Q1 Chương 11.
Thái uý Lý Trưng Hiền dẫn hai ngàn quân bản bộ xuất chinh vào đầu giờ mùi. Để che tai bịt mắt đối phương, thái uý đóng giả làm quân tuần thú chứ không trương cờ lệnh, cờ suý. Dực Thánh vương nhận mệnh cũng điểm năm ngàn quân chia làm hai mũi thuỷ, bộ cùng xuất phát vào đầu giờ tuất. Thái uý Lý Trưng Hiền giao cho phó đô tướng quân là Vũ Kim Thanh chỉ huy đạo quân này, và phải bảo trọng Dực Thánh vương. Tiếng rằng Dực Thánh vương được vua trao binh phù, nhưng việc điều hành toàn quân trong trận này lại thuộc quyền thái uý. Hoàng tử ra trận là để luyện rèn cho dạn dày chiến trận, để sau này dùng vào việc quốc gia chứ một cậu bé mười ba tuổi, hỉ mũi còn chưa sạch, biết gì đến việc binh nhung.
Để bảo mật quân cơ, đoàn quân bộ ra đi, người ngậm tăm, ngựa bỏ nhạc, cấm tất cả mọi đèn lửa ban đêm. Quân thủy giả trang làm thuyền buôn, nhất nhất không để sơ suất điều gì. Vua Thuận Thiên cho triệu tướng công Trần Cảo, hoàng thúc Vũ Đạo vương, khu mật sứ Ngô Đinh, thái phó Đặng Văn Hiếu cùng hoàng thái tử Lý Phật Mã vào điện Long An bàn quốc sự. Mọi người tề tựu, vua liền phán: - Giặc man Tống hỗn hào sắp đem đại binh phạm cõi bờ ta. Việc này hẳn có bàn tay của triều đình Tống Chân tông. Ta quyết ra tay, để đám man Tống từ nay không dám hỗn hào mơ tưởng xâm phạm biên dân ta. Ta cũng quyết dạy cho Tống Chân tông bài học vỡ lòng, cùng với bài học nhớ đời của cha hắn là Tống Thái tông do hoàng đế Lê Hoàn răn bảo từ năm Tân Tỵ (981). Vậy việc lưu thủ kinh sư, ta giao cho hoàng thái tử Phật Mã và hoàng thúc Vũ Đạo vương đồng giám quốc. Thái phó Đặng Văn Hiếu, khu mật sứ Ngô Đinh giám sát các cơ quan trong ngoài của ta cho chặt chẽ. Việc binh kín nhẹm, ta ra đi không báo trước, các khanh ở nhà gắng hoàn thành trách phận, thắng trận trở về ta sẽ chiểu công ban thưởng. Lại nói về phía quân man Tống. Thủ lĩnh của họ được đầu lĩnh thành Ung Châu triệu đến thương nghị, nếu chịu sang đánh An Nam sẽ cấp cho khí giới, lương thảo, lừa ngựa. Tổng trấn Quảng Tây cũng hứa sẽ tâu xin với thiên tử cho người man lập quốc gia riêng, nếu như họ chiếm thêm được một số châu, quận của An Nam. Đầu lĩnh của người man ở vùng Tả Giang, Hữu Giang từ lâu đã cát cứ không chịu nộp tô thuế, không đi lính đi xâu cho triều đình Tống. Thỉnh thoảng họ còn xua quân vào sâu nội địa cướp của giết người, khiến lương dân không được yên ổn làm ăn. Triều đình nhà Tống có biết việc này, nhưng cũng lờ đi. Họ sợ ra tay đánh dẹp, nhân cơ hội người An Nam lại tràn sang thì khó bề chống lại, trong khi mặt bắc quân Liêu, quân Hạ vẫn đang ráo riết đánh phá. Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí thiển cận thấy lợi thì nhận lời liền. Vì vậy suốt ba tháng nay, y cho quân về Ung Châu chuyên chở khí giới, quân lương, lừa ngựa. Chúng cũng đem tiền đi khắp mọi nơi mua thêm hàng vạn ngựa tốt. Trong khi đó lại cho các tốp quân nhỏ hàng ngày trà trộn vào đất ta nghe ngóng, dò la. Hiện thời chúng đã tập hợp được đội quân đông hơn mười vạn người, lại huy động hơn mười vạn dân binh dùng vào việc vận chuyển chiến cụ, lương thảo. Trung quân của Dương Trường Huệ đã chuyển tới gần biên ải. Nhân dịp, Đoàn Kính Chí bàn cùng Huệ rằng: - Quân ta tuy đông, nhưng chưa trải qua trận mạc, chưa bao giờ giao chiến với quân Nam. Theo thiển ý của tại hạ, hãy phái các đội khinh binh sang thăm dò. Đánh xong rút liền. Nhưng doanh trạm quân ta cứ nhích dần sang bên kia biên ải, mỗi ngày dăm ba dặm. Dương Trường Huệ gật đầu đáp: - Tướng quân nói rất hợp ý tôi. Cứ theo như ý quan tổng trấn Quảng Tây thì thiên tử chỉ cắt đất phong hầu cho ta, khi ta chiếm được vài châu quận của người Nam. Nhân việc này tôi đã có thư dụ hàng viên châu mục châu Bình Lâm là Hoàng Ân Vinh. Đã có gửi quà biếu hậu hĩnh, lại hứa cho y chức tước sau này. Chắc chỉ nay mai là có hồi âm. Cứ như ngu ý của tôi, – Dương Trường Huệ tự nhiên ngừng lời, ông ta đưa tay lên sờ nắn vành khăn, lại dùng năm ngón tay chải chải chòm râu cằm đen nhức. Cử chỉ ấy khiến Đoàn Kính Chí cho rằng Dương Trường Huệ sắp đưa ra một kế sách mới lạ đây. Vì vậy Đoàn Kính Chí ngồi nhích về phía Huệ, người ông ta như thu nhỏ lại. Giây lâu Dương Trường Huệ lại tiếp: - Theo ngu ý của tại hạ thì ta cứ đưa hết hai mươi vạn tinh binh cùng dân binh, với năm mươi ngàn lừa ngựa sang hết đất An Nam. Đưa được số người, ngựa ấy vào đất Bình Lâm, mặc nhiên châu ấy thuộc về ta. Ngoài hai đường bộ xuyên rừng đi sang, ta còn có đường thuỷ xuất phát từ Tả Giang, Hữu Giang đi thẳng vào sông Bằng Giang của họ. Đại quân ta sẽ đóng ở Ngũ Hoa. Từ đó, ta đánh chiếm các châu quận lân cận, mở ra một vùng rộng lớn thông thương cả hai bên nam – bắc. Và đấy chính là quốc gia của chúng ta. Tới lúc đó, dù vua Tống không muốn phong vương cho chúng ta cũng không được. Đoàn Kính Chí lấy làm tâm đắc, tiếp lời: - Tướng quân mưu việc như thần. Nhưng theo thiển ý, ta cứ nán chờ vài bữa xem Hoàng Ân Vinh phúc đáp sâu nông thế nào. Lại nói, Hoàng Ân Vinh đang lo liệu cắt đặt việc phòng thủ và chờ viện binh của triều đình, chợt quân vào bẩm: - Xin Hoàng châu mục cho tra xét tên giặc này. Chúng tôi bắt được nó hồi đêm. Nó vượt sông bằng một chiếc thuyền mủng. Trước khi lên bờ nó còn kịp dìm thuyền. Hoàng Ân Vinh nhìn tên giặc mặt còn non choẹt. Điệu bộ nó ngơ ngác như không hiểu vì sao người ta lại bắt nó. Nó nhìn Hoàng Ân Vinh một cách ý tứ rồi đưa mắt ra hiệu như thầm nói: “Tôi có chuyện cơ mật cần thưa với ông”. Châu mục bèn hỏi đám lính: - Vậy chớ các người khám xét nó chưa? - Dạ bẩm, chúng tôi khám kỹ lắm rồi, trong người nó không có một tí gì cả. Tiền bạc, giấy tờ, võ khí đều không có. Hỏi nó chỉ lắc đầu rồi chỉ tay vào bụng, lại giơ chân giơ tay ra hiệu như đi cày đi cuốc. Chúng tôi đoán là nó không nói được tiếng người mình. Nó đói, sang ta để kiếm việc làm, kiếm ăn. Hoàng Ân Vinh chợt loé ở trong đầu về một âm mưu gì của quân địch, cả cái nhìn tự tin của nó lại như ngầm nói một điều gì. Nghĩ vậy, ông cho những người lính lui. - Các người về trại đi. Gắng canh phòng cẩn mật, để ta tự tra xét tên giặc này. Châu mục Hoàng Ân Vinh tự tay cởi trói cho tên giặc, rồi chỉ cho y ngồi xuống chiếc ghế đối diện với ông. Rót cho y một chén rượu, ông đặt xuống kỷ rồi nói: - Nhà ngươi uống đi cho ấm. Tên giặc trẻ măng, độ hai mươi tuổi, không nói năng gì, đưa tay chộp lấy chén rượu, y cứ xoay mãi trên tay một lúc lâu rồi ngửa cổ uống cạn. Lại đặt chén vào chỗ cũ, vẻ như muốn xin được uống nữa. Hoàng Ân Vinh rót cho y tới chén thứ ba. Cử chỉ của hắn vừa có phần nho nhã, lại vừa có phần thô lậu, khó hiểu. Nhưng sau chén thứ ba thì hắn úp chén xuống khay, vái Hoàng Ân Vinh hai vái, và nói: - Đa tạ quan châu cho uống rượu. Hắn nói bằng tiếng Nùng, thứ ngôn ngữ của chính quan châu. Hoàng Ân Vinh không ngạc nhiên. Biên dân cả hai nước đều là người Nùng. Họ hàng bên này bên kia chằng chịt. Điều lạ là hai bên biên dân đều coi nhau như bà con chứ không bao giờ coi nhau là cừu thù. Tuy vậy nếu biên tướng bên kia có xua lính sang bên này cướp bóc, lấn đất thì lập tức dân bên này sẽ chống trả quyết liệt. Vì vậy, việc biên cương, việc quốc thổ trở nên rõ ràng, còn mọi mối quan hệ khác đều gác ra lề. Châu mục Hoàng Ân Vinh nhìn tên giặc quát hỏi: - Ai phái ngươi sang đây? Có điều gì cứ khai thực ra đừng để ta phải tra khảo. - Bẩm Hoàng châu mục, Dương tướng quân sai tôi mang thư tâm phúc sang dâng ngài. - Thư đâu? – Hoàng Ân Vinh hỏi. - Xin quan châu cho phép tôi vào “nhà sau”. Hoàng Ân Vinh chỉ cho hắn đi ra lối sau nhà. Hắn loay hoay lấy từ hậu môn ra một cuộn giấy nhỏ bọc vải tẩm sáp. Vứt vỏ ngoài đi, hắn trải tờ giấy bằng bàn tay chữ viết nhỏ li ti ra trước chiếc kỷ của quan châu. Hoàng Ân Vinh đọc đến đâu, tai đỏ tía lên đến đấy. Ông tự nhủ: “Làm thế nào bây giờ. Giặc vừa dụ ta hàng vừa khuyên ta làm nội ứng. Rồi lại đe, nếu ta không ưng thuận thì “Đại quân kéo sang, vàng ngói khó phân”. Ta là người của triều đình, ăn lộc triều đình. Chỉ tiếc là ta đã có sớ cáo cấp về triều, mà chưa thấy có quân binh lên trợ chiến. Giả như binh giặc kéo sang, thì một nhúm quân biên trấn này, làm sao cản nổi. Không phải ta không biết tương kế tựu kế để dùng phản gián. Song không có thượng cấp ở đây mà ta tự tiện, triều đình lại nghĩ ta có bụng theo giặc thì nguy lắm…” Hoàng Ân Vinh vừa đọc thư dụ hàng vừa vẽ ra biết bao điều lợi hại, phải quấy ở trong đầu. Ông chưa kịp hỏi thêm tên ngoại gián điều gì, thì có ngựa lưu tinh đem hoả bài về báo: “Quan thái uý sắp tới, châu mục châu Bình Lâm phải ra nghênh đón tại địa đầu châu giới”. Hoàng Ân Vinh vội nhét lá thư vào túi, nói với tên ngoại gián vài câu nửa kín nửa hở: - Ta có việc phải đi gấp. Tạm giam người rồi ta sẽ có thư phúc đáp sau. Tên giặc từ nãy vẫn lo lắng, bỗng vui hẳn lên, y nói nhanh: - Đại nhân phải cẩn trọng kẻo lộ ra cả đại nhân và tôi cùng chết đấy. - Ngươi khỏi lo. Vậy chớ tên ngươi là gì? - Dạ bẩm, Trương Minh Tú, tự là Tử Minh ạ. Hoàng Ân Vinh vẫy tên Tú theo ông ra cửa. Gọi viên ngục lại tới gần, ông nói: - Giam tên giặc này vào ngục, cho nó ăn uống đầy đủ, đợi ta về tra xét, cấm không được đánh đập tra khảo nó. Nói rồi ông quất ngựa cùng đám tuỳ tùng ra đi. Đón được Thái uý, Hoàng Ân Vinh mừng lắm. Nhằm lúc mọi người dãn ra, viên châu mục tiến sát lại gần Thái uý, nói nhanh: - Châu mục tôi có điều cơ mật khẩn cấp mong được sớm trình quan Thái uý. Nhìn vào tận đáy mắt Hoàng Ân Vinh cùng với gương mặt ông ta đầy vẻ âu lo, Thái uý chỉ vào một ngôi chùa trước mặt hạ lệnh: - Cho ta ghé vãng cảnh chùa này. Thế là cả đoàn người, ngựa rầm rập rẽ vào ngôi chùa cổ; nhưng ông bắt cả đám tuỳ tùng và lừa ngựa phải ở ngoài, chỉ có mình ông và châu mục Hoàng Ân Vinh vào trong chùa. Đại lão hoà thượng chống cây thiền trượng, mặc áo cà sa vàng, đầu đội mũ nâu đang từ trong nhà bái đường bước ra. Hoà thượng có gương mặt phúc hậu, đôi tai to, dái tai chảy xệ xuống như tai Phật. Hai hàng lông mi bạc trắng rủ xuống, nom cụ có cốt cách của bậc tiên, Phật. Bước tới giữa sân thì gặp thái uý và châu mục, cụ dừng lại nói ngay: - Bần tăng nghe như có sứ giả của triều đình ghé thăm chùa vì chuyện quốc sự, đã cho dọn sẵn một trai thất, xin mời chư vị cứ tuỳ tiện. Nghe hoà thượng nói, Thái uý cảm như đứng trước mình là một bậc chân nhân đại giác. Ông cúi xuống xá hoà thượng và đáp lời: - Để hoà thượng phải nhọc lòng, bản chức đây thật là đắc tội. Xin hoà thượng đại xá. - Không nhiều lời! Không nhiều lời, hoà thượng nói và chỉ Thái uý lối vào trai phòng. Thái uý và quan châu mục bước vào trà thất. Hương trầm thoang thoảng, bộ kỷ sạch bóng, màu gỗ gụ nâu ấm áp lại sẵn có bình trà ủ nóng. Cạnh kỷ là một giá bày đủ đồ văn phòng tứ bảo. Một tiểu tăng ló vào chào: - Bạch các quan, tiểu tôi xin được hầu trà. Vừa nói tiểu vừa rót trà mời hai quan khách. Mùi trà thơm như ẩn như hiện nơi thành chén. Nhận chén nước còn bốc khói, Thái uý ra hiệu cho tiểu lui ra. Khi chỉ còn hai người, thái uý hỏi: - Chẳng hay Hoàng châu mục có tin gì quan trọng, thử nói ta nghe. - Dạ bẩm Thái uý, đêm qua biên quân đi tuần giang bắt được một tên lính của người man Tống, y có đưa bức thư dụ hàng. Tôi tự xét đây là một việc lớn mà mình chỉ là một biên quan, nên đem dâng Thái uý để ngài xem có dùng được vào việc gì. Nói rồi, Hoàng Ân Vinh đặt lên mặt kỷ tờ giấy nhỏ bằng bàn tay. Ông cứ cố vuốt, xoa cho mặt giấy phẳng ra để thượng quan đọc được rõ. Đỡ lấy tờ giấy, Thái uý đọc đi đọc lại tới ba lần. Mỗi lần đọc xong, gương mặt ông lại rạng rỡ hơn lên. Dường như ông tìm ra được điều gì tâm đắc đằng sau các nét chữ kia. Chợt ông hỏi: - Hoàng châu mục đã có thư phúc đáp chưa? - Dạ, hạ cấp chỉ là một chức quan nhỏ nên không dám tự tiện. Xin thái uý khu xử việc này. - Vậy chớ tên lính người man Tống kia còn hay bộ hạ của ông đã giết rồi? - Dạ bẩm Thái uý, châu mục tôi sai nhốt riêng, cho ăn uống tử tế, không đánh đập, tra khảo, chờ tôi về sẽ xét sau. - Tốt lắm. Thái uý khen. Và ông hỏi thẳng: – Ta không nghi ngờ lòng trung của ông đối với triều đình, nhưng cho ta hỏi, có thế nào ông cứ nói thực ta nghe – Nếu như ông được toàn quyền thì việc này ông sẽ xử sự như thế nào? - Bẩm Thái uý, khó quá, tôi nghĩ việc này có mưu sĩ người Tống đứng sau người man của họ. Chứ người man Tống làm gì có đầu óc xa rộng đến vậy. Từng phen giao tiếp với họ, tôi thấy họ còn trì độn hơn cả tôi kia. Còn như việc khu xử như thế nào, chắc Thái uý đã có diệu kế. Nhưng cứ như ngu ý của tôi thì ta nên tương kế tựu kế. - Thế nào là tương kế tựu kế, ông nói thử ta nghe. – Thái uý hỏi. - Dạ bẩm Thái uý, tôi từng nghe nói: nếu kẻ địch đã dùng nội gián, thì ta dùng kế phản gián. - Hay lắm, châu mục nói trúng ý ta. Thái uý lật đi lật lại và đọc rất kỹ thư dụ hàng của Dương Trường Huệ. Rồi ông ghé tai nói nhỏ với châu mục Hoàng Ân Vinh. Lúc chia tay, thái uý lại nhắc: “Châu mục cứ yên tâm, ta sẽ cho người đến cùng ông lo liệu. Nhất nhất không có lệnh của ta, không được tự tiện”. Thái uý không về châu lỵ mà ông về thẳng trung quân. Lại nói Lý Công Uẩn sau khi đã trao việc lưu thủ kinh sư cho hoàng thái tử Lý Phật Mã, và sai tướng công Trần Cảo, hoàng thúc Vũ Đạo vương đồng giám quốc, nhà vua bèn lui vào hậu điện nghỉ ngơi. Nhà vua đang nghĩ: “Lần này phải đánh cho giặc man Tống một đòn chí tử, để triệt bỏ tận gốc mưu đồ thôn tính nước Nam của Tống Chân tông”. Giữa lúc ấy ngoài tàu, con ngựa bạch nhà vua thường cưỡi cứ đập móng hí lên từng hồi dài. Viên giám mã tưởng nó bị đói, đem thóc, đem cỏ vào, nó không ăn, đem nước vào nó cũng không uống. Giám mã vừa bước ra khỏi chuồng, nó lại hí, lại đập móng ầm ầm. Đây là một con ngựa quý nòi Hồ của một thương nhân nước ngoài, nhân chuyến ghé đội thương thuyền qua Nam Việt mua các thứ quế, hồi, hạt tiêu, trầm hương; khi vào yết kiến nhà vua, y đem dâng ngựa quý. Chẳng biết ngựa xích thố của Quan Vân Trường xưa đi mỗi ngày bao nhiêu dặm, chứ chú ngựa này chạy một mạch cả trăm dặm chưa cần nghỉ ngơi ăn uống gì. Từ khi được tặng ngựa quý, nhà vua hay đi tuần thú hoặc săn bắn. Ấy vậy mà bữa nay nó lại đốc chứng, cứ hí vang lên không ai dỗ dành được. “Hay nó có bệnh gì”. Viên giám mã nghĩ vậy rồi chạy vào nhà. Với vẻ hốt hoảng, hắn quỳ tâu: - Muôn tâu thánh thượng, con tuấn mã thánh thượng thường cưỡi bỗng nhiên đốc chứng, cứ hí vang lên rồi gõ móng ầm ầm. Thần đã dỗ dành, nó vẫn không nghe. Xin bệ hạ cho vời thái y. Vua Thuận Thiên đang nghĩ về việc đêm nay ngài sẽ đích thân lên biên thuỳ xem các tướng sĩ sắp vào trận đánh, mọi sự đã sẵn sàng chưa. Nghe viên giám mã tâu, nhà vua biết ngay con bạch mã này thuộc nòi linh mã, nên nó hiểu được cả ý nghĩ ta. Càng bước gần tới tàu ngựa, nhà vua càng nghe rõ tiếng ngựa hí, cả tiếng móng gõ xuống sàn “bịch bịch”. Thấy nhà vua tới, nó không đập móng nữa, mà chỉ hí dài một hồi rồi im bặt. Vua lấy tay sờ vào mặt vào lưng nó. Con ngựa vừa lắc bờm vừa rên lên như là nó biết chủ muốn nói điều gì. Một lát, nhà vua ghé tai nó nói nhỏ: “Đêm nay ta sẽ cùng ngươi lên biên ải”. Con ngựa hít tay nhà vua rồi lắc bờm, vẻ như nó hiểu điều nhà vua nói. Lạ thay, từ lúc đó tới khi lên đường, nó không lồng lộn phá chuồng đòi ra, cũng không hí lên một tiếng nào nữa. Nghiệm ra, không chỉ lần này mà còn nhiều lần khác, con bạch mã luôn báo trước cho nhà vua những điềm may rủi. Vì lẽ đó, nhà vua đặt cho nó cái tên: “Bạch long thần mã”.