← Quay lại trang sách

Q1 Chương 05.

Từ khi nhà Lý thay nhà Lê, dân chúng thấy dễ sống hơn. Người dân đi lại làm ăn không còn sợ gặp vua nữa. Như thời Lê Ngọa triều, người nào vô phúc gặp ông ta chỉ có mất mạng. Lê Long Đĩnh là kẻ hiếu sát. Ngày nào không sát sinh, ông ta không chịu nổi. Các vật nuôi như trâu, bò, dê, lợn…, các vật hoang dã như hổ, báo, gấu, lợn rừng, hươu, nai… ông đều tự tay chọc tiết rồi mới cho nhà bếp làm lông và chế biến. Có điều lạ, ông ta giết súc vật thuần thục hơn các tay đồ tể. Con dao bầu nhọn mũi, ông chỉ thọc một nhát đúng tim, con vật chưa kịp kêu rống thì dòng máu đỏ tươi đã phụt ra và chỉ còn nghe được xác con vật đổ xuống, cũng là lúc Lê Long Đĩnh lau dao máu vào đầu hoặc vào mặt các viên quan cận vệ đứng hầu cạnh ông. Triều đại mới quả có chăm chút đến thân phận của người dân như tha bớt tô thuế, khuyên dân khai khẩn đất hoang, bãi bồi và cho họ làm chủ luôn đất ấy. Vì vậy trong dân chúng nô nức không khí làm ăn.

Nhưng với người dân trong thành Đại La thì lại khác. Đúng là người dân thành Đại La chưa được hưởng trọn vẹn niềm vui thì đã có lệnh đuổi nhà. Triều đình ban chiếu: “Bất cứ ai đang cư ngụ ở phía tây thành Đại La, đều phải dời đổi về phía đông, phía nam, phía bắc. Triều đình sẽ cắt đất mới hoàn trả, lại cho mỗi hộ ba mươi hai quan tiền cùng hai mươi phương lúa… Hạn cho việc dời đổi chỗ ở từ ngày… đến ngày… Ai trái lệnh…” Đành rằng lệnh vua ai dám cưỡng. Đành rằng đền bù có thua thiệt, nhưng đất cha ông tổ nghiệp để lại đã bao nhiêu đời, nay phải dứt ruột bỏ đi, ai mà không tiếc nuối. Vả lại trong thành Đại La này chỉ có phía tây là cao ráo, nay chuyển tới nơi khác đất thấp, đầm hồ chằng chịt, mùa nước nổi đi một bước đã phải dùng thuyền, nước ăn toét cả hai bàn chân. Đang lúc dân chúng còn phân tâm, thì xã trưởng Lương Minh Châu đốc thúc gia nhân dỡ nhà. Xã trưởng là người giàu có nhất trong làng, ba toà nhà ngói san sát. Vườn cây, ao cá quanh năm thu lợi, nhưng ông ta không kêu ca phàn nàn. Trước buổi dỡ nhà, ông mời các bậc cao niên cùng các chủ gia đình đến nhà ông xơi nước. Ông chỉ nói đến ngày ấy ngày ấy, nhà ông chuyển về mảnh đất mới ở phía đông La Thành – nơi định cư mới của cả làng. Ông nói cười vui vẻ. Có người nghi ông ăn chặn tiền triều đình ban. Vì vậy, ông phải nói lại điều ông đã bố cáo trước toàn dân, cùng là việc ông đã cho sao tờ “chiếu” dán tại chùa làng. Dân làng tin ông. Mọi người uống nước, ăn trầu rồi ra về. Gia nhân ông lập tức dỡ nhà. Một tháng sau khi xã trưởng chuyển nhà, cả làng đều chuyển nhà. Chẳng mấy chốc ngôi làng mới đã hình thành. Nhà cửa xộc xệch, cây cối chưa kịp trồng, nom ngôi làng như một xóm dân tứ tán mới quy nhau lập ấp. Nhưng ở phía tây, tức những ngôi làng cũ mà dân đã rời đi, nhà cửa, cung điện mọc lên san sát, cứ mỗi ngày mỗi khác. Thực, mà ai cũng tưởng như mơ. Vì rằng thành Đại La từ trước tới nay, tuy đã có phố xá, có dinh thự nhưng chưa hề có cảnh nguy nga như thế này. Công việc xây cất kinh thành đang vào lúc sắp hoàn tất, vua Thuận Thiên về thăm, và ngài kiểm xét lại từng ngôi nhà dùng vào việc gì, rồi ngài sai đặt tên. Các quan thái bảo Đào Thạc Phụ, thái phó Đặng Văn Hiếu, Vũ Đạo vương hoàng thúc, viên ngoại lang Lý Nhân Nghĩa cùng đám thư nhi cắp tráp theo hầu lúi húi ghi chép. Cung điện ở phía trước dùng làm nơi coi chầu lấy tên quẻ Càn. Càn là Trời, là đức cương kiện, tự cường của một nước. Điện này đặt tên là điện Càn Nguyên. Bên tả điện Càn Nguyên là điện Tập Hiền, là nơi tụ hội các người hiền đức, người có văn chất cao trọng trong thiên hạ. Bên hữu điện Càn Nguyên là điện Giảng Vũ. Đây là nơi tập hợp các tướng tài, nơi huấn giảng về binh thư đồ trận của hoàng thượng và các bậc thượng trí. Sau điện Càn Nguyên còn có hai cung làm chỗ nghỉ cho vua, đặt tên là Long An và Long Thuỵ. Bên tả có điện Nhật Quang, bên hữu có điện Nguyệt Minh. Phía sau hai điện đó có hai cung gọi là Thuý Hoa và Long Hoa làm chỗ ở cho cung nữ. Hướng chính nam còn có điện Cao Minh. Đây mới chỉ là một số cung chính, còn nhiều cung khác nữa, và cả chùa Phật cũng được xây trong hoàng thành cho vua làm lễ, như chùa Hưng Thiên ngự. Lầu Ngũ Phượng tinh, xây cất theo hình ngũ giác, mà mỗi góc biểu thị một ngôi sao trong chòm sao Bắc Đẩu, lại ở vào vị trí chính giữa, cũng tức là trung cung. Bên tả lầu Ngũ Phượng là quán Thái Thanh, bên hữu là chùa Vạn Tuế. Các cung điện, chùa, quán đều làm mái cong có thềm rồng bao quanh bốn mặt. Các cửa và cột điện đều sơn son thếp vàng, thật là lộng lẫy. Các kho tàng đều dựng ở nơi kín đáo mà thuận tiện cho việc xuất nhập. Các thành, hào bốn mặt đều nghiêm cẩn. Bốn mặt thành mở bốn cửa chính. Phía đông là cửa Tường Phù, phía tây cửa Quảng Phúc, phía nam cửa Đại Hưng, phía bắc cửa Diệu Đức. Xem ngắm sau trước tỏ tường cùng với việc đặt tên các điện, các cung, vua lấy làm bằng lòng. Trở về Hoa Lư, vua tự mình thảo chiếu và chọn ngày dời đô. Đêm ấy nhà vua thức suốt đêm nghĩ suy về việc thảo chiếu. Vua trai giới đúng bảy ngày đêm và trì tụng mỗi ngày ba lần trước Phật đài. Khoảng canh ba đêm thứ bảy có một vị râu tóc bạc phơ, da dẻ hồng hào, chống gậy trúc, nom cốt cách như một bậc tiên thánh. Lão trượng cúi chào nhà vua rồi nói: “Tôi là thần Long Đỗ nơi thành Đại La đến chào bệ hạ. Đất Đại La là nơi tụ kết anh linh, tú khí, nhà vua chọn đất ấy định đô là hợp lắm. Nay cung điện đã xây xong, ngày lành tháng tốt đã đến, bệ hạ còn chờ gì nữa mà không dời đô”. Nói xong, ông lão gõ ba tiếng gậy trúc lên thềm điện chào từ biệt nhà vua. Đức Thuận Thiên giật mình tỉnh dậy mới biết mình vừa mơ. Vậy là việc dời đô hợp lòng người, hợp cả ý Trời và Thần linh, nên được thần mách bảo. Vua thắp lên một tuần nhang rồi vào ngự thư phòng viết chiếu. Lạ thay, nhà vua viết một mạch, cứ như có người đọc cho vua chép vậy. Viết xong, vua đọc lại: “Ngày xưa nhà Thương đến Bàn Canh là năm lần dời đô. Nhà Chu đến Thành vương là ba lần dời đô, há phải là các vua đời Tam đại ấy, theo ý riêng mà dời đô bậy đâu. Là vì mưu chọn chỗ ở chính giữa làm kế cho con cháu ức muôn đời; trên kính mệnh trời, dưới theo lòng dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi. Bởi thế ngôi truyền dài lâu, phong tục giàu thịnh. Thế mà nhà Đinh nhà Lê lại theo lòng riêng, lơ là mệnh trời, không noi theo việc cũ nhà Thương, nhà Chu, yên ở nơi quê quán, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ hao tổn, muôn vật không nên. Trẫm rất xót thương không thể không dời đi nơi khác. Huống chi… thành Đại La, ở giữa khu vực trời đất, có thế rồng cuộn hổ ngồi, ở giữa nam bắc đông tây, tiện hình thế núi sông sau trước, đất rộng mà bằng phẳng, vật rất thịnh mà phồn vinh, xem khắp nước Việt, chỗ ấy là nơi hơn cả. Thật là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi thượng đô của kinh sư muôn đời”. Sáng ra vua sai thiết đại triều, các quan văn võ, các đài, đô, viện thảy đều có mặt. Vua cho tuyên đọc lời chiếu rồi ân cần hỏi: - Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định đô, vậy ý các khanh thế nào? Vì đã được vua hỏi nhiều lần, lại được bàn bạc kỹ, bây giờ nghe lời “chiếu” các quan đều nói: - Bệ hạ vì thiên hạ mà lập kế dài lâu, để trên cho cơ nghiệp to lớn được thịnh vượng, dưới cho nhân dân được giàu của nhiều người. Việc lợi như thế ai không dám không theo. Vua mừng lắm, lại đem kể chuyện thần Long Đỗ đêm về báo mộng. Các quan đều hoan hỷ cho rằng, thế là việc dời đô được cả Trời – Thần đều phù trợ, còn lòng dân thì háo hức trông ngóng. Vua sai quan thái bốc chọn ngày lành để dời đô. Cả bên toà Khâm thiên giám cùng bên Thái bốc đều đã trù liệu từ trước, nên tâu: - Đã chọn được tháng bảy ngày mùng mười là ngày lành tháng tốt, xin vua thuận cho. Nhân bên Khâm thiên giám và bên Thái bốc đều chọn được ngày mười tháng bảy là ngày lành, vua Thuận Thiên lấy làm mãn nguyện. Vì từ khi lên ngôi đã ban bố biết bao chính lệnh, làm biết bao việc cho dân chúng khắp nước. Phải nói, từ người già đến trẻ nhỏ, từ người tu hành đến người quan, quả, cô đơn cho cả tới kẻ mắc phải tội đồ bị giam cầm nơi ngục thất, không một ai là không được ơn mưa móc. Duy chỉ có những người chết qua mấy chục năm biến loạn từ thời Thập nhị sứ quân đến hôn quân Lê Long Đĩnh gây ra. Lại trải qua hai cuộc bình dẹp quân Nam Hán và quân Tống, biết bao người đã hiến dâng cả mạng sống của mình để bảo vệ non sông đất nước, cùng biết bao sinh linh oan khuất là chưa được hưởng ân tứ của triều đình. Nay nhà vua muốn nhân dịp thiên đô làm một lễ đại cầu siêu cho tất thảy chúng sinh. Bởi nói cho cùng, trong cuộc sinh tồn của dân tộc từ thượng cổ tới nay, công lao mở mang bờ cõi, bảo tồn cương thổ, tạo lập văn hiến đâu phải ở lớp người đang sống, mà trọng yếu là sự nghiệp của những người đã chết. Do vậy, cái chí của ta là muốn lập một đại đàn tràng làm lễ cầu siêu cực lớn tại kinh thành mới dựng, nhằm đền đáp công ơn những người đã khuất trên toàn cõi. Lễ đàn diễn ra đúng dịp Vu Lan, coi như đây là lễ đàn báo hiếu. Tại các lộ, các trấn, các châu thì các quan an phủ sứ, thông phán, thiêm phán, lệnh uý, chủ bạ phải phối cùng các bậc sư tăng, đạo nhân ở lộ, trấn, châu, phủ mình mà hành lễ. Vua còn sai soạn đồ lễ để tế cáo trời đất và thần linh thành Hoa Lư trước ngày dời đô về Đại La. Mọi việc sắp xếp xong xuôi, đúng giờ dần ngày mười tháng bảy năm Canh Tuất (1010) vua Thuận Thiên tạm biệt dân chúng thành Hoa Lư để về Đại La. Không biết dân chúng dậy từ lúc nào mà đã xếp hàng kín hai bên vệ đường. Thôi thì hương án, cờ quạt, tàn lọng rợp trời như ngày hội lớn. Suốt từ kinh thành tới bến Hoàng Long, kiệu vua chen giữa hai dòng người và cờ quạt. Tiếng hô: “Hoàng thượng thiên tuế!”, “Hoàng thượng vạn tuế!” như lay động cả kinh thành. Ngồi trong kiệu rồng, vua Thuận Thiên lòng bồi hồi xúc động đưa tay vén rèm, ló đầu ra đáp lễ dân chúng. Thấy nhà vua mỉm cười, dân chúng hồ hởi reo hò. Khi tới gần bến sông, đường hẹp người đông như vón lại, kiệu không thể nhích đi được. Lính cận vệ toan dẹp dường. Vua ngăn lại. Ngài xuống kiệu dẫn bộ để uý lạo trăm họ. Khi vua đi gần tới bến thì gặp một đoàn chừng non một trăm các cụ bô lão đã chờ sẵn. Các cụ gồm người trong kinh thành Hoa Lư và cả người ở các hạt lân cận. Cụ nào cũng mặc áo đỏ, quần đỏ, đội mũ đỏ. Vua vừa toan nói đôi lời thì tất cả các cụ đều quỳ xuống, và hai cụ già nhất dâng lên bức trướng bằng vóc đại hồng, thêu chữ “TÂM” bằng chỉ dát từ vàng ròng. Khi hai cụ vừa mở bức trướng ra thì toàn thể các bô lão đồng thanh hô: - Kính dâng hoàng thượng! - Hoàng thượng vạn tuế! Vua Thuận Thiên dang hai tay ra đỡ bức trướng rồi cúi đầu đáp lễ các cụ. Lòng dạt dào xúc động, vua nói: - Vâng mệnh trời, thuận lòng dân, ta được ở ngôi cao. Hứa với trăm họ, ta sẽ lấy cái tâm của trăm họ làm tâm của mình. Vừa nói, nhà vua vừa áp bức trướng nơi có chữ “tâm” vào trước lồng ngực mình. Xúc động quá không nói được, hai hàng nước mắt vua cứ dàn ra. Cả kinh thành lặng đi. Rồi từ đâu đó tiếng hô bật lên: - Hoàng thượng vạn tuế! Mọi người hô theo, tiếng hô vang vọng như tiếng sấm rền hoà cùng tiếng trống đồng khua, tiếng chiêng điểm, tiếng đàn, địch… Vua Thuận Thiên bước lên thuyền ngự trong tiếng nhạc thiều dìu dặt. Đoàn thuyền nhổ neo, tiếng pháo nổ giòn hơn cả tiếng trống khua mau. Khói pháo dày đặc che kín vòm trời. Xác pháo bay đỏ tím mặt nước sông. Đoàn thuyền đi xa tắp, lá cờ hiệu trên nóc thuyền ngự đã bé tẹo như chiếc lá tre, mà lời đồng thanh cầu chúc của người dân thành Hoa Lư còn bay vào tới tận khoang thuyền: - Chúc thánh thượng vạn a… a… a… a…n! Và một lần cuối, đức Thuận Thiên hiện ra trên tầng lầu thuyền ngự, mặt hướng về dân chúng Hoa Lư, tay ngài cầm bức trướng mà trăm họ vừa dâng tặng giơ cao lên vẫy, vẫy. Đoàn thuyền đã đi khỏi đất Hoa Lư tới mấy dặm mà chưa có cánh buồm nào bắt gió, nó vẫn cứ trườn đi với vẻ nặng nề. Vua Thuận Thiên cảm như không phải đoàn thuyền chở nặng các đồ thiết yếu của triều đình, mà nó khẳm nặng bởi tấm lòng dân chúng Hoa Lư. Xế trưa ngày mười hai tháng bảy năm Canh Tuất đoàn thuyền ngự về tới bến sông dưới chân thành Đại La. Tiết tháng bảy, trời thu trong vắt. Dân chúng thành Đại La đứng ken kín bờ sông và kéo dài tới mấy dặm đường bày hương án đón vua. Vua Thuận Thiên vừa bước ra khỏi khoang thuyền, chỉ mới đặt được một bàn chân xuống bến, trời đang quang đãng bỗng cuộn lên một áng mây vàng và sà xuống như chiếc tán che trên đầu vua. Bỗng một luồng gió ào đến, xoáy đám mây đó dài ra rồi vút lao đi như một con rồng. Mọi người bật hô: Rồng vàng! Rồng vàng! Nhà vua ngước nhìn bầu trời cao và nhận thấy bóng rồng vàng đang dần khuất và để lại phía sau một lằn mây trắng vắt ngang bầu trời cao, xanh sẫm. Đây đó òa vỡ tiếng reo vui của dân chúng kinh thành hòa cùng tiếng pháo nổ giòn tan, tiếng trống rộn rã. Và hội thả chim của kinh thành cùng lúc mở tới mấy trăm lồng, tung cả ngàn cánh chim bồ câu lên nền trời cao trong trẻo. Mỗi đàn chim của mỗi chủ chim bay theo một hình khối khác nhau. Dân chúng kinh kỳ năm ấy khâm phục nhất đàn chim đông đảo của một chủ chim phường Thái Hòa khi vừa vút thẳng lên trời cao, cả đàn tự xếp thành hai chữ “Thuận Thiên” cứ bay liệng mãi trên bầu trời Đại La. Hội thi thả chim trong lễ rước vua về thành Đại La năm ấy, phường Thái Hoà đoạt giải nhất, được một cặp bánh dầy và một quan tiền thưởng. Vua lại ban cho phường ấy một mỹ danh: “Mỹ tục khả phúng”. Nhân chuyện có rồng vàng xuất hiện khi thuyền vua vừa cập bến sông, rồi rồng vàng ấy lại bay vút lên không, ai cũng bảo đó là Trời ứng điềm lành. Vua truyền sử quan phải chép việc này vào quốc sử, lại cho đổi tên thành cũ Đại La là kinh thành Thăng Long. Chừng nửa tuần trăng trước khi nhà vua về ngự tại Đại La, người đã ban chiếu mở cửa kho phát cho dân chúng trong kinh thành mỗi đầu người năm đấu gạo và nửa quan tiền. Quan sở tại tức tốc thi hành để dân chúng sớm được hưởng ơn vua, lộc nước. Lại ban khen cho các làng xóm, phường phố phải di chuyển khỏi phía tây để lấy đất xây dựng cung điện, mỗi nơi một đạo “sắc” khen, còn số tiền, số gạo thì được tăng gấp đôi so với dân khác. Mọi người từ trẻ đến già đều hoan hỷ cho rằng vua mới có bụng thương dân. Vì thế, người ta đổ ra đường đón vua như đi trảy hội. Đường phố được quét dọn sạch sẽ, ở mỗi đầu cung đường lại kê một hương án, cờ quạt cắm la liệt. Phố nào, làng nào cũng chăng đèn, kết hoa. Trước ngõ mỗi nhà đều treo một đèn kéo quân chạy tích “Ngô Quyền đại phá Lưu Hoằng Tháo trên sông Bạch Đằng”, hoặc “Nhị nữ Trưng vương diệt thái thú Tô Định”… Những nhà giàu có, nhà buôn, nhà quan đều treo đèn kết hoa. Mặt trời vừa khuất, cả kinh thành bừng sáng. Người ta có cảm giác như tất cả các vì sao trên dải Ngân hà đều sà thấp xuống bầu trời Thăng Long để mừng vua mới, mừng kinh thành mới. Khắp các nẻo trong kinh thành đều vang âm lời hô của dân chúng “Hoàng thượng thiên tuế!”, “Hoàng thượng vạn tuế!”. Và pháo hoa nở rực sáng cả bốn phương trời Thăng Long. Không khí Thăng Long thật là rộn rã. Không một nơi chốn nào trong kinh thành lại không nghe thấy tiếng pháo, tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng hò reo của các đội múa lân, múa sư tử. Khắp kinh thành, chùa nào cũng dóng lên ba hồi chuông để chào mừng vua mới, kinh thành mới. Tiếng chuông trong trẻo toả lan khắp nơi nơi và dường như những thanh âm ấy ngưng đọng trên khắp các vòm cây, các mái nhà để rồi kết tụ lại trong lòng người. Đó là dấu ấn không thể phai mờ của đất Thăng Long, của một triều đại đang trong vận hội mở mang. Mới rạng sáng ngày hôm sau, vua đã sai mở bốn cửa cấm thành, sai mở cửa các cung điện cho dân chúng Thăng Long vào xem. Cũng từ sáng sớm cuộc thi bơi trải đã bắt đầu tại hồ Dâm Đàm. Vua thân hành ra tận bến đua thuyền để chia vui với dân chúng. Các phường Trích Sài, Hồ Khẩu, Võng Thị, Yên Hoa, Nhật Chiêu, Tây Tựu… đã đưa các đội đua của mình vào bến bãi. Lại nói xóm Bãi, nơi có thuyền vua neo đậu, dân chúng trong hương ấp từ già chí trẻ đổ hết ra bến cung nghinh. Ai nấy đều ăn mặc đẹp. Người già thì áo dài, khăn, nón chỉnh tề, trai tráng thì đội nón chóp trên gắn trang kim, đóng khố điều, phô ra những thân hình tròn lẳn, những bắp vế săn chắc, con gái thì mặc váy thanh cát, áo dài mớ ba, chít khăn mỏ quạ, cô nào cũng môi thắm má hường xinh xinh như những tố nữ trong tranh. Không nén được xúc động, nhà vua tiến về phía các cụ hỏi han dân tình nơi thôn ấp. Chợt vua hỏi: - Chẳng hay làng ta đây tên gọi là gì? Mọi người đồng thanh đáp: “Tâu hoàng thượng bản ấp thường gọi là xóm Bãi”. Nhà vua nở nụ cười thân mật: – Xóm Bãi đúng rồi! Bởi đây là bãi đất bồi, dân ta tụ cư lập ấp, nên đặt tên đó, đúng không? - Tâu hoàng thượng đúng thế ạ! Đúng thế ạ! - Được rồi, cái tên mộc mạc ấy hay đấy. Nhưng để xem, ta sẽ ban cho hương ấp đây một cái tên chữ. Một thoáng hiện trong đầu nhà vua hình ảnh dân xóm Bãi thành tâm nghênh đón với tấm lòng tri ân triều Thuận Thiên, buột miệng, vua phán rằng: - Bái Ân! Ta ban cho dân xóm Bãi từ nay mang tên Bái Ân! Lập tức dân làng hô vang: - Cảm tạ hoàng thượng cho tên làng! - Cảm tạ hoàng thượng cho tên làng! - Hoàng thượng vạn vạn tuế!… Tại nhà thủy đình, Ban giám thí đang phát lệnh cho các đội thuyền dàn hàng chữ nhất thì vua đến. Mọi người ùa ra đón vua. Vua vẫy tay cho ai nấy an toạ. Ngăn đám tuỳ tùng ở lại trên bờ, một mình vua ghé vào nhà thuỷ đình. Nhà vua thân mật ban lời: - Các ngươi cứ điều hành công việc cho dân được vui chơi. Ta đến đây là để chia vui với dân chúng, chớ không phải làm đình hoãn cuộc vui. Thấy nhà vua nói lời giản dị, dễ gần, Ban giám thí lại cho cuộc vui tiếp tục. Một trăm hai chục chiếc thuyền của mười hai phường dự thi. Thuyền nào cũng thon dài như hình chim én. Mũi và đuôi thuyền làm theo hình đầu và đuôi rồng cao vút, lại chạm trổ tinh vi, màu sơn đậm, nom rất nổi. Các thuyền đều có kiểu dáng giống nhau, nhưng màu cờ mỗi phường mỗi khác. Từ các màu của ngũ hành xanh, đỏ, đen, trắng, vàng lại biến sang các màu thiên thanh, diệp lục, hoàng thổ… Và các đội thuyền lại sơn thuyền theo màu cờ của phường mình để cho người chấm thi và cả người xem dễ theo dõi. Các thuyền đều đóng bằng gỗ de hoặc gỗ táu mật là loại gỗ vừa dẻo dai, vừa chắc bền. Mỗi thuyền có bốn mươi trải thủ, tuổi chừng mười tám, đôi mươi. Lại thêm một người giữ lái, hai người chấp lệnh. Các trải thủ đều cởi trần, đóng khố. Khố của các chàng trai đều nhuộm theo màu sơn của thuyền. Các trải thủ, người săn chắc, da đồng hun, bắp thịt tay, chân nổi cuộn lên như đô vật. Riêng hai viên chấp lệnh trong các thuyền là đứng tuổi, cỡ ngoài ba mươi, họ là những người đã dạn dày kinh nghiệm qua nhiều cuộc thi tài, đọ sức. Việc thua được của các thuyền phải dựa vào sức mạnh của trải thủ, song quyết định cho việc thắng thua ấy lại thuộc về các viên chấp lệnh; họ chính là linh hồn của mỗi thuyền đua. Người cầm lái cũng góp phần không nhỏ vào cuộc đua. Hai viên chấp lệnh và tay chèo lái của các thuyền đều mặc áo chẽn xanh, quần đỏ, thắt lưng bằng dải lụa cùng màu với màu sơn của thuyền và đầu đội khăn chữ nhân màu chàm. Khi pháo lệnh vừa phát, các thuyền lập tức lao vút đi như mũi tên vừa tách khỏi nỏ và đẹp như một đàn bướm màu vừa vỡ tổ. Hàng ngàn mái chèo khua nước, phải nói là các mái chèo băm trên mặt nước theo tiếng hò, nhịp trống của người chấp lệnh. Các cánh thuyền rầm rập lao đi tạo thành một khuôn tranh hoành tráng và hào hùng tựa như họ đang xông vào trận thuỷ chiến cam go. Nheo mắt nhìn theo đoàn thuyền đua mỗi lúc mỗi xa dần, mặt nước hồ vừa cồn sóng đã tĩnh lặng, lòng nhà vua lại xao động. Quả thật Lý Công Uẩn không ngờ mình được dân chúng ái mộ đến thế. Ông đang lo phải làm gì để đem lại một nền thái bình trường cửu, cũng như đời sống ấm no cho mỗi người dân trên đất nước của ông. Đành rằng thế, nhưng ông vẫn cần có một đội quân dũng mãnh, để chặn đứng thói kiêu hỗn cùng âm mưu thôn tính của các triều đại phương Bắc. Chính hình ảnh các chàng trai trong hội đua thuyền và các thuyền đua vừa đây, đã gợi cho nhà vua nghĩ về một đội thuỷ binh hùng mạnh. Vua cùng đoàn tuỳ tùng trở lại kinh thành được chứng kiến một cuộc vui tưng bừng. Trẻ con quây tụ thành vòng chơi trò bịt mắt bắt dê, con gái chơi trò chồng nụ chồng hoa. Lại từng đám chơi trò rồng rắn, trò phụ đồng ếch, đồng chổi. Lặng lẽ là đám trẻ chơi ô ăn quan. Nhưng phần nhiều trẻ em chạy theo các đám múa lân, múa rồng hoặc đứng vây trước nhà thuỷ đình của phường rối nước trên hồ Lục Thuỷ. Đó đây trống nổi inh ỏi, người quây vòng trong vòng ngoài, ấy là các xới vật đang đọ tài cao thấp. Cuộc vui cứ mỗi ngày mỗi náo nhiệt kéo dài đúng ba ngày ba đêm. Trong khi ấy thì tại các chùa, quán ở kinh thành và hầu khắp nước đều làm lễ cầu siêu như chiếu vua ban. Nhà vua cùng thiền sư Đa Bảo làm lễ cầu siêu tại chùa Vạn Tuế trong hoàng thành. Thiền sư thỉnh vua lên ngự ngôi chủ lễ đàn tràng. Sớm hôm sau nhà vua thân tiếp các bậc tăng thống, các đạo gia tại điện Nhật Quang. Cuộc gặp mặt diễn ra thật là vui vẻ. Nhiều vị thiền sư, đạo sư dâng tặng nhà vua những bài thơ, bài kệ viết trên giấy liễn hoặc thêu trên lụa. Phần nhiều các bài thơ, bài kệ nói về công đức của Phật, của vua, ca ngợi cảnh thiên hạ thái bình, hoà cốc phong đăng. Riêng cư sĩ Công Trực là người xuất chúng về thơ, phú lại có hoa tay về thư pháp. Chữ của ông viết đẹp như một bức sơn thuỷ hoạ, không ai là không thán phục. Hôm nay nhân chuyện dời đô, ông đem đến dâng nhà vua một bài thơ của Đỗ pháp sư[34], do chính tay ông viết trên nền giấy điệp. Quốc tộ như đằng lạc, Nam thiên lý thái bình. Vô vi cư điện các, Xứ xứ tức đao binh.[35] Đọc bài thơ của Đỗ pháp sư, ai cũng khen cư sĩ Công Trực là một người cao kiến. Bài thơ thật xứng hợp với cái đức của vua Thuận Thiên, lại cũng là lời chúc, lời mong cầu của muôn dân về một đất nước an lạc, một bậc minh quân đạo hạnh để phúc dài lâu cho trăm họ. Và rồi ai cũng nhớ đến Đỗ pháp sư, một bậc chân tài, chân tu, hết lòng vì nước, vì đạo pháp, nhất mực chối từ các chức tước, tiền bạc, đến cả hào quang mà vua Lê Đại hành ban thưởng ông cũng xin khước bỏ. Ông là một tài năng lớn, một nhân cách lớn của cả quốc gia này. Ông ra đi đã hơn hai chục năm, nhưng sao các bậc thức giả, các thiền gia, đạo gia vẫn cứ ngỡ như ông đang hiện hữu. Nhân đại lễ, vua Thuận Thiên mặc hồng bào, thắt đai ngọc, đội mũ bình đính tứ phương, chân đi hia thêu rồng vờn mây; nơi mắt rồng dát những viên hồng ngọc, phát hào quang. Những tua mũ thả dài từng chuỗi ngọc lấp lánh, nom gương mặt nhà vua càng thêm rực rỡ, lẫm liệt oai phong, đúng là một bậc thiên tử. Nhân ngày lễ trọng các thiền sư, đạo sư ăn vận đúng với bậc chức sắc của mình. Các thiền sư vào hàng hoà thượng đều vận áo cà sa màu vàng nghệ, đội mũ hoa sen, đeo chuỗi một trăm linh tám hạt bồ đề, tay chống thiền trượng, chân đi dép cỏ. Các đạo sư mặc áo đạo sĩ, đội mũ màu vàng, chân đi hài gấm. Các cư sĩ mặc áo thụng xanh, đội mũ toàn hoa sắc xanh, chân đi hài vải. Vua ban cho các thiền sư, đạo sư, cư sĩ mỗi vị một chung trà mạn ướp sen. Nước bốc hương thơm dịu. Sau ba tuần trà cũng là lúc vua tôi chúc tụng thật là hoan hỷ. Một lát sau, nhà vua ngỏ ý mời tất thảy chư vị đi thăm lầu Ngũ phượng tinh. Và vua sai quan hữu nhai tăng thống[36] Thẩm Văn Uyển thuộc đường vào ra cung cấm dẫn lộ. Nhà vua cùng đi với các vị khách quý. Bước được vài bước, vua Thuận Thiên ngoái lại, thấy thiền sư Vạn Hạnh đi song hàng với thiền sư Đa Bảo. Tiếp đó là thiền sư Ma Ha, thiền sư Hương Nghiêm, đạo sĩ Huyền Linh, đạo sĩ Viên Sơn, cư sĩ Bảo Hoà, cư sĩ Công Trực… đó là những vị đạo cao đức trọng nổi tiếng trong cả nước, không ai không kính trọng. Bạo liệt đến như Lê Long Đĩnh mà còn không dám gây khó dễ cho việc hành đạo của các vị, cũng như sự an toàn tính mạng của các tu sĩ. Nhà vua đứng lại vái các thiền sư, đạo sĩ, cư sĩ để nhường đường mời các đại lão đi trước. Nhưng mọi người đều kính cẩn mời đức vua đi trước. Trong lúc vua Thuận Thiên còn ngập ngừng, thì thiền sư Vạn Hạnh bước dấn lên vài bước, ngang qua chỗ nhà vua đứng, sư ghé tai vua nói vừa đủ nghe: - Nhà vua đang giữ thế nhân chủ, tại sao lại cứ phải nhường nhún như thế. Thấy lời khuyên của thầy hữu lý, nhà vua bèn xăm xăm bước lên dẫn đầu đoàn người để leo lên lầu. Đứng trên đỉnh lầu Ngũ Phượng tinh nhìn gần thì bao quát hết kinh thành, cả hồ Dâm Đàm, sông Nhĩ Hà[37], các hồ Lục Thủy, sông Tô Lịch, bến Hà Khẩu, các đền đài điện các, chùa quán, thảy thảy đều hiện ra trong tầm mắt. Xa xa về phía tây kinh kì sừng sững như bức tường thành là dãy núi Ba Vì, có đỉnh Tản Viên sơn cao chất ngất, quanh năm mây mù bao phủ. Đỉnh núi chìm trong mây mờ, tưởng như núi cao chạm trời, khiến cảnh trí trở nên u linh, hùng vĩ. Nhìn ngắm cảnh núi cao, sông dài, thành quách, cung điện huy hoàng, không ai không lấy làm phấn chấn về một viễn cảnh cường thịnh của giang sơn gấm vóc này. Bỗng đạo sĩ Huyền Linh ngoái lại kéo tay thiền sư Vạn Hạnh, và ông chỉ xuống chân hoàng thành nói: - Hoà thượng cứ nhìn cái đường bao quanh hoàng thành này, sẽ thấy toàn bộ khu cung điện trở nên hình Thái cực. Ông lại phảy tay ra xa, chỉ về phía hồ Dâm Đàm, nói tiếp: – Cái hồ sương mù kia là điểm tụ thuỷ nằm bên cạnh con sông Nhĩ Hà kia là điểm lưu thuỷ, tức là Lưỡng nghi[38]. Trong đó cái hồ là tượng âm, dòng sông là tượng dương. Giỏi! Cực giỏi! Ai xếp đặt việc xây cất đô thành này, phải xem là một bậc thầy về phong thuỷ. Thiền sư Vạn Hạnh tủm tỉm cười. Ông tự hẹn: – Ta sẽ không nói hở ra điều gì hết, mặc cho thiên hạ tha hồ mà ức đoán. Đoạn thiền sư hỏi lại đạo sĩ: - Chẳng nhẽ kinh thành này được xây cất chỉ nhằm có hai điểm Thái cực – Lưỡng nghi sao thưa đạo sĩ? - Ồ không! Trưởng lão thư thư cho bần đạo phóng tầm mắt ra bốn phương, tám hướng xem sao đã. Nhìn ngắm một lát, đạo sĩ tiếp – Khi đứng dưới chân hoàng thành, nhìn mọi vật cứ lẫn vào nhau không phân biệt được. Nay hoàng thượng cho đứng trên đỉnh Ngũ Phượng tinh nhìn vật nào ra vật ấy, tỏ sáng lắm. - Hay lắm! Hay lắm! Thưa đại lão hoà thượng. Đạo sĩ Huyền Linh nói như reo lên với sư Vạn Hạnh. – Đại lão nhìn cho kỹ nhé. Có phải hai điện Long An, Long Thuỵ kia nằm chính giữa hoàng thành không? Phải rồi, nó chính là cung hoàng đạo mà bốn mặt thành lại vuông vức đều nhau, thế chẳng phải là Tứ tượng sao. Lại chính giữa mỗi mặt thành về các hướng đông, tây, nam, bắc có các cửa Tường Phù, Quảng Phúc, Diệu Đức, Đại Hưng thế chẳng phải là Bát quái thì còn là cái gì nữa. – Chà chà! Đạo sĩ tặc lưỡi: – Người chủ trương dựng kinh thành này theo Dịch lý, mà sắp đặt như vầy thật là một bậc kỳ tài quán thế. Lại còn điều này nữa bần đạo không thể không nói ra. Tức là khi mới bắt đầu xây dựng kinh thành, nhà vua đã thể hiện ngay cái phương sách hòa đồng tam giáo. Này nhé, bên tả là quán Thái Thanh, bên hữu là chùa Vạn Tuế, trung cung là lầu Ngũ Phượng tinh. Đó chẳng phải là biểu tượng của các tôn giáo sao? Các tôn giáo đã hòa hợp, thử hỏi còn gì có thể làm cho xã hội không yên định. Thiền sư Vạn Hạnh vẫn lắng nghe đạo sĩ nói, xem vị đạo sĩ khăn vàng đáng kính này có chỉ ra được điều gì hay dở để ông còn kịp tu chính. Kể ra thì Huyền Linh cũng có con mắt tinh đời. Nhưng còn biết bao ý tứ sâu xa ta gói ghém trong việc tạo dựng kinh thành này, đạo sĩ làm sao mà biết được. Đến ngay nhà vua cũng không phải đã biết hết hoài vọng của ta trong việc bày xếp này. Đạo sĩ cùng mọi người sao biết được việc ta sắp đặt điện các, cung thất theo đủ tám hướng ứng với tám quẻ càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài theo trật tự bốn mùa hoà hợp, theo sự ứng hợp tâm linh giữa thần và người, giữa người với nhật nguyệt cùng hoà hợp mà tỏ sáng, giữa người với Trời, Đất hợp hoà mà hiển lộ ra cái đức lớn của mình. Và rồi, ở mỗi đầu cung ấy, ở mỗi phương vị ấy đều có một ngôi đền hoặc một ngôi chùa là nơi kết tụ anh linh, tú khí của kinh thành. Ta kỳ công sắp đặt kinh thành này đâu phải cho ta, ngay cả Công Uẩn, người mà ta chăm chút nuôi dạy với tất cả tâm lực và trí tuệ của ta, đâu có phải ta vì y. Y chẳng qua là hiện tướng đáng tin cậy của Việt tộc mà dân chúng kỳ vọng. Ta cũng kỳ vọng y sẽ mở đầu cho một triều đại, để từ đó xây đắp cho dân tộc này, đất nước này trở thành một quốc gia văn hiến, và đủ mạnh để không còn bị lép vế, bị bắt nạt và bị đe doạ thủ tiêu… Phải, chỉ có một nền văn hiến cao, thì kẻ cầm quyền mới có đầu óc thông sáng để mở mang đất nước. Còn như dân chúng đắm chìm trong ngu muội, thì kẻ cầm quyền đều là bọn vai u thịt bắp, bất quá lũ chúng có sức khoẻ hơn người cùng tính hiếu sát của loài dã thú, để bắt nạt dân đen. Ôi, một đất nước như vậy tránh sao khỏi kiếp tôi đòi. Ta ước mong sao cùng với kinh thành này, tâm đạo này, Công Uẩn sẽ mở ra một thời kỳ giàu thịnh, đạo đức, trí tuệ, sáng láng dài lâu cho dòng giống Lạc – Hồng. Đạo sĩ Huyền Linh chỉ trỏ nói năng đầy khoái hoạt. Thiền sư Vạn Hạnh vẫn chú ý lắng nghe, và vẫn cứ triền miên nói những điều thầm kín trong tâm não ông. Đạo sĩ vừa dừng lời, thiền sư chắp tay đáp lễ. Vừa lúc, vua Thuận Thiên bước tới. Vạn Hạnh vái nhà vua, vái các bậc thiền lão, đạo sĩ rồi kéo nhà vua ra góc lầu. Sư nói: - Hoàng thượng nay đã là bậc đại trí đại giác rồi, bần tăng không cần phải nói thêm gì nữa. Duy có điều cần được hoàng thượng lưu tâm về cái hồ Dâm Đàm này. Nó là điểm tụ thuỷ, là nơi tích kết anh linh tú khí của kinh thành. Chính nó với dòng Nhĩ Hà tạo thành cái thế Lưỡng nghi, nhà vua biết cả rồi. Nhưng điều quan yếu của mọi thời đại là phải giữ lấy nó. Nếu vật đổi sao dời như động đất, sụt lở làm mất tiêu nó đi, thì đó là mệnh trời chẳng nói làm gì. Nhược bằng con cháu dại dột mà san lấp nó đi, thì đó là đại hoạ. Tất cả sẽ trở nên u mê ngu dại. Vì rằng nó chính là não thuỷ. Mất nó, là cả kinh thành này, cả đất nước này sống như một người không có óc não. Vậy ta nói để nhà vua lưu tâm mà truyền đời cho con cháu, phải giữ lấy cái não thuỷ này. Nên nhớ rằng: “DÂM ĐÀM TUYỆT THĂNG LONG DIỆT”. Còn như để yên long mạch, ta đã cho yểm trên Nùng sơn và trong hồ Trúc Bạch. Các thứ đó sẽ lặn chìm trong đất, trở thành mạch đất, không sợ xâm phạm. Nhà vua cứ yên tâm mà hành hoá. Lý Công Uẩn xúc động, nói vừa đủ cho thầy nghe: - Con xin nghiêm giữ lời sư phụ. Xem ngắm xong, quan Hữu nhai tăng thống Thẩm Văn Uyển lại mời các thiền sư, đạo sư, cư sĩ trở về điện Tập Hiền – nơi nhà vua thết yến.