← Quay lại trang sách

Q1 Chương 08.

Từ ngày vua vi hành đến, dân trong hương ấp Xuân Phương như được đổi đời. Viên xã trưởng tàn ác bị đày đi viễn châu. Nghe đâu phải sáu bảy năm mới được về. Dân được quyền chọn lựa xã trưởng. Ông Lương Thanh Khiết nhà vào cỡ bậc trung, nhưng là người có học lại có hạnh, nên dân làng cố ý lựa ông. Nhà ông, bố mất sớm, mẹ phải tần tảo nuôi ba anh em ông. Ông là con cả, bà mẹ gắng cho ông theo học thầy đồ đến thông văn tự, để biết đường giữ lấy gia phả, giữ lấy hương hoả tổ tông. Lớn lên, ông thờ mẹ hết lòng. Gặp năm mất mùa đói kém, ông ăn củ chuối cầm hơi, nhường cơm nuôi mẹ. Đã trên năm mươi tuổi, việc gì mẹ không bằng lòng gọi vào mắng chửi, ông khoanh tay nghe, không dám cãi nửa lời, và lập tức làm theo ý mẹ. Dù biết rằng làm theo ý mẹ có khi không thu được thành tựu. Nhưng ông không mong cầu lợi lộc, chỉ cốt mẹ vui lòng để tuổi già được thanh thản. Trong làng, ai cũng khen ông là người con chí hiếu.

Ấy vậy, nhiều kẻ vẫn chê ông là dở hơi. Ông biết, nhưng không để dạ. Suy ra mỗi người có một cách xử thế, họ cần tiền bạc, ông cần hiếu đễ. Ông không thể đem đổi hiếu lấy bạc tiền, cũng như kẻ kia không thể đem bạc tiền mua được hiếu đễ. Dân làng mời ông ra làm xã trưởng. Ông một mực chối từ, lấy cớ còn phải thờ mẹ cho tròn đạo hiếu. Biết được điều ấy, bà mẹ cho gọi ông vào hỏi sự thể. Ông cứ thực tâm trình mẹ về sở ý của mình. Mẹ ông dạy: - Con là người có học lại có hạnh, nên dân làng mới tin cậy nơi con. Con đã ở tuổi “tri thiên mệnh”[51] mà con còn cố chấp. Nay nhờ Trời, Phật cho tuổi thọ, mẹ đã ngoài bảy mươi rồi, dẫu sớm tối quy Phật lúc nào mẹ cũng không có gì phải ân hận. Không làm được việc lớn cho thiên hạ, sao con không gánh vác việc nhỏ nơi thôn ấp. Mẹ biết quyền hành một xã trưởng chẳng bõ bèn gì đối với con. Nhưng nếu để việc ấy rơi vào tay bọn xấu, bọn ác thì lớn bé già trẻ cả làng khổ vì nó. Con không thấy viên xã trưởng vừa rồi có khác gì loài hổ lang rắn rết. Nay nhờ chính lệnh của triều đình trừ được kẻ ác kia, dân tin cậy con, tức là dân trao sinh mệnh vào tay con; nếu con khước từ, lỡ công việc lại lọt vào tay kẻ ác nữa, thì chính con là kẻ về hùa với cái ác để giết dân. Con cố chấp để khư khư giữ lấy điều hiếu nhỏ mà bỏ việc đại nghĩa, thế là con chấp kinh mà không biết tòng quyền. Thế là con vị kỷ chứ không vị nhân. Đấy là chỗ mẹ không ngờ ở nhân cách của con. Bà nén giấu một tiếng thở dài, nhưng lại để rơi một giọt nước mắt. Nghe mẹ dạy, ông Thanh Khiết chợt tỉnh ngộ; ông quỳ xuống lạy mẹ mà rằng: - Nếu không có mẹ dạy bảo, thì con trở thành người bất nghĩa với dân làng. Con xin tuân lời mẹ. Từ ngày ông Thanh Khiết làm xã trưởng, dân trong hương ấp coi nhau như người trong một nhà. Trước hết ông tuân thánh chỉ, lo cho dân được an cư lạc nghiệp. Những người già cả không nơi nương tựa, những trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ, đều được làng cắt cho phần đất để cày cấy lấy lúa gạo mà ăn. Ai đứng ra chăm nuôi người già yếu, trẻ mồ côi không những được lĩnh phần ruộng đất ấy, mà còn được cấp thêm phân nửa số đất cấp cho người già và trẻ nhỏ. Vậy là trong làng đua nhau nuôi già, chăm trẻ, không ai còn phải sống cô đơn nữa. Những người như bà cháu bà cụ Giá sống sát nhà xã trưởng trước kia không còn sợ bị chèn ép, bức bách nữa. Đào Thị Phúc goá phụ bị xã trưởng ép buộc tư thông, nay đã sinh đứa con trai bụ bẫm. Gia đình ba mẹ con ấy được xã trưởng bồi nộp hai trăm quan, đã dựng được nếp nhà khang trang. Xã trưởng phải lưu đày viễn châu, nhưng vợ con ở nhà tháng tháng vẫn phải chu cấp cho thằng bé ba thùng thóc đến năm nó mười lăm tuổi. Tới lúc đó, làng sẽ xét định sau. Bà cụ Giá nuôi thằng cháu mồ côi nay đã hai mươi mốt tuổi. Có người mai mối thằng bé với con gái út nhà ông xã trưởng. Bà cụ sợ quá, giãy nảy lên nói với bà mối: - Giã ơn bà thương đến bà cháu tôi. Chúng tôi phận đũa mốc đâu dám chòi mâm son. Xin bà giữ kín chuyện này đừng nói với ai, nhỡ đến tai ông xã trưởng thì bà cháu tôi khốn đốn to, lại bán xới thôi. Bà mối đưa hai ngón tay ra tém vành môi, nhả miếng bã trầu cầm tay, bà nói: - Cụ ơi, cụ lẫn rồi. Cụ không biết ông xã trưởng làng mình bây giờ tốt lắm, chứ không như lão xã trưởng mắc dịch ngày trước, vua bắt lưu đày đâu. Bà cụ phỉ thui tới ba lần rồi mới nói: - Bà Luyến ơi, vẫn biết rằng bà xe duyên vậy là bà thương thằng cu Sắn nhà tôi, thương tôi lắm. Nhưng tốt cũng là xã trưởng, bà ạ. Đây bà xem, nhà tôi mới chỉ chung giậu với nhà ông xã trưởng này, vừa nói cụ vừa dẩu môi sang phía nhà xã trưởng cũ, thế mà ông ấy đã ghét, đã đuổi đi cho khuất mắt. Nếu không có cuộc vi hành của nhà vua, thì bà cháu tôi đứng đường đứng chợ rồi, sao còn được ở đây. Nói thật với bà, tôi vẫn chưa hoàn hồn đâu. Bà mối cười ngất, bắn cả nước quết trầu vào mặt bà cụ Giá. Nắm lấy bàn tay dăn deo của cụ Giá, bà Luyến nói: - Cụ ơi, tôi thề có cây cau trước nhà cụ kia, tôi mà dối trá điêu ngoa thì Trời đánh nó chết đứng ngay tắp lự. Thấy bà Luyến thề độc, bà cụ Giá không biết sự thể thế nào, chỉ nói lời khuyên can: - Bà ơi, đừng thề độc, ngộ nhỡ nó vận vào mình thì làm thế nào. Thôi được, tôi nghe bà đây, có điều gì dạy bảo, bà cứ nói thẳng tuột ra. Bà cứ vòng vo thì đến cây cau nhà tôi nó cũng không hiểu được. Đối đáp được một câu, bà cụ Giá thích lắm, cười hổn hển. - Cụ ơi, tôi thề với cụ, cứ hễ trong làng còn đứa nào lớn lên mà không như đũa có đôi thì tôi ăn không ngon, ngủ không yên. Thằng Cò[52] nhà cụ, tôi đã để mắt tới mấy năm nay rồi. Nó lam làm mà có hiếu có nhân. - Các ông ấy bảo cháu làm khoẻ nhất làng đấy. – Bà cụ Giá nói xen vào. - Biết là của quý, tôi mới nhắm cái cô Hĩm nhà ông xã trưởng cho nó. Cô bé ấy đẹp người đẹp nết đáo để cụ ạ. Tôi cứ đứng hàng buổi nom nó hái dâu, hai bàn tay nó thoăn thoắt như người múa. Nó ươm tơ mới khéo làm sao, sợi mảnh mà đều tăm tắp như sợi tóc, chẳng có mấu gút nào. Lụa nó dệt ra, mặt cứ mịn như nhung, sờ mát rợi cả tay. Ai chả biết nhà cụ làm sao môn đăng hộ đối với nhà ông xã trưởng được. Bởi thế, tôi đã phải nói lót với cụ thân sinh ra ông ấy rồi. Bà cụ phúc hậu lắm, nhận lời ngay. Cụ mà đã nhận lời, tôi đố ông xã trưởng dám thoái thác. Ông ấy ăn ở có hiếu nhất làng đấy. - Giời ơi, quý hoá quá, bà cụ Giá vội ngắt lời bà mối – Nhưng bà xem, gia cảnh nhà tôi thế này lấy gì lo cho cháu được. Cụ Giá vừa nói vừa chỉ tay vào căn buồng còn một lá thóc quây nia. Chừng ấy chỉ đủ cho hai bà cháu ăn đến vụ lúa mới thôi. Bà mối nuốt nước trầu đánh ực một cái, hai ngón tay bà lại đưa lên tém vành môi rồi chùi vào vạt áo, bà nói giọng hồ hởi tự tin: - Ai khiến cụ lo. Tôi cũng đã nói chuyện với ông xã trưởng rồi. Ông ấy bảo để hỏi ý kiến cụ già. Nếu cụ ưng ý thì ông ấy sẵn sàng ngay. Tôi lại ướm hỏi: – Nếu cụ nhà cho phép thì bà cháu bà cụ Giá lấy gì mà lo hỏi, lo cưới được. Thấy tôi thở dài, thương cho cảnh ngộ của bà cháu cụ, ông ấy bảo: - Bà khỏi lo chuyện đó. Tôi còn lạ gì gia cảnh bà cháu cụ Giá. Nếu cụ ấy có lòng thương đến con Hĩm nhà tôi, vợ chồng tôi khắc lo. - Không làm thế được đâu ông xã trưởng ơi, tôi làm ra vẻ hệ trọng, – nhà ông là chỗ cành vàng lá ngọc, dân làng sẽ dị nghị ông cưới chồng cho con. Ông ấy cười hì hì bảo tôi: - Thương con, ngon chuyện bà ạ. Mấy lại người ta có cười cũng chỉ cười ba tháng, chứ ai cười được ba năm. Ai cười, nhăn mười cái răng, bà cứ nói cụ Giá sang chơi tôi, hai nhà bàn bạc, khó mấy cũng xong. Chỉ sợ cụ ấy chê con Hĩm nhà tôi vụng dại. - Thật thế như bà? Cụ Giá nửa tin nửa ngờ hỏi lại bà mối. Thời buổi này mà vẫn còn người tốt như ông xã trưởng. Thôi thì phúc đức tại mẫu, trăm sự tôi nhờ bà. Thằng Cò nhà tôi cũng như con như cháu bà. Nó sống côi cút, xin bà thương cháu, tôi dù có chết, xin làm kiếp chó để giữ nhà cho bà, giữ nhà cho ông xã trưởng, để đền cái ơn trời bể này. - Giời đất ơi, sao cụ lại nói năng thế làm tôi đến tổn thọ mất thôi. Bà mối giãy nảy lên rồi chắp tay vái bà cụ Giá hai vái – Cụ ơi, bây giờ đổi đời rồi. Mọi người thương nhau lắm. Hôm rồi cụ chẳng lên chùa mà nghe hoà thượng thuyết pháp. Hoà thượng nói hay lắm, tôi không nhớ được gì cả. Nhưng đại loại là Phật dạy: “Mọi người phải thương nhau, phải siêng làm điều thiện, tránh điều ác. Phải khai khẩn đất đai, vun trồng cấy hái, sao cho không còn ai bị đói, bị rét nữa…”. Thế thì việc nhà cháu giúp cụ đây, việc ông xã trưởng thương thằng cu Sắn nhà cụ với con Lan nhà ông ấy, rồi lại đứng ra lo liệu cho các cháu thành gia thất, thì cũng là làm theo nhời Phật dạy thôi, có gì mà cụ cứ phải băn khoăn. Cụ nói cái gì đến chó với má, ơn với trả, đã thế còn gì là việc thiện nữa. - Mà này, bà Luyến xuống giọng thì thào, khiến bà cụ Giá tưởng lại có một việc gì quan thiết lắm đây. – Thằng Sắn nhà cụ vỡ được mấy sào ở khu bãi sậy rồi? Bà cụ Giá thở phào. – Chẳng giấu gì bà, thằng cháu Sắn nhờ giời đang sung sức. Trước kia không dám làm. Đất hoang hoá đấy, mình công khó công nhọc bỏ sức ra khai phá. Cấy được năm trước, năm sau xã trưởng đã bắt nộp thuế, nộp tô. Ba năm sau, đất ấy lại sung vào đất công. Hồi trước, nhà cháu vỡ được một mảnh hai sào, xã trưởng thu lại, cháu không vỡ nữa, chỉ đi làm thuê làm mướn như thể một con trâu con bò thôi. Bây giờ thì phúc hạnh cho mọi nhà rồi. Trên thì nhà vua có “chiếu” ban ra, dưới thì ông xã trưởng khuyến thưởng cho ai khai phá được nhiều. Vị chi, nhà cháu đã khai được mẫu hai bà Luyến ạ, nói để bà mừng cho. Cháu còn định vỡ thêm tám sào nữa cho tròn hai mẫu. Hai mẫu đất cho hai bà cháu thì ung dung quá. Nếu ông xã trưởng thương tình cho cô Lan nữa thì nhà cháu dư sức làm. Vụ mùa này nhà cháu thu hoạch được bốn sào. Nhưng lúa xấu lắm. Đất mới vỡ còn hăng, phải vài ba vụ, đất thuần lúa mới tốt. - Sướng thật đấy cụ nhỉ. Cứ như là chỉ qua một giấc ngủ, lúc thức dậy đã thấy mình có ruộng đất, có tài sản. Trước kia, ai dám nghĩ đến chuyện này. Đến tính mệnh còn lo nơm nớp, bởi từ làng xã đến châu quận, cấp nào cũng mặc sức hà hiếp dân, cướp của dân, tham lam, ác độc như sói, như hùm. Mà lạ thật, mấy năm nay cái đám hành khất ở các nơi hàng quán, chợ búa đi đâu mất tiêu. Dân làng cũng chẳng còn nhà nào phải đói khổ nữa. Nhà nào nhà nấy thóc ninh ních đầy bồ, ăn vụ nọ lưu vụ kia. Đến như mẹ con nhà cô Mai thân goá bụa, trước kia đói khổ là thế, mà bây giờ cũng còn dư dật đem cúng vào chùa cả trăm thăng[53] thóc. Khi con người đã dư ăn, thì gà, lợn sinh sôi cũng mau đáo để. Nhà nào cũng lợn chật chuồng, gà đầy sân. Cả cái đám trộm đạo, cắp qué cũng mất hết. Cửa ngõ mở toang chẳng mất cái gì. - Chả bù mấy năm trước bà Luyến nhỉ. Cứ sểnh ra một tí là mất, từ con cá, lá rau, đến con gà, bát gạo. Lắm lúc tôi cứ nghĩ, mình đang sống với một lũ quỷ, chứ không phải người sống với người nữa. Bà cụ Giá cười trơ cả hai hàng lợi móm. - Cụ ơi thế còn chuyện lương duyên các cháu thế nào? – bà Luyến nhắc lại. - Để tôi nhờ ông nho Quế xem ngày, rồi nhờ bà dẫn tôi sang thưa chuyện với cụ nhà ông xã trưởng, có được không bà mối. Nói xong, cụ Giá lại cười, nét mặt cụ hồn hậu như trẻ lại. - Có thế chứ. Cụ cứ đưa cái lá số tử vi của thằng cu Sắn đây, tôi đi so tuổi hai đứa trước, rồi xem ngày chạm ngõ sau.