Q1 Chương 06.
An vị tại kinh thành mãi, Lý Công Uẩn cảm thấy trong người bức bối đứng ngồi không yên. Ông cho rằng còn nhiều việc lớn chưa thể khai thông được. Nhà vua đã có chiếu cầu hiền, cầu kế sách an dân, hưng quốc. Nhiều người có tâm huyết, đã dâng sớ tham bàn về quốc sách mà nhà vua đang cầu tìm. Nhưng nhà vua vẫn còn băn khoăn lắm. Người thì phỉnh mị dân quá, dân sẽ sinh kiêu bạc mà quên mất bổn phận của mình. Người thì khắc bạc quá, dễ dẫn tới khinh dân, khiến dân oán. Người quá thiên trọng về binh lực, đòi ta phải có một đội quân hùm sói, vừa giữ nhà vừa chinh phạt bốn phương để mở mang bờ cõi. Người lại nghĩ nhiều đến việc đạo, việc khai trí cho trăm họ…
Đúng là gom góp hết thảy phương lược của các bậc đại trí, đại giác lại, thời ta có phương sách hoàn hảo để dắt dẫn trăm họ đi vào cõi thiện. Thế nhưng, ta phải tận mắt thấy được cái gì trăm họ cần, đất nước cần, bởi hàng trăm việc, phải có việc làm trước, việc làm sau. Nếu lấy sau làm trước, chẳng khác người đi đầu xuống đất, thành thử muốn đạt mục đích lại trở nên mất phương hướng. Vậy, phải gần dân thì mới hiểu được lòng dân. Gần dân thời không thể đi với nghi thức hoàng đế được. Phương sách tốt nhất là vi hành, vua nghĩ vậy. Nhà vua bèn trao việc lưu thủ kinh sư cho hoàng thúc Vũ Đạo vương. Phụ tá là Thái phó Đặng Văn Hiếu, Tả Hữu kim ngô Phí Xa Lỗi, Vệ Trúc, Tả Hữu vũ vệ Đàm Thản, Đỗ Gián. Vua vời Hữu nhai tăng thống Thẩm Văn Uyển, tướng công Trần Cảo, viên ngoại lang Lý Nhân Nghĩa, khu mật sứ Ngô Đinh và nội lệnh sử[39] Hoàng Thúc Phương lập thành đoàn vi hành dưới danh nghĩa là đi khuyến giáo. Vua sai hữu nhai tăng thống Thẩm Văn Uyển làm trưởng đoàn khuyến giáo; vua và các vị khác chỉ là cư sĩ hoặc Phật tử theo đoàn. Tuỳ tùng phục dịch gồm có năm người theo hầu, kén trong đám quân thiên thuộc, thuần những tay võ sĩ thượng thặng, cùng với hai cỗ xe song mã để chở vua và các vật dụng tuỳ thân. Vua sai đi về hướng đông, tức là miền đồng bằng trù phú nhất để xem sự thể binh tình dân chúng ra sao. Ra khỏi kinh thành Thăng Long ba mươi dặm, quan Hữu nhai tăng thống bèn tâu: - Xin bệ hạ thử cho vào làng kia xem sao. – Vừa nói Thẩm Văn Uyển vừa chỉ vào ngôi làng trước mặt. Vua y cho. Thế là xe ngựa và các đồ tuỳ thân để hết ở ngoài và cho hai võ sĩ ở lại trông nom. Tất cả đều đi bộ vào làng. Vua đóng giả nhà sư. Quan hữu nhai đóng làm hoà thượng. Các người khác giả làm cư sĩ và Phật tử. Vừa hết đường cái quan thì rẽ vào đường làng. Lối đi quanh co, đường sống trâu gập ghềnh. Lúa hai bên vệ đường xanh tốt. Thảng có một hai cánh miễu rậm rạp như rừng, sừng sững giữa biển lúa xanh rờn. Chợt nhìn thấy một lối mòn rẽ vào miễu cây um tùm, lại thấy mấy người tay giáo tay thừng vừa đi khuất vào trong miễu. Vua chỉ tay cho mọi người tiến theo hướng đó. Chỉ dăm sáu chục bước chân đã vào hẳn trong miễu, hiện ra một quang cảnh khác thường. Ấy là dưới gốc mấy cây đa cổ thụ, có một dãy nhà thấp lùn như một dãy chuồng thú. Chẳng biết ở trong chứa, nhốt cái gì. Nhưng điều làm mọi người sửng sốt, là xế phía đầu hồi dãy chuồng về bên hữu đang diễn ra cảnh tra khảo. Hai tên đồ tể mình trần, đóng khố đang lấy bàn chông vả vào mặt, vào miệng một thiếu phụ mặc váy, cởi trần. Máu chảy nhoè khuôn mặt người đàn bà, tràn xuống ngực, tuôn qua hai bầu vú, nom như hai dòng sữa máu. Không nom rõ mặt thiếu phụ, nhưng cứ nghe tiếng kêu khóc, van xin thì biết người bị tra tấn vào hạng nạ dòng. Đứng sát cạnh đó là một người đàn ông vạm vỡ mặc áo thụng xanh, thắt lưng lụa màu nâu, đội khăn chữ nhân. Người này dáng mặt cau có, vừa như lơ đãng, vừa như có để tâm vào vụ tra xét kia. Trước cảnh tượng ấy, vua Thuận Thiên đi thẳng vào nơi tra khảo. Hai võ sĩ túm chặt cánh tay hai tên đồ tể như những gọng kìm thép, khiến chúng phải thả hai chiếc bàn chông rơi phịch xuống đất. Còn người đàn ông nom có vẻ hào hoa kia mắt tròn xoe, miệng há hốc ra vì kinh ngạc, và cả sợ hãi nữa. Vua sai mở cửa các gian chuồng, hoá ra đây là dãy nhà tù, giam người. Lùa ra được chín người. Trong đó có một bà già tóc bạc trắng, lưng còng, mắt nhoèn rỉ đỏ hoe; hai người đàn ông trạc gần năm mươi tuổi, sáu gã thiếu niên trạc tuổi từ mười lăm đến mười bảy. Đám thiếu niên mặt mũi bầm tím, hai người đàn ông phờ phạc, gầy ốm, nom như hai bộ xương khô. Vua hỏi người đàn ông bảnh bao kia: - Có phải đây là nhà nhốt tù không? - Dạ phải. Người đàn ông nhìn sư (nhà vua) trả lời, giọng đã bớt run. - Mong tôn ông bỏ lỗi, bần tăng tôi xin hỏi đây là nhà tù của lộ hay của châu[40]. - Dạ bẩm, đây là nhà tù của làng thôi ạ. Lại đến lượt vua Thuận Thiên kinh sợ, ông rùng mình như thể sắp đến lượt ông bị tống giam vào dãy chuồng thú kia. Cố nén ghìm, nhà vua hỏi tiếp: - Vậy chớ nhà tù này các xã quan lập ra từ bao giờ? - Dạ bẩm thiền sư, lâu lắm rồi ạ. Từ đời ông nội tôi làm xã trưởng, lại tới đời bố tôi làm xã trưởng. - Bây giờ ai làm xã trưởng? - Chính tôi. Nhưng các ông là ai, ở đâu đến đây mà tự tiện vào làng, lại nói năng kẻ cả làm vậy? Dường như viên xã trưởng đã hoàn hồn. Và y không chịu được cái lối hống hách tra xét của đám người lạ mặt này. Y tự trách hôm nay lại không cho gọi đội tuần đinh đi hộ vệ như mọi ngày. - Không cần biết chúng ta là ai, nhưng phải nói cho rõ ràng những điều ta hỏi. Trong khi vua đang nói, thì tên lính vũ vệ đã di nhẹ ngón tay trỏ vào mạng sườn viên xã trưởng, và ghé sát tai y nói thầm: “Tổ nội mày đấy. Mày mà nói láo là bị rút lưỡi con ạ”. Viên xã trưởng bị đau nảy bắn người lên như vừa bị ngòi châm của một con ong bò vẽ. Lại nghe nói bị “rút lưỡi”, y sợ tái mét mặt, như mặt gà rù. - Ông nhớ lại xem, nhà tù này đã có từ mấy chục năm nay rồi, nhà sư gạn hỏi. Nhẩm tính một lát, viên xã trưởng đáp: - Bẩm thiền ông, như vậy là tổ nội lập ra từ năm Giáp tuất (974), tính tới nay vừa tròn ba mươi sáu năm. Lý Công Uẩn giật mình, thì ra cái nhà tù này mọc lên cùng với năm ta ra đời, tức là năm thứ 5 niên hiệu Thái Bình thời Đinh Tiên hoàng đế. Qua ba mươi sáu năm, trải ba triều đại, nó vẫn tồn tại như chưa hề biết đến có sự thay đổi nào. Nghĩ vậy, vua bèn hỏi: - Vậy chớ ông có biết hiện nay đang sống ở triều vua nào không? - Dạ thưa thiền ông, đang ở đời nhà Lê mà dân chúng cứ đồn đại ngài Ngọa[41] triều, chớ không toạ[42] triều được, có đúng thế không ạ? Chúng tôi xa kinh thành, chẳng biết thực hư thế nào. Nói vậy, y lại sực nhớ hồi nhỏ có nghe người ta đồn đại về một lời sấm, cũng xuất hiện đâu vào năm Giáp Tuất, tức cái năm khu nhà tù này mới lập ra. Hồi ấy trẻ con vẫn hát: Đỗ Thích thí Đinh Đinh, Lê gia xuất thánh minh. Cạnh đầu đa hoành tử, Đạo lộ tuyệt nhân hành. Thập nhị xưng đại vương, Thập ác vô nhất thiện. Thập bát tử đăng tiên[43] Ngẫm ra thì hai phần trên đã nghiệm lời sấm, còn phần dưới, tức cái phần “Thập bát tử đăng tiên” ấy chẳng biết đã ứng chưa. Y lẩm nhẩm câu “Thập-bát-tử…”[44] khiến Lý Công Uẩn nghe thấy, nhà vua lại hỏi: - Có phải ông nói đang sống trong triều đại nhà Lê? - Dạ phải, xã trưởng đáp. Lý Công Uẩn thở dài tự nghĩ: ta lên ngôi tới nay đã một năm tròn. Ta đã ban bao chính lệnh như phá nhà tù, tha tô thuế, cứu giúp người nghèo. Thế mà ở đây, ở cái nơi thuận tiện đường sá, gần gũi kinh thành này. Ừ thì cho rằng nếu so với Hoa Lư thì có xa thật, nhưng đã một năm rồi mà ân tứ của triều đình vẫn chưa đến được nơi thôn ấp sao. Dân vẫn chưa biết vị vua hung bạo đã qua đời, và hiện có một người trị vì hết đỗi xót thương cho thân phận của họ sao. Nhưng vừa rồi ta thấy y nói “Thập-bát-tử” chẳng phải y nói về nhà Lý đấy ư? Vua lại hỏi: - Vậy chớ ông nói “Thập-bát-tử” là ý nói về cái gì đó? Viên xã trưởng không dám giấu giếm, y đọc lại lời đồng dao và nói thực điều y thầm nghĩ trong bụng. Vua lại hỏi: - Người đàn bà đang bị tra xét đây có tội gì? - Bẩm nó chửa hoang. Nó goá chồng đã sáu, bảy năm, bỗng dưng có chửa. Làng bắt nó phải nộp khoán một con trâu, nếu không có khoán thì nó phải nói ăn nằm với ai. - Các ông muốn biết cái người ấy để làm gì? - Bẩm, để bắt tên đó phải nộp khoán cho làng, và bắt nó phải có bổn phận nuôi đứa bé. - Thế nó không có trâu nộp khoán, mà nó cũng không chịu khai hay sao mà các ông tra khảo? - Bẩm nếu nhà nó có trâu, làng đã bắt trâu rồi chứ cần gì phải bắt nó. Bẩm cũng không phải nó không khai, mà nó khai láo ạ. - Vậy nó khai cho ai? - Dạ, nó khai cho con. Nhà sư quay ra nói với thiếu phụ: - Bần tăng biết nàng không có tội tình gì. Nhưng sao nàng lại đổ thừa cho xã trưởng để chịu đòn tra? Nghe thiền sư nói, thiếu phụ oà khóc. Một lúc lâu sau nước mắt nàng đã ráo, nhìn thẳng vào mặt nhà sư, nàng quỳ lạy: - Xin hoà thượng thương tình, con không dám nói sai. Con thân goá bụa. Ông xã trưởng cho sống được sống, bắt chết phải chết. Cả làng này không ai dám trái ý ông. Đêm đêm ông ập đến nhà, bắt con phải mở cửa rồi lại bắt con phải hát cho ông nghe. Ít lâu sau ông không nghe con hát nữa, mà bắt con phải làm việc trăng hoa đốn mạt, ngay trước mặt đứa con gái nhỏ của con. Ông còn đe, nếu không tuân theo ý ông thì ông bắt con gái của con về hầu ông. Cực chẳng đã, con phải đem thân cho ông làm điều chó ngựa. Nay ông lại chối phắt. Uy quyền trong tay ông, ông nói gì dân làng chẳng phải nghe. Nói xong, thiếu phụ lại bưng mặt khóc hu hu. Đến nước này thì vua Thuận Thiên không còn kìm nén được nữa. Vua đã toan hạ lệnh cho võ sĩ trói gô tên xã trưởng, nhưng ngài bình tâm tra xét. - Vậy chớ lão bà này có tội gì? – Vua quay hỏi bà lão đầu bạc. Tên xã trưởng gục mặt không nói được điều gì nữa. Bà già hơi nặng tai không nghe được lời sư hỏi. Mấy người đàn ông nói đằm tiếng vào tai bà điều khách hỏi. Gương mặt đau khổ của lão bà bỗng như rạng rỡ hẳn lên. Bà phủ phục xuống lạy nhà sư mà từ nãy bà vẫn cho là người tốt, và chắc quyền hành cao hơn ông xã trưởng. Bà nói: - Bạch hoà thượng, thầy xã trưởng đòi lấy cả thửa vườn nhà con ở sát vườn nhà thầy, rồi đuổi bà cháu con ra mãi khu đồng không mông quạnh gần bãi sông. Con xin ông thương tình bà goá nuôi cháu mồ côi nghèo đói tha cho. Nhưng ông bảo ra vào trông thấy bà cháu con bẩn mắt ông, nên ông giam, bao giờ con chịu dời nhà đi thì ông tha cho. Sư lại hỏi mấy người đàn ông có tội gì. Người nói vì mẹ ốm phải phụng dưỡng, nên chưa làm đủ số công mà xã trưởng bắt phải làm không cho nhà ông. Người thì đi cày cho nhà ông để trâu lồng làm gãy mũi cày. Người thì tết có thịt ăn mà không trả nợ ông… - Thế còn mấy trẻ nhỏ kia tội tình gì? Vua quay hỏi mấy gã thiếu niên. - Bạch hoà thượng, chúng cháu chưa đến tuổi, ông xã trưởng đã bắt đi xâu. Làm lụng vất vả lại cho ăn đói, không chịu được, chúng cháu trốn về ạ. Xem vua tra xét sự tình, quan hữu nhai tăng thống cùng các quan nội lệnh sử, tả thị lang, viên ngoại lang, khu mật sứ đều có chung một cảm giác xót thương cho thân phận của người dân. Triều đại mới trị vì một năm rồi mà xã trưởng vẫn chưa biết. Rồi tự tiện lập nhà tù ngay cửa ngõ kinh thành bắt người vô tội giam cầm, tra tấn. Quyền bính thì cha truyền con nối suốt ba đời nay, khiến người dân không ngóc đầu lên được. Lòng bùi ngùi, vua phán: - Tội trạng của ngươi ta sẽ xét sau. Bây giờ ngươi phải lập tờ bảo chứng. - Không được vô cớ bắt giam người vô tội. Ai phạm tội chỉ được phép lập bản văn thưa lên châu, quận. Kẻ nào mắc trọng tội thì sai áp giải cùng bản văn tường trình lên quan trên nữa. - Phải lập tức dỡ bỏ nhà giam và từ nay không được phép lặp lại. - Tất cả những người đã bị bắt oan này phải được bồi thường, mỗi người ba mươi quan tiền. Riêng lão bà năm mươi quan, thiếu phụ hai trăm quan. Sau này thiếu phụ sinh nở, ngươi phải chăm sóc, nuôi nấng cả hai mẹ con cho tới khi đứa bé mười lăm tuổi. Xã trưởng viết bảo chứng xong, vua sai quan khu mật sứ Ngô Đinh áp dấu rồng của triều đình vào. Bảo chứng lập thành ba bản, cho xã trưởng giữ một. Y nhìn dấu son triều đình lại thấy đề: “Thuận Thiên nguyên niên, cửu nguyệt sơ nhị nhật, hoàng đế khâm thử”. Y bàng hoàng nhìn vị hoà thượng mà bủn rủn hết cả tay chân, rồi quỳ xuống rập đầu lạy: - Con cắn cỏ con lậy đức kim thượng. Con người trần mắt thịt, có mắt như mù, xin hoàng đế tha tội chết. Từ nay con không dám càn bậy nữa. Vua không nói gì, sai đoàn tuỳ tùng tiếp tục lên đường. Trong đợt vi hành, vua đi được ba lộ, mỗi lộ đi được mười hương. Không ở đâu là người dân không bị đè nén, bóc lột. Làng Xuân Phương không phải là làng độc nhất có nhà giam. Nhưng nó là nhà giam độc nhất tồn tại lâu dài tại một làng quê, và sự tàn bạo thì nó đứng hàng đầu. Hẳn trong thời Lê Ngọa triều, nó đã được triều đình có sắc phong tặng, vả lại Xuân Phương cũng chưa phải là làng độc nhất không biết đến tân quân, không biết đến triều đại mới. Thật ra không phải chiếu vua ban không đến nơi thôn ấp, mà lũ hương lý dìm đi không cho dân biết. Vua sai mở đại triều hội cho các quan trong ngoài đều được dự bàn. Lại sai các quan trong đoàn vi hành bố cáo những điều mắt thấy tai nghe cho mọi người được biết. Nghe xong, các quan đều lấy làm ngỡ ngàng. Các quan trị nhậm tại những nơi vua vi hành đến, trong lòng không khỏi run sợ. Để giám sát và hạn chế sự lộng hành và tham nhũng của bộ máy triều đình từ xã thôn, châu quận trở lên, cùng việc bảo vệ tính mạng và cả quyền được sinh sống của người dân, vua cho các quan được phép tỏ bày các kế sách, các phương lược. Viên ngoại lang Lý Nhân Nghĩa bước ra khỏi ban tâu: - Chế độ mới đã tồn tại tới một năm mà ơn mưa móc của triều đình chưa tưới khắp. Người dân còn bị đè nén, áp bức, cả đến sinh mệnh và tài sản của họ đều phụ thuộc vào một tên xã trưởng hung đồ. Cách xa kinh thành mới có ba mươi dặm mà người dân còn bị kìm kẹp thế, thử hỏi tại các vùng miền khuất lấp xa xôi, thì người dân sống làm sao được. Chính lệnh của triều đình liệu có còn được tôn trọng. Nỗi oan khuất của người dân cứ chồng chất mãi không được gỡ bỏ, họ dễ rủ nhau làm loạn. Đám dân man dễ nổi lên hùng cứ, chống lại triều đình. Vì sao vậy? Ấy là bởi từ khi Lê Long Đĩnh trị vì đã đem cái ác, cái hiếu sát gieo rắc trên toàn cõi. Lương tâm và cả lương năng của nhân quần đều bị đánh cắp. Người hiền, người tài rủ nhau đi ở ẩn. Vì vậy, lương dân không biết dựa vào đâu. Khắp nước không còn chỗ nào cho họ trú ngụ. Họ đành cam chịu. Nay bậc thánh minh ra đời, đem sự sống, đem ấm no lại cho dân. Ngặt vì triều đình chưa dứt hết bọn hùm beo rắn rết, từ thời Lê Ngọa triều vẫn còn nằm trong bộ máy quốc gia, từ xã phường đến châu quận. Hoá nên ân tứ vua ban vẫn chưa tới được người dân. Ấy cũng bởi một số kẻ có quyền chức muốn xã hội cứ ở mãi trong tình trạng mù mờ. Dân lúc nào cũng như gà sợ cáo thì bọn sâu mọt kia mới dễ bề lộng hành, đục khoét. Ngừng một lát, vuốt lại khăn chầu và nếp áo, viên ngoại lang lại tiếp: - Xin bệ hạ cho thanh trừ ngay bọn sâu dân mọt nước; nếu không, người dân sẽ không biết dựa vào đâu mà phân biệt sáng tối, ác thiện. Vì thế dân sẽ oán bệ hạ. Vả lại các chính lệnh của triều đình làm ra, nhất nhất người dân phải được biết, có thế bọn hào trưởng mới không lừa bịp được dân. Lý Nhân Nghĩa nói xong vái vua hai vái rồi lui về chỗ. Vua Thuận Thiên ban lời khen: - Khanh nói rất hợp ý trẫm. Nào các người khác có điều gì phải, quấy cứ mạnh dạn nói ra. Ngay cả khi các khanh nói trái ý ta, thời đó cũng là điều để ta suy ngẫm, điều răn. Nội lệnh sử Hoàng Thúc Phương mở chiếc túi hình kim ngư (cá vàng) lấy ra bản tâu đã được viết một số ý chính, ông giơ bản tâu lên xin nói. Vua gật đầu. Sử gia bước ra khỏi ban, nhìn vào bản tâu lại ngửng nhìn các đồng liệt, đoạn ông quỳ xuống tâu: - Thần là người chép sử, nên có tham bác sử các đời, từ “Chính sử” đến “Biên niên sử”, “Biệt sử”, “Tạp sử” cả “Kỷ truyện” và “Sử bình”[45] nữa, thần chưa hề thấy ở một thời nào, một chế độ nào dù khắc bạc bạo tàn như nhà Tần, cũng không có chế độ nhà tù tại các phường xã, do xã trưởng tự ý lập ra, để trừng trị lương dân. Và nó đã ngang nhiên tồn tại tới ba mươi sáu năm nay. Đây là tàn dư triều đại trước để lại, nếu bệ hạ không xoá bỏ ngay tức thì, nó sẽ là sản phẩm của triều đại mới. Vì thế dân sẽ oán bệ hạ, mà lịch sử cũng khó minh định được thiện tâm của bệ hạ, bởi các việc phi nhân tính đang tồn tại dưới triều đại Thuận Thiên. Nói xong, sử quan vái nhà vua hai vái rồi lui về chỗ. Đến lượt quan Khu mật sứ Ngô Đinh bước ra khỏi ban: - Muôn tâu, bệ hạ lấy đức thiện để chiêu hoá thiên hạ, giáo hoá thiên hạ nhằm phân biệt với Lê Ngọa triều lấy cái ác làm rường mối trị thiên hạ. Hảo ý của bệ hạ chính là ân đức của bậc thánh quân. Song nhân thiện mà gieo xuống đất ác không bao giờ nảy mầm xanh. Vì vậy đi đôi với khuyến thiện phải trừ ác. Ngay Phật tổ cũng vậy, ngài vừa khuyến thiện vừa trừng ác, có như thế mới bảo vệ được chính pháp. Cho nên, theo ngu ý của hạ thần, triều đình phải ban hành luật pháp. Một nước có kinh đô giữa thanh thiên bạch nhật như thế này, không thể mọi sự cứ tuỳ tiện nơi người cầm quyền ở mỗi cấp, muốn hành hạ người dân thế nào cũng được, ví như xã trưởng xã Xuân Phương cha truyền con nối đã lập nhà tù tới ba mươi sáu năm để hãm hại người dân vô tội. Lại nữa, một khi luật pháp đã có rồi, người làm quan cứ theo phép nước mà hành xử. Dù người phạm pháp đó là ai cũng không vì thế mà bẻ cong cán cân công lý. Tâu bệ hạ, để các chính lệnh của triều đình đến thẳng được nơi thôn ấp, ngoài các chức dịch ra, dân còn phải được nghe, được biết, được thấu hiểu cũng như bệ hạ có thể nghe được lòng dân từ nơi thôn cùng xóm vắng, xin bệ hạ cho đặt thêm chức xuất nạp quan. Những người này có trách phận phải đem chính lệnh của triều đình phân phát bản văn, giảng giải lời văn đến tận nơi thôn ấp, theo đó nghe ngóng dân tình rồi tâu báo về triều các điều mắt thấy tai nghe. Làm được như vậy coi như tai mắt của triều đình có ở khắp mọi nơi mà bọn nha lại từ phường xã đến hương, châu, lộ không dám ngang nhiên làm các điều xằng bậy nữa. - Phải, khanh nói chí phải, vua Thuận Thiên gật đầu tỏ vẻ hài lòng, ngài nói: – Quốc gia nào cũng phải có luật pháp. Vậy các khanh bên ngự sử đài, bên đăng văn viện khởi thảo gấp để rồi còn phải bàn thảo trong triều cho thấu đáo, sau đó mới ban bố được. Nhưng chớ có soạn luật văn chỉ có lợi riêng cho ta và các khanh mà để thiệt hại cho trăm họ, thì đây sẽ là đầu mối của mọi sự bất công. – Khanh bảo sao? – Vua Thuận Thiên nghiêng tai lắng nghe các quan nói rồi ngài phán: – Lợi quyền của ta và chư khanh phải hoà đồng vào lợi quyền của bách tính. Không có luật riêng cho một ai cả. Cho nên dù người phạm tội có là công chúa, là hoàng tử hay hoàng hậu cũng không tha. Có như thế mới gọi là công bằng. Nhà vua có vẻ hài lòng, ngài cười vui và nói tiếp: – Dù người mắc tội có là ta cũng không nhân nhượng. Nhà vua bỗng nghiêm sắc mặt nói: – Các khanh nhớ lấy lời ta. Sử quan ghi lại lời ta để nếu khi ta phạm phải bên thẩm hình viện có muốn châm chước, muốn bỏ qua thì ngự sử đài phải đàn hặc, sử quan phải đem bản văn ra để đối chứng. Nếu không như thế thì phép nước không nghiêm. Vậy các khanh gắng chăm lo phận sự, chăn dắt dân lành đừng để ta phải phiền lòng trách phạt. Các khanh nên nhớ, ta không bao giờ xử dân theo luật, đại phu theo lễ đâu. Đó chỉ là sự điêu trá của lũ người có quyền chức mà tham bạo được che phủ bằng những lời lẽ hoa mỹ của luật văn. Ngừng một lát, nhà vua lại tiếp: – Để cận nhân tình, ta y cho việc đặt thêm chức xuất nạp quan. Nào các khanh, còn ai có điều gì bất như ý cũng nói ra để bàn bạc. Ta coi những lời nói thẳng trước ta, còn quý hơn vạn lần những lời tán dương nịnh hót ta. Quan hữu nhai tăng thống Thẩm Văn Uyển, từ nãy vẫn loay hoay ghi chép các lời tâu vào kín hai tờ giấy để trong túi kim ngư. Thấy vua nhắc, ông liền bước ra khỏi ban xin nói: - Muôn tâu bệ hạ, ở đời có ba việc lớn luôn nảy sinh sự bất như ý, cũng tức là sự đối nghịch nhau vậy. Ấy là sự quan hệ giữa người với tạo vật, giữa người với người, và nữa là giữa chính bản thân mỗi con người. Hai sự đối nghịch trên hiện ở nước ta tạm thời yên ổn. Nhưng cái đối nghịch thứ ba ở nước ta hiện nay đang vô cùng rắm rối. Tức như người dân trong nước từ mấy chục năm nay bị xô đẩy vào vòng tao loạn. Các bậc cầm quyền khi sáng khi tối, thật là bất tường. Lại như mấy năm gần đây, Lê Long Đĩnh đã hoàn tất được cơ chế vận hành cái ác khiến nhân tâm con người trở nên rối rắm, bất định. Xã hội không định được là bởi cái tâm con người chưa định được. Muốn định cái tâm của xã hội không ai có thể làm được ngoài các tông giáo. Tức phải chiết tỏa được phần tâm linh đang trì bế trong lòng người. Nghĩa là phải khai mở được cái tâm tuệ cho mọi người, mọi nhà. Bỗng nhà vua ngắt lời quan tăng thống: - Hiện nước ta đang hội đủ ba tông giáo: Phật – Nho – Lão. Theo ý khanh thì nước ta nên theo về tông giáo nào? - Muôn tâu, thần xin lần lượt phân giải, tăng thống nói tiếp: – Đúng là ba học thuyết đó hiện đang đua nhau nảy nở ở nước ta. Nhưng ta phải chọn lấy một tông giáo nào phù hợp nhất với tâm thức người dân trong nước, để tôn làm chính giáo, làm quốc giáo. Nho giáo ư? Nho giáo quá thiên trọng về phần hữu vi thế tục, dân dễ nảy sinh phân tư dục, tư kỷ. Lão – Trang ư? Lão – Trang lại quá thiên trong cái vô vi. Một xã hội hư ảo như thế, con người không có nơi nương tựa, bấu víu. Đành rằng nó có phần siêu việt. Một đằng chấp hữu, một đằng chấp vô. Tựu trung cả hai đạo ấy đều thái quá, mà cái gì đã thái quá lại thường hay bất cập. Cho nên chỉ có Phật giáo. Vì Phật giáo vượt lên cả hữu (có) lẫn vô (không), mới thấu hiểu được nhẽ huyền vi sống chết. Đây mới chính là con đường giải thoát cho cái tâm linh trì bế của dân tộc ta hiện nay, xin bệ hạ cân nhắc. Nhà vua lấy làm đẹp ý, ngài cứ gật gù mãi không thôi. Một lát, vua lại nhắc: - Nào các khanh, cứ bàn đi. Bàn cho thật cạn nhẽ mới có quyết sách sát hợp với lòng dân. Nhìn thấy Trần Cảo đang loay hoay sửa khăn, áo, vua phán: - Tướng công[46] có điều gì nói thử ta nghe. Trần Cảo người cao lớn, gương mặt hồng hào, đôi mắt sáng như phát hào quang, cặp môi đỏ như tô son, tam đình ngũ nhạc đăng đối thật là một người có quý tướng. Ông mặc áo thụng tía, đội mũ phốc đầu, hai dải trãi buông thõng quá ngang lưng, hai tay nâng chiếc túi kim ngư vái vua hai vái, quay lại vái các bạn đồng liệt một vái. Đoạn ông nói: - Tâu bệ hạ, các bạn đồng liệt của thần đã dâng lên bệ hạ những lời tâm huyết và thông tuệ. Thần không có kế hay chước lạ gì để làm đẹp lòng bệ hạ. Tuy vậy, thần chỉ xin được thêm vài lời, nếu đây là chuyện vẽ rắn thêm chân, làm rườm tai bệ hạ thì xin được tha tội. Điều thứ nhất thần muốn nói về tâm linh, tôn giáo thế tất phải dùng kế của quan Hữu nhai tăng thống. Song thần xin bệ hạ lưu tâm về các tín ngưỡng khác của nước ta hiện còn lưu tồn nhiều lắm. Trước hết là tục thờ Mẫu đã đời đời ăn sâu bén rễ vào từng nhà, từng người. Lại còn tục thờ tạp thần, dâm thần cùng nhiều loại thần linh khác, mà với đầu óc u mê, người dân tin thờ không thiếu một thứ gì. Vì vậy, trước hết phải khai phóng dân trí, để người dân có thể tiếp nhận được đạo Phật, tiến tới loại bỏ những tạp giáo ra khỏi đời sống xã hội. Điều thứ hai thần muốn nói, hiện nay các bậc thiền sư đạo cao đức trọng trong nước không có nhiều, mà giới sa môn cũng chẳng đáng là bao nhiêu. Lại chùa đền cũng còn thưa thoáng lắm. Vì vậy, muốn dẫn dắt dân chúng vào con đường Đạo, phải mở nhiều đạo tràng để chiêu tập và rèn dạy tăng chúng. Có sa môn đoàn, có sư tăng rồi lại phải có chùa cho các vị ấy trụ trì. Sao cho cứ mỗi làng quê dựng được một ngôi chùa, có một vị sư thì việc hoằng dương Phật pháp mới có cơ phát khởi. Dân ta còn nghèo, chùa chỉ cần mái tranh vách đất là được, không cần xây cất nguy nga để hao tổn sức dân, hao tổn của dân. Điều thứ ba thần mong rằng mỗi vị sư tăng trong làng xã, ngoài việc chăm sóc phần tín ngưỡng tâm linh cho dân chúng, còn là một hương sư dạy dỗ chữ nghĩa cho con cái các nhà. Sư không chỉ là người khai tâm, mà còn phải là người khai trí, là người giáo hoá cho dân, để cải đổi phong tục. Điều thứ tư thần nghĩ rằng, tuy đạo Phật được coi là quốc đạo, nhưng vẫn phải coi trọng các đạo khác cùng các tín ngưỡng vốn có của người mình. Chỉ cần tước bỏ các phần dị đoan do bọn đồng cốt quàng xiên gieo rắc. Thần nghĩ phải dung hợp được tất cả các tông giáo, tín ngưỡng để có một xã hội Nho, tâm linh Phật và thiên nhiên Đạo. Lại nữa, phải cấm ngặt việc kỳ thị giữa các tông giáo, nếu không thì sẽ là một đại hoạ. Tướng công nói xong lại vái vua hai vái rồi lui về chỗ. Nhà vua mặt mày rạng rỡ. Ông không ngờ các điều ông chủ trương lại được các đại thần nói ra. Rõ ràng là vua tôi đã tâm đầu ý hợp, việc lớn ắt mau thành. Bước ra khỏi ngai, vua nói: - Những điều các khanh nói cũng chính là điều trẫm quan hoài. Nó sẽ phải trở thành quốc sách của ta. Nay mai các đài, sảnh, viện phải xem xét để ban thành chính lệnh của ta. Các quan ai nấy đều vui và đều có chung một dự cảm đất nước đang bước vào thời thịnh.