← Quay lại trang sách

Q1 Chương 07.

Hương Thiên Phúc họp bàn để xây lại chùa. Vì có ngôi chùa cổ ở phía núi sau làng, từ khi thượng toạ viên tịch không có sư về trụ, bỏ hoang phế đã gần chục năm nay. Tuy các ngày tuần tiết dân trong hương ấp vẫn vào lễ bái nhưng không có người trông nom nên phong cảnh tiêu sơ, chùa cũ nát lại gặp trận bão mấy năm trước làm tốc mái. Nắng mưa làm cho tượng cũng hoen sơn, mục gỗ. Hai pho hộ pháp nước mưa xối vào hết ngày này qua năm khác, nay đã thành hai đống đất, cỏ mọc xanh um. Bữa nọ có người trong làng mơ thấy vị thổ thần báo mộng: “Chùa làng ông sắp được dựng lại. Sẽ có vị cao tăng về đây trụ trì. Làng sẽ hưng thịnh, giàu của nhiều người, liệu mà chăm lo việc Phật. Ông là người có duyên phước, vậy ta báo trước cho ông hay”. Ông lão giật mình tỉnh dậy mới hay mình vừa nằm mơ. Ông định đem chuyện ấy nói với xã trưởng. Nhưng lại nghĩ, chỉ là một giấc mơ vô căn cớ, không có gì đáng nói. Ngày tháng qua đi, ông vẫn giữ kín giấc mơ ở trong lòng; ngay cả vợ con, ông cũng không muốn kể lại làm gì.

Tuy không nói với ai, nhưng hàng ngày ông vẫn lên chùa dọn cỏ, phát các cây gai mọc chen lấp đường đi lối lại, và hương đăng tuần tiết ông thường lui tới chăm sóc. Bữa nay Ban hội đồng hương ấp cho mời ông cùng các bậc lão niên, các cư sĩ, các nhà phú hào đến để bàn việc dựng lại nếp chùa cổ của làng. Không có chỗ hội họp, làng phải ngồi nhờ tại ngôi bái đường của Đạo quán. Khi mọi người tề tựu đông đủ, hương án bày đặt trang trọng, xã trưởng mới từ cửa giữa bước vào. Ông đi cùng sứ giả của triều đình. Xã trưởng là một người đứng tuổi. Ông xã trưởng đã biết đọc, biết viết, được dân làng trọng nể. Bữa nay ông mặc áo thụng xanh, đội khăn đóng màu đen, nom ông có vẻ sáng sủa, chững chạc hơn ngày thường. Xã trưởng vừa thắp xong tuần hương, thì viên xuất nạp quan trịnh trọng đặt tờ “chiếu” của vua lên chiếc mâm thau chân quỳ trên hương án. Xã trưởng quỳ lạy bức chiếu thư bốn lạy. Những người có mặt đều hướng lên án thư lạy “chiếu”. Xong đâu đó, xã trưởng bóc chiếu thư ra đọc có sự chứng kiến của xuất nạp quan[47]. Đọc xong, xã trưởng nhắc lại một lần nữa về các chính lệnh vua ban: - Triều đình tha các loại tô, thuế cho mọi người dân trong nước ba năm liền, để cư dân có cơ hồi phục kinh tế, bắt đầu từ năm Canh Tuất (1010) đến hết năm Nhâm Tý (1012). - Triều đình cho phép trong dân ai có sức khai phá đất hoang, bãi bồi làm đất cấy trồng, sẽ cho làm chủ đất ấy, và được miễn thuế từ năm đến mười năm tuỳ theo công sức bỏ ra. - Những người già yếu, mồ côi, goá chồng, thiếu thuế từ lâu, nay đều tha cho cả. - Các làng, xã nơi nào có chùa, quán đổ nát đều phải tu bổ lại cho khang trang. Nơi nào chùa đổ nát nặng nề phải dựng lại tốn kém gần bằng làm chùa mới, thì làm sớ tâu lên, triều đình cấp cho số tiền bạc bằng một phần mười số tiền tu bổ. - Làng, xã nào nay mới bắt đầu dựng chùa, tạc tượng, đúc chuông tốn kém hết bao nhiêu, làm sớ tâu lên, triều đình cũng cho bằng đúng một phần mười số tốn kém đó. Tuy nhiên, việc dựng chùa tranh tre hay gỗ gạch là tuỳ sức dân sở tại, nghiêm cấm khiên cưỡng hoặc bức bách dân đóng góp gây tổn hại sức dân. - Các làng, xã, phường phố trong dân, ai có nguyện vọng xuất gia tu hành, xã trưởng làm sớ khải về, triều đình sẽ cấp cho độ điệp… Nghe được tin này, các cụ không còn tin ở tai mình nữa. Đúng là nước nhà vừa xuất hiện bậc thánh đế, lập tức trăm họ được cậy nhờ. Cụ Mốc xóm Cửa Rừng nghe còn lõm bõm, hỏi lại: - Các ông nói cái gì thuế má đây. Lại tăng thuế hả? Khổ thế đây. Triều đại nào cũng chỉ nhằm vào đầu người dân mà đánh thuế. Mọi người cười ồ lên, rồi hét vào tai cụ những điều vua ban trong “chiếu”. Gương mặt cụ sáng dần lên, những nếp nhăn như dãn ra. Cụ cười trơ cả hai hàng lợi. Nom cụ hồn nhiên như một đứa trẻ. Cụ lấy tay dụi vào hai mắt. Dường như cặp mắt cụ cay sè chỉ muốn khóc. Cụ nói: - Ta đã sống trên chín mươi tuổi trời cho rồi. Từ thượng cổ chưa từng thấy có đức vua nào lại xá thuế tới ba năm liền. Mà chỉ thấy liền ba năm tăng tang thuế, tăng các sắc thuế. Người dân thời nào cũng cứ phải cần mẫn, tần tảo như con ong mật, chắt chiu từng giọt để cho vua quan xơi cả bọng. Hoạ may thời nay dân mới mở mặt được chăng? Hết đói hết khổ chăng? Nói xong cụ già lại vuốt râu cười ngất. – Hãy cứ để sau ba năm xem sự thể thế nào mới biết được. Xuất nạp quan nghe được lời này, ông nghĩ: “Lòng dân còn ngờ vực”. Hỏi lại cặn kẽ mọi người, ghi những điều cần ghi và cả những điều tai nghe mắt thấy xong đâu đó, xuất nạp quan nói thêm: - Khi làng cất dựng xong chùa, có sư tăng về trụ, trẻ em trong làng sẽ được đến chùa học. Nhà chùa sẽ trông nom việc học hành cho trẻ nhỏ. Để có sư tăng thì trong dân ai là người có nhân cách, có duyên nghiệp muốn xuất gia, xả tục, làng xã ghi tên tuổi khải về triều. Triều đình sẽ cấp cho độ điệp. Có độ điệp lại phải vào học trong các đạo tràng vài ba năm mới được cử về các chùa lẻ. Vừa rồi ở Thăng Long đã có hơn một ngàn người được cấp độ điệp. Lại cho dựng các chùa trong nội ngoại kinh như chùa Hưng Thiên ngự, chùa Vạn Tuế, chùa Thánh Thọ, chùa Thắng Nghiêm, chùa Cẩm Y… Vua còn cho mở cửa kho phát hơn một ngàn lạng vàng, bạc đúc chuông cho các chùa Đại Giáo, chùa Hưng Thiên, chùa Thắng Nghiêm và lầu Ngũ Phượng tinh. Vua cũng cho mở đạo tràng, lập giới trường ở nhiều nơi cho các tăng đồ thụ giới. Nghe xuất nạp quan nói xong, dân làng lấy làm mãn nguyện và hết lòng tin tưởng ở tân quân. Vì nhà vua không những lo cho dân về đường làm ăn, sinh sống, lại còn lo cả phần học hành khai trí, cả phần tôn giáo, tâm linh nữa. Chỉ có các bậc thánh đế, minh quân mới lo cho dân như cha mẹ lo cho con cái vậy. Đúng là một đức Bồ tát tại thế. Xã trưởng hỏi dân làng: - Lấy tiền đâu ra mà dựng chùa? Chia bổ theo đầu người hoặc bổ theo đầu mẫu, xin các bậc cao niên chỉ giáo. Chưa ai trả lời được câu hỏi này. Người nằm mộng được thổ thần báo cho biết trước, tức là nhà hào phú Lý Đức Minh xin nói: - Việc Phật là việc thiện, không nên chia bổ. Vì chia bổ nghĩa là ép buộc. Có người có hảo tâm muốn đóng góp nhưng vì nhà nghèo không lấy gì để đóng góp. Lại có nhà giàu, nhưng chưa phát tâm Bồ đề thì sao. Cho nên cứ để tuỳ tâm, ai mở lòng hiếu Phật đến đâu thì góp đến đấy. Sức có đến đâu góp đến đấy. Mọi người đều cho lời nhà hào phú Lý Đức Minh là thuận tai. Xã trưởng liền hỏi: - Nếu làng không có cao kiến gì khác thì xin cho lập phả khuyến. Ông lại nói tiếp: – Và xin các vị tự tay ghi phần đóng góp của mình vào phả. Ai không ghi được thời đọc cho người khác ghi giúp. Ai vì còn phải bàn bạc cho thuận vợ thuận chồng, ghi sau cũng được. Nhưng xin thưa các cụ, bằng cách nào làng ta cũng phải dựng lại ngôi chùa cho đẹp đẽ, vững chãi, bởi đây là chiếu chỉ vua ban, không làm không được. Ông xã trưởng vì lòng kính trọng đưa tờ phả khuyến cho cụ Mốc xóm Cửa Rừng ghi trước. Cụ đẩy tờ giấy về phía xã trưởng nói: - Ông xã trưởng ghi giùm, tôi góp một quan tiền, hai thúng gạo tẻ. Xã trưởng ghi xong phần cụ Mốc, đem đặt tờ phả khuyến trước nhà hào phú Lý Đức Minh. Ông Minh nhìn vào tờ giấy rồi nắn nót viết từng chữ cho thật rõ ràng từng nét: “Tôi là Lý Đức Minh hoan hỉ góp vào việc phục hưng chính đạo số tài sản như sau: Một ngôi nhà ngói năm gian thuần bằng gỗ lim là nhà thờ tổ phụ tôi mới làm cách đây năm năm. Một trăm thúng thóc nếp. Một trăm thúng thóc tẻ. Một trăm quan tiền. Hai chục con trâu bò. Hai mươi tám mẫu ruộng gồm tám mẫu nhất đẳng điền, mười mẫu nhị đẳng điền, mười mẫu tam đẳng điền”. Loáng chốc phả khuyến đã ghi kín đặc năm tờ giấy. Số tiền bạc, tài sản cúng dường đủ đảm bảo cho việc hưng công sớm sủa. Vả lại đây mới chỉ là một số gia đình chưa được một phần ba làng, chắc sẽ còn nhiều người phát tâm Bồ đề. Làng lại bàn đến việc cử người trông nom việc xây dựng, người quản lý tiền bạc chi tiêu; cả việc huy động trai tráng vào rừng đốn gỗ, việc nào việc ấy cắt đặt thật là chi tiết. Việc trù liệu gỗ gạch phải hoàn tất trong hai tháng. Thấm thoắt đã đến ngày phạt mộc, nhà hào phú Lý Đức Minh cho hẳn cô con gái út tuổi chừng mười ba, nhan sắc chim sa cá lặn nhưng có lòng mộ đạo ra chùa nấu nước phục dịch các hiệp thợ làm việc. Có điều lạ, cô bé nhan sắc này không bao giờ để ý đến dung nhan mình, mà chỉ chăm lo phần đạo hạnh. Cha cô là một người hiếu đạo, nên thường răn các con về việc thiện ác ở đời. Gặp những năm mất mùa đói kém, cô thường theo cha đi phát chẩn cho người cơ nhỡ. Hoặc vào các tiết Vu lan[48], Thượng nguyên[49] cô lại theo mẹ đem lễ lạt vào chùa cúng dường, để nhà chùa làm lễ bố thí cho các cô hồn, và chẩn phát cho những người đói rách, nhếch nhác với tấm lòng yêu thương, trân trọng chứ không có chút gì cách biệt, ngượng ngùng. Hồi cô mới được một tuổi, có nhà sư đi khuyến giáo qua đây đã nói: “Cô bé này có tướng lạ. Lớn lên ắt sẽ xuất gia. Nếu gặp được các bậc thiền giả cao minh dẫn dắt, chắc sẽ thành đạo quả”. Ngày tháng qua mau, cô bé hay ăn, chóng lớn không có bệnh tật gì, cha mẹ rất yên lòng. Càng lớn, nhan sắc càng lộ rõ. Cô đẹp một cách duyên dáng, thuỳ mị. Đi đứng đoan trang, nói năng bặt thiệp, học một biết mười. Lại hay lam hay làm, không nề hà việc lớn việc nhỏ. Kẻ ăn người ở trong nhà được cô đối xử ngang hàng, không phân biệt chủ tớ, khiến ai cũng đem lòng trọng nể. Nhưng đúng như vị sư già đã nói, từ năm bảy tuổi cô đã đem lòng sùng kính Phật. Hằng ngày cô thường trốn nhà lên ngôi chùa hoang quét dọn, hương khói. Lúc đầu, cha mẹ vẫn tưởng trẻ con tò mò đi kiếm chỗ chơi. Nhưng sau thấy con làm việc Phật với vẻ thành kính, ông bà họ Lý không ngăn cấm. Bởi cả hai ông bà đều cho đây là duyên nghiệp, như lời nhà sư đã tiên đoán năm nào. Trong làng đã có mấy nhà đánh tiếng, một hai xin cô về làm dâu. Mỗi lần cha mẹ hỏi han, cô đều khéo léo chối từ. Có lúc cô thủ thỉ nói với mẹ ý nguyện xuất gia. Bà mẹ buồn và thương con lắm, không ép con phải thành gia thất, cũng không ngăn con xuất gia. Chuyện còn đang dùng dằng thì xảy đến việc tu sửa chùa làng. Cô xin với cha mẹ: - Phận con là gái, con không dám dự bàn việc chia hưởng gia sản do cha mẹ dành cho. Nhưng nếu quả cha mẹ thương mà cho con được phần nào, con xin hiến tất cả cho việc dựng lại chùa làng. Cũng vì nhẽ đó, cha cô đã xẻ gần một phần ba sản nghiệp cung hiến vào việc xây chùa. Cô vui lắm, xin cha được đi phục dịch nước non cho thợ. Trong khi hương Thiên Phúc dựng chùa thì ở Thăng Long và hầu khắp đất nước cũng xây dựng và tu bổ hàng trăm, ngàn ngôi chùa. Khắp nước, chỗ nào cũng tô tượng, đúc chuông. Đâu đâu người dân cũng hào hứng, cũng nô nức góp của, góp công cho việc hoằng dương Phật pháp. Mấy năm liền được mùa, vừa rồi ở chùa Vạn Tuế trời mưa xuống gạo trắng đầy một sân. Hoá ra không phải việc xây cất chùa chiền tốn kém, dân chúng sẽ bị đói khổ như nhiều người lo. Rõ ràng là nhà nhà đã có cơm ăn, áo mặc. Ấy là bởi lớp dân cùng khốn cứ nương theo bóng Phật mà đi. Phật không làm giúp ai, không cho ai cái gì. Phật chỉ khuyên tự cày cấy lấy lúa gạo mà ăn. Làm dư dật ra để đề phòng các năm mất mùa và cứu giúp người cơ nhỡ. Gắng làm điều thiện, tránh điều ác. Chỉ bấy nhiêu lời khuyên thôi, lại được đức vua tạo duyên phước cho toàn dân, thế là của cải cứ nở ra, điều thiện cứ nở ra khiến cho cái đói, cái ác phải lặng lẽ ra đi. Trộm cướp cũng thưa vãn dần. Nhờ quần thần và trăm họ hết lòng giúp rập, Lý Công Uẩn lên ngôi trong hào quang chói sáng. Ông biết, muôn dân đã đem lại vinh quang tột đỉnh cho ông, do vậy ông hết lòng đem lại ấm no, hạnh phúc cho họ. Triều đại mới đã yên vị được năm năm. Trăm họ bớt đói khổ, tiếng rên la sầu oán đã vợi dần, vua Thuận Thiên cảm như vơi nhẹ được phần nào nỗi lo canh cánh, song ngài giận mình còn làm được ít việc quá. Nhà vua có nhiều con: mười ba nàng công chúa và gần chục hoàng tử. Hoàng đích trưởng tử Lý Đức Chính đã vào tuổi mười lăm. Nghĩ đến việc Đại hành hoàng đế vừa băng, các con đã giết nhau để tranh đoạt ngôi tôn, khiến đất nước lâm vào rối loạn; quan tướng công Trần Cảo dâng sớ xin nhà vua sớm lập ngôi Đông cung[50] thái tử, để chính danh vị, định danh phận. Và chọn bậc sư phó nào vừa có đức độ, lại có tài tế thế kinh bang để phò giúp thái tử. Vua y cho. Nhưng trước khi lập, vua cho gọi các hoàng tử và các vị sư phó vào cung răn dạy: - Ta có nhiều con, nhưng ngôi Đông cung chỉ có một. Đức Chính là trưởng tử lại tỏ rõ cái tâm thiện. Ta nhớ có lần thiền sư Vạn Hạnh ghé thăm, hồi ấy Đức Chính chưa được một tuổi. Xem tướng mạo Đức Chính, ngài dạy: “Đứa bé này lớn lên ắt đứng đầu trăm họ. Sẽ là người có công hoằng dương Phật pháp. Y sẽ là người tải đạo đi khắp thiên hạ tựa như một con ngựa của nhà Phật vậy. Nên chăng đặt cho cháu cái tên là Lý Phật Mã được chứ?”. Ngày ấy ta đang còn làm một chức quan nhỏ trong triều hoàng đế Lê Hoàn, nghe lời nói diệt tộc ấy ta xiết bao kinh hãi. Ta đã phải xin thiền sư giữ kín cho, nếu không sẽ là đại hoạ. Thiền sư cười hồn hậu bảo: “Ta là thầy ông, há không biết điều đó sao!’’. Đến đây mọi việc quả như lời Thiền sư. Vậy ta đặt cho con tên ấy, chẳng hay ý con thế nào? Nghe đến tên Phật Mã, những người em của thái tử cười ồ lên. Nhưng Phật Mã lại quỳ lậy vua cha và nói: - Con đội ơn vua cha đã ban cho con cái tên mang tầm sứ mạng đó. Con nguyện suốt đời sẽ là một con ngựa trung thành của Phật tổ, để tải đạo của ngài đi bốn phương, như lời thiền sư Vạn Hạnh tiên đoán. - Phật Mã, ta rất hài lòng về con. Nhà vua lại tiếp: – Ngôi thái tử ta cho Phật Mã là chính danh vị. Vì rằng Phật Mã là đích trưởng tử, là bậc đàn anh của các con. Phật Mã lại siêng năng học hành, có lòng thương kẻ khó. Không ỷ mình là con vua mà xa rời đám dân lao khổ. Ta biết, các con đều giỏi giang cả, nhưng danh phận đã rạch ròi, không ai được nhòm ngó ngôi đông cung nữa. Ta cũng nhắc các ông sư phó của các hoàng tử, phải giảng cho các con ta thấu hiểu đạo lý ở đời. Tiện đây ta có nhời răn, các con phải để dạ. Chính ta, người đang nắm giữ vận mệnh của thiên hạ, cũng xuất thân từ đám nông phu lam lũ. Sáu tuổi, ta được theo hầu đức Vạn Hạnh để làm một chú tiểu tăng. Thầy thương ta dạy bảo đủ điều, học đủ các kinh sách. Nhưng vì là một sa môn ở trong sa đoàn, ta cũng phải làm việc quần quật như mọi người. Dù mới chỉ sáu tuổi, nhưng luật lệ sơn môn đã rõ ràng: “Bất tác bất thực” – không làm thì không được ăn, ai ai cũng phải tuân thủ. Ta thấy điều đó là đúng. Ngay với các con bây giờ, ta nghĩ cũng nên như vậy. Nhà vua nhìn các con một lượt, không hiểu có điều gì làm ngài băn khoăn, nên dáng vẻ hơi ngập ngừng. Một thoáng qua đi, vua lại nói: - Vậy nên ta ước định, từ nay trở đi, các con cứ vào tuổi mười lăm, ta cho mở phủ riêng, để các con có cơ tự lập nghiệp. Nhưng ba năm đầu, các con phải sống ở các miền quê, chỉ đến tuổi mười tám mới được về kinh. Gọi là mở phủ nơi thôn dã, nhưng chính là các con phải tự làm lấy nhà mà ở, cày cấy lấy lúa gạo mà ăn. Làm ăn phải theo lệ tục nơi hương ấp, phải học hỏi cách làm lụng của giới nông phu. Ta sẽ cấp ruộng đất cho các con. Các con cũng phải chịu mọi sắc thuế như tất cả mọi người dân khác. Không, không thể có một ngoại lệ nào đâu các ông sư phó ạ. Các ông cũng phải theo học trò của mình đi mở phủ. Thầy trò tự làm lấy mà sinh sống, số bổng của các ông, ta sẽ cho lĩnh mỗi năm một lần để gửi về quê quán phụng dưỡng cha mẹ già, đỡ đần vợ con. Ta cấm ngặt thầy trò không được ỷ thế cậy quyền, làm các điều xằng bậy nơi thôn ấp. Ta sẽ cho xuất nạp quan, kiểm pháp quan về tận hương ấp của các con để kiểm xét. Bỗng nhà vua đổi sang nét mặt nghiêm trang: – Các ông sư phó cùng các con hãy nghe kỹ lời ta. Nếu các chính lệnh của triều đình có gì hà khắc, có gì làm phiền phức đến người dân, ta cho phép tâu về để kịp tu chỉnh hoặc bãi bỏ. Nhưng nếu chỉ theo ý riêng mình mà mạo tâu bậy bạ, thì tội nặng khó tha. Ta nhắc lại, việc các hoàng tử đến tuổi mười lăm phải về các miền quê mở phủ để gần dân, từ nay là phép nước, các đời sau không được tự ý sửa đổi. Ông sư phó của hoàng tử Bồ bước ra tâu: - Bệ hạ có cho phép các hoàng tử được về bái yết theo hạn định nào không? - Sao lại không. Ta cũng là cha mẹ chứ có phải loài vô tri vô giác đâu mà không nhớ thương con. Nhưng việc các con ta ở phủ riêng, phải được xem là cuộc du học dài ngày, bổ ích. Các hoàng tử sẽ được về cung vào các ngày tết, giỗ, hội hè. Lại khi có việc cần tâu bày thì không phải lệ thuộc điều gì hết. Nhưng ta cấm không được mượn cớ bỏ phủ về kinh để thoả mãn du hý, hưởng lạc. Nếu thế thì tội càng nặng. Một khi các hoàng tử mắc tội, thì các ông sư phó cũng phải liên luỵ. Nhìn khắp một lượt sắc diện các hoàng tử, mắt nhà vua như có một thoáng buồn lo. Đoạn vua nói: - Nhân Phật Mã được lập làm Đông cung thái tử, do phủ tướng công và các đài, viện có sớ tâu trình, ta cũng y cho Phật Mã làm Khai Thiên vương. Nhưng nội trong tháng này phải đi mở phủ. Ta cho viên ngoại lang Lý Nhân Nghĩa và vũ vệ tướng quân Lê Phụng Hiểu làm tả hữu theo hầu. Ta cũng cho bọn Dương Bình, Quách Thịnh, Lý Huyền Sư, Ngô An Ngữ đi theo giúp rập. Các hoàng tử không ai dám xin với phụ vương điều gì. Nhưng nom mặt mấy người xấp xỉ với tuổi Phật Mã không giấu nổi nét buồn. Ngay cả điều đó, cũng không qua được mắt nhà vua.