia vào bộ máy cai trị quốc gia. Nhà vua chợt nhớ bữa gặp thiền sư Vạn Hạnh gần đây, thầy lại răn: “Nhà vua hãy sẻn kiệm việc ban phát cho dân chúng các lời hay ý đẹp, mà họ thường coi như các đồ xa xỉ, không dùng vào việc gì được đâu. Hãy gắng lo cho họ những cái nhỏ nhất nhưng họ cần trong cuộc sống hàng ngày”. Và nữa, việc giáo hoá chính các con ta, sao cho chúng giữ được cái tâm thiện, giữ được bản tính cần cù, kiệm ước, không vì được ở chốn quyền môn mà tác yêu tác quái, coi dân như cỏ rác. Hoặc giả kéo bè kết cánh với đám con cái nhà thế gia vọng tộc, mà phè phỡn, đàng điếm. Ta được quần thần cảm mến, người trong nước yêu trọng mà cho ở ngôi cao. Thật là đại phúc. Nhưng biết đâu cái hoạ chẳng đang rình rập ta từng bước. Ta không biết làm gì để chống lại các điều bất hạnh, cũng chẳng có pháp thuật gì để giữ mình ngoài các việc lo cho dân, cho nước để dân no ấm và họ tự giữ lấy nhà, giữ lấy nước. Ngoài việc giáo hoá nghiệp thiện cho dân và hoằng dương Phật pháp, để dân giữ Đạo, ta chẳng biết làm gì hơn nữa. Nhà vua đang miên viễn với những suy tư chất chứa, thì từ đâu đó ném ra một tiếng gáy gà rừng, rồi lũ gà nhà khắp kinh thành eo óc gáy theo. Đêm tĩnh lặng, tiếng gà gáy như tiếng nhạc cầm canh. Tiếng gà gáy, như gợi lại ký ức nhà vua những năm thơ trẻ trong tuổi hàn vi, nơi chùa Kiến Sơ, rồi chùa Lục Tổ. Khổ làm, khổ học lúc nào cũng bận mải với công việc cấy cày đồng áng, lúc nào cũng cặp kè quyển sách lời kinh. Rồi những năm mất mùa đói kém, thầy trò suốt ngày lần mò trong rừng báng. Hết củ báng lại đến củ mài, vừa ăn cầm hơi, vừa cứu dân tứ tán. Khá khen cho thầy ta – đức Vạn Hạnh đã không tiếc công tiếc sức rèn dạy ta đến chỗ rốt ráo của Đạo. Ngoài giáo lý Phật, thầy còn cho ta tham bác kỹ càng kinh sách của Nho gia[29], Đạo gia[30]. Các sách về y lý, về thuật số, về phong thuỷ, thầy cũng sai đọc. Thầy luôn kiểm xét cách nghĩ cách hiểu của ta. Khi lớn, ra gánh vác việc đời, việc nước, thầy lại kiểm xét cách tri, cách hành của ta. Khuôn thước đo lường của thầy là biết biện biệt phải quấy, thiện ác, là phá chấp, là đại giác, là giải thoát. Mãi gần sáng nhà vua mới chợp mắt được một lúc, thì trà nô đã dâng nước rồi nội hoả thực lại dâng đồ điểm tâm. Bữa nay nhà vua không ra thiết triều mà ngài sai đòi các hoàng tử vào cung để răn dạy. Năm hoàng tử thong dong đi vào cùng với năm ông sư phó. Nhà vua miễn lễ cho các thầy trò và cho ngồi quây quần trên hai bộ kỷ. Vua Thuận Thiên có nhiều con, chỉ tính riêng con gái đã có tới mười ba người. Trưởng công chúa là An Quốc vừa gả cho Đào Cam Mộc, để đáp cái ơn tri ngộ. Trưởng nam của nhà vua là Lý Đức Chính sinh năm Canh Tí, nay là năm Canh Tuất vừa tròn mười tuổi. Cả năm hoàng tử, nhà vua chưa chọn lập ai bởi tuổi còn nhỏ, và nữa cũng chưa có ai tỏ lộ một khiếu năng gì khác lạ. Riêng về phần Lý Đức Chính thì nhà vua rất bằng lòng, vì chàng có đầu óc thông tuệ, học đâu nhớ đó, lại biết biện biệt nông sâu. Chàng ưa phần thâm sâu nhất trong Phật điển, mà đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni đã chỉ ra là phần giải thoát. Thật ra Lý Đức Chính hiểu được giáo lý Phật là nhờ ở tâm cảm, trực cảm hơn là lĩnh hội qua lý trí. Bởi với mười tuổi đời làm sao chàng có thể thấu hiểu được những điều sâu xa trong các kinh điển nhà Phật. Nhà vua yêu quý Đức Chính cũng bởi tính hồn nhiên, nhân hậu của con trai, ngài muốn sau này hoàng tử sẽ là một đệ tử thuần thành của Phật để cùng giáo hội hoằng dương Phật pháp. Khi cả năm ông sư phó và năm hoàng tử đã an toạ, nhà vua liền phán: - Ta trao con ta cho các ông dạy dỗ. Việc học nho là học chữ để vào học Phật, chứ không phải cho các con ta chuyên chú vào Tứ thư[31], Ngũ kinh[32]. Đành rằng rồi cũng học Nho, nhưng phải khai tâm bằng học Phật để nuôi dưỡng nguồn tâm. Các vị sư phó đều chăm chú lắng nghe, để rồi việc hầu giảng các hoàng tử được đúng như lời răn dạy của nhà vua. Một lát hoàng thượng nói tiếp: - Các ông sư phó nên biết, việc giáo huấn con trẻ chủ ở sự nuôi dưỡng nguồn tâm. Cái tâm của con trẻ trong trắng như tờ giấy, như tấm vải mộc. Viết hoặc vẽ gì lên giấy, nhuộm màu gì lên vải là tuỳ thuộc ở người thầy. Con ta có nên người hay không là ở nơi các ông. Nếu các con ta nên người, công các ông lớn lắm. Nếu các con ta không thành người, tội các ông cũng lớn lắm. Các ông là những người học rộng hẳn đã rõ: Phàm làm người là phải biết kính cẩn, tức là phải biết lễ nghĩa đó. Phàm làm người đều phải biết liêm sỉ. Người biết liêm sỉ thì không làm các việc trái với đạo lý, trái với lương tâm. Kẻ nào đã không biết liêm sỉ cũng không đủ tư cách làm người. Phàm làm người đều phải biết cần lao. Kẻ nào không biết cần lao chỉ là vật ăn bám, sống nhờ như loài tầm gửi, sao có thể gọi là người được. Vậy là Kính cẩn – Liêm sỉ – Cần lao, thiếu một trong ba điều đó không đủ tư cách làm người. Đối với một con người, đức thiện và lòng nhân là điều căn cốt nhất, các ông phải lưu tâm truyền dạy cho các con ta. Các ông phải ăn ở, cư xử như những điều các ông từng rao giảng. Nếu thầy dạy một đằng, thầy cư xử một nẻo thì các con ta sẽ có cách sống giả dối, che đậy. Phải nói kỹ để các ông biết vì sao ta phải hướng toàn xã hội đi vào con đường thiện, là bởi nước ta từ khi Ngô vương Quyền lấy được nước, chưa kịp yên vị thì ngài đã băng, các con thì còn nhỏ. Dương Tam Kha tiếm quyền làm cho triều chính rối nát dẫn đến loạn Mười hai sứ quân. Sau đó nhà Đinh lập, tiếp đến nhà Lê, rồi quân Tống xâm lăng bờ cõi. Lê Hoàn đại định, con nối là Lê Long Đĩnh bạo tàn. Vậy là trong bảy chục năm qua, nước ta trải hai cuộc xâm lăng, một cuộc nội chiến cùng một quỷ vương tàn phá. Lòng người quen với máu lửa, bạo tàn. Nay ta phải hoá giải tội đồ đó cho toàn dân, bằng cách dấy lên đức thiện, vun đắp nghiệp thiện. Ta đã nghĩ suy tới cạn nhẽ, muốn làm được việc đó, không gì bằng hoằng dương Phật pháp. Các con ta trước khi được giữ quyền bính, phải là các sa môn nơi cửa Phật. Nay mai khi chúng đã cứng cáp, đã biết ít nhiều chữ nghĩa, ta sẽ gửi cho các thiền sư giáo hóa. Ở đây, con ta cũng như các sa môn khác: “bất tác bất thực”[33]. Các ông sư phó hiểu chứ, ta muốn cả thiên hạ học điều thiện, làm việc thiện. Vậy trước hết ta phải làm điều đó, các con ta phải làm điều đó. Nếu các ông làm sai nhời ta uỷ thác, chắc các ông hiểu sự thể sẽ như thế nào. Nhà vua ngừng lời rồi gạn hỏi: - Nào bây giờ các ông có điều gì cần bàn thảo, thử nói ta nghe. Một vị cao tuổi nhất trong năm vị sư phó đưa tay sửa khăn áo rồi xin nói: - Tâu bệ hạ. Các điều bệ hạ răn dạy như lời của các bậc thánh nhân, lời của các vị Bồ tát, chúng thần xin gắng hoàn thành trách phận. Vua bằng lòng lắm. Ngài tươi cười nhìn các bậc sư phó, rồi nói với các hoàng tử: - Các con! Nghe vua cha gọi, cả năm vị hoàng tử bước ra khỏi chỗ, quỳ gối lắng nghe. Vua nói: - Ta đã uỷ thác các con cho các vị sư phó, vậy nhất nhất các con phải tuân lời thầy học. Nay mai học khá, ta sẽ gởi mỗi con tới một bậc thiền giả cao minh để tu học. Và cứ hễ đến tuổi mười lăm, ta cho các con về các vùng quê mở phủ, để có cơ hội gần dân. Các hoàng tử dập đầu thưa: - Chúng con xin vâng mệnh phụ hoàng. Vừa tiễn các ông sư phó, thì cũng đúng lúc thiền sư Đa Bảo tới cáo từ nhà vua, để trở về sơn tự. Thiền sư huơ cây thiền trượng xá nhà vua một xá, sư nói: - Chúc nhà vua thành tựu viên mãn, thiền lão tôi xin bái biệt. Vua Thuận Thiên nài nỉ tới hai ba lần, mời thiền sư nán lại để nhà vua xin đôi lời răn bảo, thiền sư mới tạm ghé ngồi bên mép kỷ. Vua mở lời: - Bữa trước Công Uẩn tôi có mời thiền lão dự buổi thiết triều, thiền lão đã có lời chỉ dẫn. Song chắc còn nhiều điều sâu kín mà bậc trưởng lão muốn răn dạy, nhưng không tiện nói nơi triều chính. Vậy bữa nay tôi muốn lưu trưởng lão lại để được nghe cao ý. Đa Bảo thiền sư nhìn lại sắc diện nhà vua một lần nữa, lại nhìn vào cây thiền trượng, sư cười. Nụ cười tươi rói, gương mặt phúc hậu, nom Thiền sư có nét hao hao Phật Di Lặc, là người tu theo hỉ đạo. Sư nói: - Bậc thiên tử ở ngôi cửu ngũ, đứng đầu trăm họ, tâm sáng vằng vặc, lũ thiền tăng chúng tôi ở nơi xó rừng vách núi như ếch ngồi đáy giếng, biết gì mà dám lạm bàn, lỡ trái ý bề trên thì vong mạng. Xin bệ hạ tha cho để bần tăng sớm trở lại chốn sơn môn. Bữa trước bệ hạ cho triệu, lại được bệ hạ cho nói, lão tăng đã nói cả rồi. Ngừng lời, Đa Bảo thiền sư lại gõ đầu cây thiền trượng xuống đất ba lần như lấy đà đứng dậy sắp đi. Nghe những lời nói khách khí, xa vời của đại lão hoà thượng, nhà vua cảm thấy buốt nhói ở trong lòng. Vua tự nghĩ, ta mới ở ngôi được vài tháng. Vậy ta đã làm gì để cho các bậc trí giả, các bậc thức giả, các thiền giả, đạo giả xa lìa, lạnh nhạt. Các bậc thiền lão còn như vậy, thế thì dân chúng với ta sẽ là nghìn trùng cách biệt. Ta là vua của ai đây? Liệu dân có hiểu ta hay cũng coi ta với Lê Ngọa triều đều là một lũ hôn quân. Lòng đầy bối rối, nhà vua nói: - Xin đại lão thiền giả hãy coi Công Uẩn này như một đứa tiểu tăng như hồi còn theo hầu sư phụ Vạn Hạnh bên chùa Lục Tổ để ngài răn dạy. - Không dám! Không dám! Bệ hạ nói sai rồi. - Công Uẩn tôi nhờ hồng phúc của nước, được triều thần tôn phù đứng đầu trăm họ. Biết rằng tài đức chẳng bằng ai, nên trong lòng lúc nào cũng run sợ như người sắp nhảy xuống vực sâu. Tôi trộm nghĩ, đại lão thiền sư là người có con mắt tinh đời, đã đoán biết sự việc ngày nay từ ba mươi năm về trước, tôi tự xem hoà thượng với thầy tôi là hai bậc minh sư thấu thị, hai bậc thầy tri âm tri kỷ, xin một lần nữa bái làm thầy, để được khai thị. Nói rồi Lý Công Uẩn quỳ xuống vái Đa Bảo thiền sư hai vái. Thiền sư vội vàng đỡ nhà vua dậy, giọng nghiêm nghị, ngài nói: - Dù khiêm nhường nhà vua cũng không được làm như vậy. Bệ hạ muốn hãm thiền lão tôi vào tội khi quân sao? Bệ hạ nên nhớ, bần tăng khi trước so với chú tiểu chùa Lục Tổ là cách nhau một trời một vực. Lại như ngày nay, bệ hạ so với bần tăng cũng là một trời một vực. Sự thể đã khác hẳn xưa rồi, ngôi bậc đã đổi thay rồi. Nói vậy nhưng trong lòng lão tăng hơi hối. Không phải thiền sư không tin vào sự thành thật của nhà vua, mà bởi người muốn gạn thử lòng vua đôi chút. Đoạn thiền sư đắn đo: - Tâu bệ hạ, có một điều nếu bần tăng không nói ra e mắc lỗi với bệ hạ, nhưng nói ra sợ lại mắc tội với bệ hạ. - Mong đại lão thiền sư phát tâm Bồ đề, chỉ giáo cho, Công Uẩn tôi xin sửa mình lắng nghe. - Triều đại mới của bệ hạ các chức quan đều có cả. Nhưng sao bần tăng thấy số quan võ được cất nhắc nhiều hơn quan văn. Chắc bệ hạ đề phòng nội loạn chăng? Chức sử quan cũng chưa thấy cắt đặt. Một nước có văn hiến không thể không chăm lo đến quốc sử. Điều bần tăng băn khoăn nhất là bên Ngự sử đài, các chức quan Tả Hữu gián nghị cũng chưa thấy bệ hạ trao cho ai. Hay là bệ hạ tự tin mình đã đạt tới cõi minh triết rồi, không bao giờ có thể phạm vào điều sai quấy, nên không cần có ai can gián. Lão tăng thành thật khuyên bệ hạ không nên bỏ chức quan này. Tuy đôi lúc nó có làm cho bệ hạ khó chịu. Nếu bệ hạ muốn dân giàu nước thịnh, thì bệ hạ phải luôn luôn giữ cho mình được tỉnh táo, thông sáng. Chính các chức quan này sẽ giúp bệ hạ thắp sáng con mắt tuệ, cái tâm tuệ. Nhược bằng bệ hạ còn đang tìm người xứng đáng, còn cân nhắc mà bần tăng đã sớm có lời trách, thì xin bệ hạ tha tội cho nhãn giới của thiền lão đây hạn hẹp vì tuổi già. Các điều mà thiền lão Đa Bảo lục vấn đều là các việc mà Lý Công Uẩn hoặc đã có chủ kiến, hoặc chưa nghĩ tới, hoặc chưa thấy hết ý nghĩa của công việc. Bởi triều đình mới, bộ máy mới, ông chưa kiếm tìm được những người có chân tâm để dùng vào các việc quan yếu ấy. Thật ra ở trong nước không phải là không có các bậc chân tài, như Vạn Hạnh, Đa Bảo đó. Ngặt vì các vị đã hiến mình cho Đạo, nên chỉ thấp thoáng chút phần đời. Lý Công Uẩn tự nhủ, thiền lão có ý trách ta trọng võ hơn văn, ngầm răn ta không nên đi vào con đường chuyên chế, bạo tàn. Nghĩ vậy, nhà vua bèn nói: - Đa tạ sự răn dạy của đại sư, Công Uẩn tôi xin làm theo các việc mà trưởng lão đã hằng tâm khuyên bảo. Nhân đây, Công Uẩn xin được thưa lại đôi điều để trưởng lão yên tâm. Đúng như trưởng lão đã nói, tôi cất nhắc tướng võ nhiều hơn tướng văn là để đề phòng sự trở lại của cái hoạ Mười hai sứ quân. Vả lại triều đại mới, lòng người chưa phục, các sách, động ở các vùng xa xôi, các miền biên viễn các đầu mục thường hay nổi loạn, mà bên ngoài thì nhà Tống lúc nào cũng lăm le thôn tính. Dạ thưa thiền lão, Công Uẩn tôi bất đắc dĩ phải làm việc răn đe đó để ổn cố xã hội. Mặt khác cũng phải tỏ cho nhà Tống biết, nếu họ xâm lăng ắt chuốc lấy tai hoạ. Triều đình cũng đã làm các việc khác để dân chúng đỡ khổ, để nhà nhà có bát ăn, tiến tới có cái để dành, phòng khi có biến cố bất ngờ. Bữa trước, triều đình đã xuống chiếu tha toàn bộ số tô thuế ruộng đất cho cả nước trong ba năm liền, bắt đầu từ năm Canh Tuất đến hết năm Nhâm Tí. Lại chẩn cấp tiền gạo cho dân lưu tán trở về quê cũ làm ăn. Soát lại các hình án tù ngục, ai bị triều trước bắt oan uổng, lại vì có kẻ cậy quyền cậy thế chèn ép bức bách người thấp cổ bé họng, tống vào giam cầm nơi ngục thất thì nhất đán được tha, được đưa về quê cũ. Vua Thuận Thiên vừa nói vừa liếc nhìn thiền sư Đa Bảo, thấy gương mặt ngài rạng rỡ, vẻ bằng lòng lắm. Thật tình nhà vua chỉ nói những việc mình đã làm, những điều mình đang để tâm nghiền ngẫm nên nó bộc lộ được tính trung thực của bậc chính nhân quân tử, chứng tỏ vua là bậc thông sáng. Thiền sư Đa Bảo đã hai ba phen gật đầu tỏ ý hài lòng. Đoạn sư huơ cây thiền trượng và nói: - Bần tăng xin hỏi nhà vua, chế độ mới lập, triều đình tha tô thuế đất ruộng ba năm liền, thì lấy gì để nuôi vỗ quan lại, binh lính. Đành rằng việc làm đó là nhân, trước bệ hạ chưa ai dám tha tô thuế ba năm liền, sau bệ hạ chưa biết thế nào, bần tăng chỉ băn khoăn về nạn quốc khố cạn kiệt. Hay là để đỡ khó khăn cho triều đình, cứ cách một năm, tha tô thuế cho dân một năm có được không. - Đa tạ, đại sư vừa có lòng thương dân, vừa có lòng cảm thông với những bức bách của triều đình. Công Uẩn tôi cũng đã có nghĩ đến cao ý của đại sư. Ngặt vì mấy năm dưới ách áp bức của Lê Long Đĩnh, dân chúng lầm than cơ cực quá. Người dân vừa đói vừa sợ sệt như gà phải cáo. Nay dù có tha tô thuế một năm, họ cũng chưa hồi phục được về đường kinh tế, còn về đường tinh thần, họ chưa đủ lòng tin vào bộ máy cai trị mới với các quan lại mới. Vì rằng, dưới con mắt của người dân, thời nào thì quan với dân cũng như cáo với thỏ, quạ với gà mà thôi. Quan thì tham, lại thì nhũng. Thế đây, thưa đại sư, việc sinh tử của triều đại mới lúc này là lo nuôi vỗ sức dân, lo gây dựng lòng tin với dân. Công Uẩn tôi thường nghĩ, phải thương dân như cha mẹ thương con thì mới có cơ may phục hưng được thế nước. Bạch đại sư, triều đình cũng có đánh thuế, nhưng chỉ quy về sáu sắc có liên quan đến nguồn lợi khai thác từ rừng và biển mà thôi. - Bệ hạ nghĩ như vậy là niềm phúc hạnh cho dân, cho nước. Thì ra thầy Vạn Hạnh đã truyền cho bệ hạ cái tâm Bồ tát. Thế mà ta cứ lo hão. Thiền sư Đa Bảo thở dài, ngài có vẻ như tự hối vì đã xét nét nhà vua một cách thái quá. Như sực nhớ ra điều gì, thiền sư lại tiếp: - Bệ hạ, bần tăng vẫn cứ băn khoăn, việc nuôi vỗ quan lại có thể sẻn kiệm lấy từ nguồn lợi thuế khoá nơi các sản vật của rừng, của biển như sừng tê, ngà voi, trầm hương, đồi mồi, ngọc trai, muối… hoặc thu tô ruộng quốc điền. Nhưng còn việc nuôi binh lính, sắm binh khí, mới là việc tốn kém, bệ hạ tính sao? Vua Thuận Thiên mỉm cười vui vẻ, đoạn nhà vua quay ra nói với Đa Bảo thiền sư: - Vậy là đại sư giám sát việc nước rất chặt, lòng tôi sung sướng như được cha mẹ vỗ về. Nếu các bậc đại trí, đại giác trong nước, ai ai cũng có lòng như đại sư thì lo gì dân không giàu, nước không mạnh. Lý Công Uẩn bỗng hạ giọng nhưng từng lời nói nhà vua cố ý để cho ngài Đa Bảo nghe thật thấu, và còn mong được ngài chỉ giáo hơn nữa. – Việc quân, thưa đại lão thiền sư, nhà nước chỉ nuôi một đội quân tinh nhuệ rất nhỏ, gọi là chính binh. Ngoài ra, còn có đội thường binh lấy tất cả trai tráng trong nước từ mười tám đến ba nhăm tuổi, mỗi năm phải tập hợp về lộ, rèn luyện trong một hai tháng, chia làm hai kỳ nông nhàn vào tiết xuân, thu. Đội quân này phải mang lương thực từ nhà đi dùng đủ trong thời gian luyện tập. Triều đình chỉ cung cấp binh khí, cử người có võ học cao về huấn hỗ. Hết thời gian rèn tập, mọi người lại trở về nhà cày ruộng. Thưa đại sư, mọi người dân đều được rèn tập, lúc thường là dân, lúc nước có hoạ biến, tất cả họ đều là lính. Vậy là nhà nước vừa đỡ tốn kém khi phải nuôi giữ một đội thường binh quá lớn, lại vừa nuôi vỗ được sức dân, và luôn luôn có một đội quân cực lớn thả về nơi ruộng đồng nhàn nhã. - Hay, hay lắm! Thiền sư Đa Bảo gõ cây thiền trượng xuống đất ba lần, ngài nở một nụ cười sảng khoái như nụ cười của đức Di Lặc. – Đó, cái sách đó chính là ngụ binh ư nông đấy. Làm như thế, tức là bệ hạ gửi một việc nguy hiểm vào nơi nhàn nhã. Thành tựu này ngoài tầm nghĩ hiểu của bần tăng. Vậy chớ bệ hạ đã thực thi chưa? - Dạ triều đình đã bắt đầu làm thử tại lộ Hải Đông, lộ Đà Giang, lộ Bắc Giang; nếu việc này mà thành tựu thì từ sang năm sẽ làm đại đởn trong cả nước. - Thế còn việc giám tu quốc sử bệ hạ nghĩ sao? - Dạ, việc này nhất định phải làm, nhưng triều đình chưa cử được ai xứng đáng, nên chức đó còn đang khuyết. Công Uẩn tôi cũng thấy việc này hệ trọng lắm. Nó không những chỉ hệ trọng đối với hiện tại, mà còn với cả quá khứ và mai hậu nữa, cho nên không thể hồ đồ cắt cử bất kể ai vào chức đó cũng được. - Bệ hạ nghĩ vậy thì thiền giới chúng tôi cũng an tâm, vì đất nước đã phó thác vào tay một người đáng tin cậy. Thế nhưng thưa bệ hạ, còn chức tả hữu gián nghị thì sao. - Việc này, nhà vua có vẻ hơi bối rối – thưa trưởng lão, việc này quả Công Uẩn tôi quên khuấy, mà các quan cũng không thấy ai xướng xuất, xin trưởng lão cứ yên tâm, Công Uẩn tôi sẽ cho bổ cứu ngay nay mai. - Bệ hạ nên lưu tâm, khi nào người trên chỉ thích nghe lời nói êm tai, thì thói xu nịnh sẽ xuất lộ ngay lập tức. Và cũng ngay lập tức bọn sâu bọ tìm được cách che tai, bịt mắt người trên. Khi người trên không thích nghe lời nói thật, nói thẳng, nói trái tai, trái ý mình nữa, thì đó là triệu chứng bại vong của nước. Muốn xã hội ổn cố, người người trung hậu, thì người dân phải được đủ ăn, đủ mặc. Muốn dân chúng trung hậu thì bộ máy triều đình phải gần dân, thấu hiểu lòng dân, không đàn áp người lương thiện, không cấm đoán những người có ý nghĩ thẳng ngay, những việc làm mới lạ. Muốn như vậy, tâu bệ hạ, triều đình phải có cái tai nghe xa muôn dặm, phải có con mắt nhìn thấu nghìn tầm, và phải có tấm lòng bao dung như trời biển. Thiền sư chống cây thiền trượng đứng thẳng dậy vái nhà vua hai vái – Bữa nay ghé triều đình chào bệ hạ, được bệ hạ cho nói, có điều gì thất thố xin bệ hạ đại xá, bần tăng xin cáo thoái. Nhà vua hai ba lần lưu giữ, đại sư đều một mực chối từ. Lý Công Uẩn ngùi ngùi nói: – Bạch đại lão hoà thượng, thực tâm Công Uẩn tôi muốn lưu đại sư làm quốc sư tại triều để vấn kế, xin đại sư mở lòng, để chúng sinh được nương nhờ. Đa Bảo thiền sư xua tay: – Không nên, không nên. Kẻ tu hành này hết duyên tục rồi. Để thỉnh thoảng nghĩ được điều gì, bần tăng lại ghé thăm rồi dâng lên bệ hạ. Vả trong nước còn nhiều bậc đại trí lắm, nếu bệ hạ thực lòng thì kẻ thức giả, trí giả ắt sẽ mở tâm. Thiền sư cười độ lượng – lão tăng quen sống nơi rừng núi, am thanh cảnh vắng bất nhiễm trần. Xin bệ hạ đại xá, đại xá! Nói rồi Đa Bảo chống thiền trượng sải bước không ngoái lại nữa. Vua Thuận Thiên theo tiễn không kịp, đành đứng vái sau lưng thiền sư.