← Quay lại trang sách

Q1 Chương 09.

Nhà họ Mai làng Tam Sơn là một nhà có phúc, con cái hiếu thảo, tiền của dư thừa. Mai Trọng Hựu là người có học. Ông hiểu thông tam giáo, nhưng ưu trọng hơn cả là về Phật. Trong nhà, ông lập ban thờ Phật, lại nữa hay giao du với các bậc thiền sư và các cao tăng trong vùng. Phàm các chùa tu bổ hoặc hưng công xây dựng, ông đều có cúng dường đầy đủ. Vào những năm mất mùa đói kém, ông thường bắt con cái và gia nhân bớt bữa, để thêm vào việc chẩn cấp cho người thiếu đói. Bản thân ông lúc nào cũng ung dung tự tại, đi khắp đó đây. Không một danh lam thắng tích nào của đất nước ông không lui tới. Không một bậc đạo cao đức trọng nào trong vùng, mà ông không tìm đến học hỏi, lại hay kết giao với các bậc thiện trí thức, các bậc cư sĩ. Ông không phải người xuất gia tu hành, nhưng cái đức của ông thật đáng cho cả hương ấp nhắm vào đó mà noi theo. Ông bà Mai Trọng Hựu sinh hạ được bảy người con, hai trai đầu và năm người con gái. Con cả là Mai Mạnh Minh, con thứ là Mai Trọng Mẫn. Các người con gái của ông đều nết na lam làm. Quanh năm chỉ có cày cấy, gặt hái, trồng dâu, chăn tằm, dệt cửi. Nhà ông dư dật, nhưng vẫn lấy sự kiệm cần làm đầu. Bà Mai là một người mẹ hiền thục đảm đang. Bà không cho con gái học nhiều chữ, mà chỉ rèn con về đường công, dung, ngôn, hạnh, nhưng lại hết lòng chăm sóc đến việc học cho hai người trai đầu. Điều đó khiến ông quý trọng bà.

Ông Mai dạy hai cậu con trai học hết Tam tự kinh[54], rồi ông gửi các con vào chùa, nhờ nhà chùa giáo hoá. Thuở ấy chùa Tam Sơn có thiền sư Cứu Chỉ là bậc cao tăng trong thiền giới. Ngài vốn là đệ tử của Định Hương trưởng lão thiền sư. Pháp danh của ngài do Định Hương trưởng lão đặt cho. Nghe nói buổi sơ ngộ, ngài đến xin thụ giới Cụ túc[55], trưởng lão hỏi: - Thầy có hiểu nghĩa của hai chữ “cứu cánh” là thế nào không? Ngài sững sờ hồi lâu rồi mới đáp: - Bạch, chưa ạ! Định Hương trưởng lão mỉm cười nói: - Thế là Tôi và Thầy, cả hai ta cùng hiểu hai chữ “cứu cánh” rồi đó! Ngài lấy làm ngạc nhiên, đầy vẻ suy tư. Định Hương trưởng lão quay lại hỏi: - Vậy là thầy hiểu rồi chứ? Ngài Cứu Chỉ nghe đến đây chợt thấy tâm thức rung động và bừng tỉnh, vội sụp lạy chứ không đáp lời. Nhân vậy, Định Hương trưởng lão mới đặt cho pháp danh là Cứu Chỉ, có nghĩa là tỏ ngộ ý chỉ cứu cánh của đạo thiền. Lại nói về Mai Mạnh Minh và Mai Trọng Mẫn được cha cho theo học thiền sư Cứu Chỉ tại chùa Tam Sơn. Chùa này vốn nổi tiếng việc giáo hoá nghiêm ngặt, con cái các nhà trong vùng gửi vào đây học đông không kể xiết, có khi lên tới hàng trăm trẻ. Bởi thuở ấy chưa có trường học, chưa có thầy giáo. Thật ra, số trẻ học thì đông, song số thành đạt không đáng kể. Mạnh Minh được cha cho theo học với thiền sư đến năm mười lăm tuổi thì bắt về nhà làm ruộng, tập cai quản gia đình vì Minh là trưởng nam. Mười năm đèn sách, Minh được thiền sư dạy cho thông cả Nho, Phật, có tham bác ít nhiều đến Lão học. Học Nho chỉ là cái cầu nối để thiền sư dẫn dắt đám tiểu sinh vào học Phật. Mạnh Minh không trở thành sa môn, không trở thành nhà thiền học, vì cha cậu không cho cậu đi đến rốt ráo của sự học. Nhà cư sĩ này chỉ muốn cho con mình trở thành một người làm ruộng có chút ít học thức. Biết đường hiếu nghĩa. Biết biện biệt thiện ác. Biết cách làm ăn sao cho khỏi đói nghèo. Lại biết cách cư xử với họ mạc, xóm làng sao cho có đạo nghĩa, cùng là biết cách dạy con trở thành người lương thiện. Thuở ấy Mạnh Minh cùng học với Lý Đức Chính được ba năm. Chính có dáng tuấn tú, tướng mạo đàng hoàng, học hành thông tuệ. Các yếu chỉ của kinh bổn nghe thầy giảng qua một lần Chính đã hiểu và có thể truyền giảng lại cho các bạn đồng môn một cách trôi chảy. Thiền sư Cứu Chỉ thường khen: “Cậu bé này lớn lên ắt có sự nghiệp khác thường. Sẽ là người hoằng dương Phật pháp chẳng kém các bậc cao tăng”. Đúng như thuở Đức Chính mới ra đời, thiền sư Vạn Hạnh bất chợt nhìn đã tiên đoán: “Người này lớn lên sẽ trở thành con ngựa của nhà Phật để tải đạo đi hoằng dương”. Và vì thế Đức Chính còn có tên là Phật Mã. Sau ba năm học, Phật Mã theo cha về Hoa Lư, ngày ấy cha chàng còn là tả điện tiền chỉ huy phó sứ. Thấm thoắt xa nhau đã tới gần năm năm. Dạo trước, Lý Công Uẩn lên ngôi thiên tử, Lý Phật Mã được phong làm hoàng thái tử, Mạnh Minh sực nhớ đến người bạn học thuở thơ ấu. Mai Mạnh Minh cố hình dung lại xem Lý Phật Mã có gì khác đời không mà được sinh vào cửa cực quyền ấy. Mạnh Minh không thấy Phật Mã có gì khác thường cả. Thậm chí anh ấy còn là người bình thường như mọi người khác, đều phải tuân theo chế độ “Thấp lao tạp dịch” và “bất tác bất thực” của nhà chùa. Khác chăng là ở nơi tư chất của Lý Phật Mã sống giản dị, hoà nhập với mọi người, khiến ai nấy đều cảm mến vì dễ gần. Bỗng nhiên Mạnh Minh thấy nhớ bạn. Biết rằng giữa mình với hoàng thái tử lúc này là một trời cách biệt. Nhưng thực tình Mạnh Minh chỉ nhớ người bạn học có tên là Lý Phật Mã từ thời thơ ấu chứ Mạnh Minh có nhớ về một chàng hoàng tử nào đâu. Chiều xuống, Mạnh Minh thấy bồn chồn, anh cứ chạy ra chạy vào vẩn vẩn vơ vơ, đảo mắt thấy phía ngoài rừng sương chiều đã giăng mờ trên các ngọn cây đỉnh núi. Và từ đâu đó vẳng lại tiếng vó ngựa đổ dồn, rồi một đoàn người, ngựa hiện ra trước cổng nhà. Khách lạ, nom lại có vẻ hào hoa phong nhã, Mạnh Minh ngỡ là khách của cha mình. Nhưng sao nom các gương mặt khách còn non trẻ quá, chàng tưởng khách lạc đường đang loay hoay tìm lối; Mạnh Minh vội sửa lại chéo áo và nếp khăn đội đầu thì khách đã xuống ngựa. Trong toán đã có hai người bước tới đầu sân. Mạnh Minh chắp tay chào khách. Khách đáp lễ rồi nhẹ hỏi: - Thưa tôn huynh, chẳng hay đây có phải là hương Tam Sơn? - Dạ bẩm tôn huynh đúng đấy ạ. Đây chính là hương Tam Sơn. Mạnh Minh lễ phép đáp lời và nhìn qua gương mặt khách, chàng thấy có nét vừa lạ vừa quen. Khách lại lên tiếng: - Xin tôn huynh cho hỏi, đây có phải là gia đình của Mạnh Minh công tử không ạ? Mạnh Minh cảm như có gì quen lắm nơi khoé miệng chàng công tử kia. Anh nghi công tử này chính là hoàng thái tử Lý Phật Mã cùng học với anh thời thơ ấu. Nhưng sao chàng có thể biết tung tích ta? Tuy vậy, Mạnh Minh cũng phải xác nhận: - Dạ phải. Vậy chớ tôn huynh có điều chi dạy bảo? Khách tươi cười nắm lấy bờ vai Mạnh Minh mà lắc: - Vậy chớ huynh cố tình không nhận ra ta sao? Ta là Lý Đức Chính mà thiền sư Cứu Chỉ – thầy chúng ta thường gọi ta là “con ngựa nhà Phật”, nào huynh đã nhận ra chưa? Mạnh Minh lùi lại hai bước chắp tay vái hai vái: - Đại xá! Đại xá! Xin hoàng thái tử tha tội cho kẻ có mắt cũng như đui. Bây giờ thì Mạnh Minh này nhận ra thái tử rồi. Xin mời thái tử và các tôn huynh vào nhà. Nghe nói có thái tử đến, ông Mai Trọng Hựu ở nhà trong vội sửa soạn khăn áo. Chưa kịp phân ngôi chủ khách thì người nhà đã dâng trà. Và ông Trọng Hựu bước ra chào thái tử: - Thái tử vân du tới tệ xá mà không cho hay trước, để gia chủ chúng tôi sửa soạn cung nghinh, nên việc tiếp rước sơ sài quá, xin thái tử tha tội. Thái tử biết chắc chủ nhân là cha của Mạnh Minh, chàng cúi đầu vái ông rồi nói: - Đường đột tới nhà, làm phiền lão bá, kẻ tiểu sinh này vô cùng đắc tội, xin lão bá tha thứ. Ông Mai Trọng Hựu nói đôi lời với thái tử cho phải đạo, rồi ông cáo lui vào nhà trong. Bởi ông biết sự có mặt của ông sẽ làm cho đám trẻ thêm lúng túng. Thái tử ngồi, vẫn có hai chàng trai tuổi chừng đôi mươi đứng hầu không rời nửa bước. Mạnh Minh đoán là các võ sĩ cận vệ của thái tử. Đã hai ba lần chàng mời ngồi, hai người đều lễ phép chối từ. Thái tử như hiểu ý bèn nói: - Đây là hai dũng sĩ trong cấm quân, được quan thân vệ cho đi cùng ta. Các người hãy lui ra ngoài cho bọn ta nói chuyện. Thái tử vừa nói vừa chỉ tay ra sân, hai chàng võ sĩ cúi đầu bước ra. - Tiểu sinh rất lấy làm lạ thưa thái tử. – Mạnh Minh nói – rằng sao thời gian cách biệt như thế mà thái tử vẫn còn nhớ đến tiểu sinh. Kỳ lạ nữa, tại sao thái tử lại biết được cả gia hương của tiểu sinh? Lý Phật Mã cười ngất, tiếng cười của chàng mới đáng yêu làm sao. Gương mặt chàng trong sáng như một thiên thần, khi chàng cười thì từ khoé miệng, hàm răng và đôi mắt kia đều toả ra một thứ ánh sáng ấm áp khiến kẻ trò chuyện với chàng đều mất hết cảm giác e dè, và lập tức đem lòng yêu quý chàng ngay. Chính tư chất chàng có sức hấp cảm như vậy nên dù trong thời gian học, hai người không thân thiết với nhau lắm, nhưng Mạnh Minh không thể không nhớ đến chàng. Vừa dứt tiếng cười, thái tử đáp lời: - Tình bằng hữu lại cả tình đồng môn nữa, làm sao có thể quên nhau được. Sở dĩ ta biết được gia hương của quý hữu, là ta có ghé qua chùa thăm thầy. Tới đây mới được trưởng lão hoà thượng cho biết thày Cứu Chỉ đã rời chùa từ lâu. - Dạ bẩm thái tử, dạo thái tử về Trường Yên được vài tháng thì thầy Cứu Chỉ cũng biệt Tam Sơn về trụ tại chùa Diên Linh núi Long Đội. Mạnh Minh và các bạn được trưởng lão thương dạy tiếp cho mấy năm nữa. - Chắc quý hữu muốn biết vì sao ta tìm gặp chàng phải không? – thái tử hỏi. Mạnh Minh gật đầu xác nhận. - Có gì đâu, trước hết là nhớ bạn. Trong hàng trăm bạn đồng môn, chọn lấy người mình yêu quý, tin cậy chưa chắc đã được một hai. Cha ta và cả thầy chúng ta luôn luôn răn dạy: “Lựa bạn phải hết sức kỹ càng. Lầm kết thân với bạn xấu, tư cách mình giảm đi, sự nghiệp cả cuộc đời có khi cũng tiêu vong. Trái lại, kết hảo được với bạn tốt, khác nào như tre ấm bụi, như lúa tháng ba gặp mưa rào đầu hạ, mọi thứ sẽ hanh thông”. Ta về đây với quý hữu nhằm kết hảo bạn bè, vậy chớ ý quý hữu thế nào? Lý Phật Mã nói với tất cả sự chân thực, và niềm vui lộ rõ trên gương mặt rạng rỡ của chàng. Nghe bạn nói, Mạnh Minh không tin vào tai mình nữa. Chàng tự hỏi, ở Thăng Long có biết bao nhiêu con nhà quyền quý; với bao nhiêu con cái các nhà trong hoàng thân, quốc thích, sao thái tử không kết bằng hữu lại tìm đến ta, con nhà thứ dân. Nghĩ vậy, chàng bèn đáp: - Đa tạ thái tử đã nhớ đến tình đồng môn, Mạnh Minh tôi xin kết cỏ ngậm vành thờ thái tử trọn đời. Song có điều tôi băn khoăn, không hiểu hoàng thượng có cho phép thái tử kết thân với đám dân hạ tiện như tôi không. - Sao quý hữu ăn nói hồ đồ vậy. Trước khi làm chức quan thân vệ rồi quan điện tiền, và cả trước khi được triều thần phò tá lên ngôi hoàng đế, cha con ta cũng là những kẻ lam lũ lăn lóc nơi ruộng đồng, như cha con quý hữu thôi chứ có hơn gì. - Vậy chớ thái tử đã xin ý chỉ của hoàng thượng chưa? - Chưa, ta chưa ngỏ xin điều gì với cha ta từ ngày ông đăng quang. Việc ta với quý hữu cũng chưa thể ngỏ với cha ta được; vì rằng ta chưa dám chắc Mạnh Minh đã nhận lời với ta. Thái tử nói lời trung hậu và tỏ ra trân trọng, Mạnh Minh cảm kích vái hai vái để tạ ân thái tử. Lý Phật Mã đáp lễ, và thái tử nói thẳng ra điều chàng muốn nói: - Ta chẳng giấu gì Mạnh Minh, khi cha ta lập ta là hoàng thái tử, cả thiên hạ đều biết ta đã được chọn lập. Bởi vậy ta cần phải có bạn bè cố kết. Không phải đây là sự lập bè lập đảng, mà là tai mắt triều đình phải có ở khắp nơi, để nghe ngóng được tiếng nói thiết tha từ trong đám lê dân, xem họ yêu cái gì, ghét cái gì. Nếu không thì đám cận thần và lũ trung quan, vào hùa với bọn tham bẩn mà quyền hành chất ngất ở trong tay, chúng sẽ che tai bịt mắt từ hoàng thượng trở đi, để tha hồ mà thao túng bộ máy quốc gia, tha hồ mà vơ vét, bóc lột, hành hạ người dân. Những điều ta nói với quý hữu, chính là điều mà cha ta thường răn dạy. Hoá nên ta phải lo liệu từ khi cờ còn chửa đến tay. Vả lại, vua cha đã cho ta mở phủ riêng, nhưng người bắt phải ra khỏi kinh thành, sống chung lẫn với dân thì mới dò biết được ý sâu nông của họ. Ta có ý định về mở phủ tại vùng này, vừa có bạn bè, vừa gần gũi quê hương, chắc ta sẽ có dịp gần dân hơn. - Thái tử chưa lên ngôi mà đã lo cho thân phận của người dân, thế là điều đại hạnh cho nước. Được thái tử sai khiến vào các việc thiện đức, thời dù gan nát, óc lầy, Mạnh Minh này cũng không dám từ nan. - Ta hỏi thật quý hữu, nếu như ta cắm đất hương Tam Sơn này mở phủ, thì có phiền gì cho bạn không? – Thái tử hỏi Mạnh Minh một cách thành thật. Mạnh Minh tròn xoe mắt nhìn thái tử với tấm lòng biết ơn, chàng đáp: - Nếu được thái tử xem như tình bằng hữu mà đem lòng ái mộ nơi hương ấp quê tôi, lại về đây mở phủ cầu sự gần dân, tích thiện cho nghiệp lớn mai sau, thì Mạnh Minh này sẵn sàng cắp giáo theo hầu chờ sai khiến. Phật Mã nắm chặt tay Mạnh Minh cảm tạ: - Ơn tri ngộ này ta biết lấy chi đền đáp. Việc ta về mở phủ chắc chỉ nay mai. Ta về thưa lại với phụ vương, nếu người ưng thuận, ta sẽ khai triển cấp thời. Nói rồi thái tử từ tạ. Hai người quyến luyến chẳng muốn chia tay. Mạnh Minh theo tiễn thái tử tới đầu thôn thì gặp người em gái đi hái dâu về. Thấy anh mình đi với một công tử phong lưu, Mai Thị Minh Nguyệt cúi chào rồi đi thẳng. Hai giỏ dâu trĩu nặng hai đầu đòn gánh, khiến Minh Nguyệt phải rảo bước, làm bước đi của nàng uyển chuyển duyên dáng như người múa. Mạnh Minh vội thưa: – Xin thái tử đại xá, cô gái đó là tiểu muội của thần. Nhà có mấy bát tằm đang kỳ ăn rỗi, nên suốt ngày em nó phải tất bật. Thái tử đang nhìn theo bóng hình người con gái, mà chỉ mới thoáng qua chàng đã xốn xang lòng dạ. Chao ôi khuôn mặt nàng mới đầy đặn phúc hậu làm sao. Gương mặt trong sáng như mặt trăng rằm cùng cặp mắt trong trẻo thơ ngây, khiến nàng có vẻ đẹp như mơ. Thái tử đang thả lòng mình theo nhịp chân nàng nhún nhảy thì nghe thấy tiếng Mạnh Minh. Chàng hơi đỏ mặt đáp lời: - Chẳng hay tiểu muội của quý hữu đã có nơi chốn nào chưa? - Dạ, nhà nghèo nên chưa có ai để mắt tới. Thái tử mỉm cười từ biệt. Lòng chàng như đang chấp chới bay lên cùng vó ngựa.