Q1 Chương 12.
Trương Minh Tú nhận thư phúc đáp của Hoàng Ân Vinh, cũng gói ghém cẩn thận như khi y đem thư của Dương Trường Huệ sang vậy. Vào tới trung quân, Trương Minh Tú dâng thư và một bọc gói niêm phong kỹ càng. Đọc thư, Dương Trường Huệ mừng lắm.
“Tướng quân biết đến gan ruột Hoàng Ân Vinh này. Ơn tri ngộ ấy biết lấy chi báo đáp. Tôi với tướng quân tuy không cùng quốc thổ, nhưng lại là người đồng tông. Bấy lâu nghe danh tướng quân, vẫn muốn sang đầu dưới trướng, ngặt vì chưa lập được chút công nào làm lễ ra mắt. Cơ may lại được tướng quân sai khiến, thật là trời giúp cho tôi được về với tướng quân. Nay xin gửi biếu tướng quân 100 nén vàng để làm lễ tương kiến, và xin gửi trước vợ con sang để làm tin. Tôi tuy thân sống bên An Nam mà từ lâu lòng đã để dưới trướng tướng quân. Xin tướng quân cứ vững lòng xuất chinh. Trận thắng này sẽ đưa tướng quân lên hàng vương bá. Tôi xin hẹn ám hiệu để quân ta tiến binh vào các nẻo đường không có quân phục. Ban ngày cứ theo hiệu cờ đen, ban đêm theo ánh lửa. Nhưng chớ đi lầm vào các nơi có đốt lửa của quân triều đình. Lửa ám hiệu bao giờ cũng là ánh lửa đôi. Tức là hai ngọn lửa cách nhau khoảng một trăm bước chân. Thư nói chẳng hết lời, chờ hội ngộ sau ngày đại thắng. Châu mục châu Bình Lâm, Hoàng Ân Vinh cẩn bút”.
Dương Trường Huệ chợt ngửng đầu lên vẫn thấy Trương Minh Tú chắp tay đứng hầu. Huệ đưa hai tay nhấc gói vàng nặng trĩu rồi xoa xoa vỗ vỗ, nửa muốn mở ra, nửa lại sợ đám cận thần nhìn thấy mà sinh lòng kia khác. Huệ nhét bức thư vào túi, cất gói vàng vào tráp rồi hỏi: - Tử Minh, ngươi ra dẫn Hoàng phu nhân và các công tử vào đây cho ta hỏi chuyện. - Bẩm chủ tướng, khi gần về tới đất ta, chẳng may chúng tôi bị lọt vào ổ phục kích. Chỉ có một mình tôi với người dẫn lộ, nên không dám mạo hiểm chống lại. Chắc Hoàng phu nhân và các công tử đã bỏ xác trong đám loạn quân, hoặc là bị bắt trở lại. - Việc này ta ngờ lắm. Liệu đây có phải là kế phản gián của họ Hoàng? - Bẩm chủ tướng, trước sau tôi vẫn thấy quan châu mục Hoàng Ân Vinh là người thực bụng, độ lượng. Còn việc vấp vào ổ phục kích thì làm sao mà tính hết được. Bởi ở vùng đất của Hoàng châu mục, ngoài quân biên trấn, còn có quân tuần thú vãng lai của triều đình. Hoàng Ân Vinh làm sao mà kiểm soát được quân triều đình. Nếu như Hoàng phu nhân cùng các công tử mà chết trong đám loạn quân chẳng nói làm gì. Điều đáng lo nhất là phu nhân và các công tử bị bắt, bị đòn tra phải khai ra thì Hoàng châu mục không tránh khỏi hoạ tru di. - Ngươi nói có lý. Thương thay! Thương thay! Để ta cử người đi dò la. Nhưng ta cấm ngươi không được nói gì về việc có thư phúc đáp; mà phải nói chỉ được nhận thư miệng của Hoàng châu mục. - Dạ, bẩm chủ tướng, tôi hiểu ý ngài. Vậy là Dương Trường Huệ không còn điều gì nghi hoặc về Hoàng Ân Vinh nữa. Cho Trương Minh Tú lui. Ông ta đem cất giấu gói vàng nơi kín đáo nhưng trước khi giấu, ông ta còn mở ra kiểm đếm. Xong xuôi mọi việc, ông ta cho thỉnh Đoàn Kính Chí tới thương nghị. Được tin, Đoàn Kính Chí mừng lắm, vội vã lên kiệu đi liền. Dương Trường Huệ ra tận cửa nghênh đón. Mới đầu xuân, tiết trời còn rét ngọt, chủ nhân cho đốt lò sưởi, lại sai bày tiệc rượu. Rượu trong quân tự cất lấy, sai hâm nóng rót ra thơm lừng. Mấy ả hầu rượu non tơ dâng chuốc hai vị đầu lĩnh. Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí là hai kẻ vô danh trong hàng hào phú, mới nổi chừng dăm bảy năm nay. Hai người ở hai bên Tả Giang và Hữu Giang, Huệ thuộc tộc Nùng, Chí thuộc tộc Thái. Hai bộ tộc man này đều là man Tống. Mấy năm liền mất mùa, dân chúng đói khổ, triều đình chẳng thương tình tha giảm tô thuế lại còn tăng mức thu cao, rồi bắt lính, bắt xâu hết đợt này đến đợt khác. Giữa lúc ấy Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí phất cao cờ nghĩa, chiêu tập nhân đinh, mua sắm lừa ngựa, khí giới lập thành quân cơ chống lại triều đình: không nộp tô thuế, không đi lính, đi xâu. Chúng dân sẵn lòng hờn oán, khác nào củi nỏ chỉ cần bén một tàn than. Thế là dân về tụ dưới cờ hai họ Dương, Đoàn đông như kiến. Mấy viên huyện lệnh lúc đầu coi thường, tới khi đám dân man thế lực hùng hậu nổi lên cướp luôn cả mấy châu quận. Quan hiệp trấn Quảng Tây có đưa đại binh về, nhưng giặc lớn không dẹp được, bèn tâu về triều. Triều đình bàn tính mãi, người nói phải dẹp ngay, chớ để nuôi mầm loạn. Người lại nói tình thế chưa dẹp được nên chiêu vỗ. Tống Chân tông không biết nên quyết thế nào cho phải. Lòng ông đang rối bời. Phía bắc thì quân Khiết Đan đang làm mưa làm gió. Chúng đã đoạt mất thành U Châu, Kế Châu. Triều đình cử hai hùng tướng là Tào Bân, Phạm Mỹ đi giải cứu cho hai thành U – Kế. Ngờ đâu hai tướng bị Khiết Đan hãm vào đánh cho đại bại ở cửa ải Kỳ Cấu. Nay lại đến chuyện bọn Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí làm phản ở phía nam. Cử tướng đi thì dễ, nhưng liệu có tránh được cái hoạ Kỳ Cấu không. Chân tông thật sự lo lắng, nhà vua gạn hỏi quan tri khu mật viện: - Vương Đán có kế gì nói thử ta nghe. Thấy vua hỏi, Vương Đán biết phận mình là đại thần mà phải để vua lo, tức là mình chưa làm tròn trách phận kẻ làm tôi. Song Vương Đán còn biết nhà vua nhu nhược, có dâng kế nọ sách kia thì ngài cũng chẳng nghe. Vương Đán nhớ cách đây không lâu, quan Tư không môn hạ thị lang, đồng bình chương sự Vương Khâm Nhược nói là có sách trời (Thiên thư) xuất hiện, phải làm lễ tế trời ở núi Thái Sơn. Vương Đán can vua không nên nghe theo lời nói nhảm mà khuyến khích cái tệ dị đoan. Vua sợ Vương Đán cản trở việc này nên gọi vào cung cho ăn tiệc, lại ban cho hũ rượu bổ. Đán về nhà mở ra xem thì thấy toàn ngọc quý. Đán biết vua muốn tế trời để nhận Thiên thư như nhời thiên hạ đồn thổi, nên không dám can nữa. Bây giờ vua hỏi, biết nói điều gì đây. Mà nói thì chắc gì vua đã nghe. Nhà vua chỉ thích sự yên ổn, và mọi lề thói cứ theo như đời xưa các tiên đế đã làm mà toa rập làm theo. Tuy vậy lại không thể không nói. Vương Đán liền bước ra khỏi ban, tâu: - Thiên tử thế thiên hành đạo. Kẻ nào xâm phạm kỷ cương, lễ luật là có ý làm đảo lộn cương thường, phải đánh dẹp ngay để giữ nghiêm phép nước. Theo thiển ý của thần, nhà vua nên gửi thêm quân cho quan hiệp trấn Quảng Tây, rồi mở một trận đánh khốc liệt, bắt kẻ kia về trị tội, làm gương cho những kẻ nào manh tâm tạo phản. Quả là nghe đến chuyện “đánh dẹp” nhà vua đã thấy nản. Bởi mọi cuộc đánh dẹp của triều đình đều thủ bại. Lòng vẫn phân vân, vua Chân tông bèn trỏ vào tể tướng Vương Khâm Nhược, hỏi: - Khanh có kế gì giúp trẫm yên được mặt nam? Vương Khâm Nhược xốc lại cổ áo, nắn lại chiếc mũ đội đầu, chải vuốt chòm râu rồi bước ra khỏi ban, tâu: - Để thánh thượng phải lo toan thái quá, lỗi ở chúng thần. Nay xin có một kế mọn dâng, mong thiên tử cứu xét – Trước hết phải nói đám man dân này chưa được nhuần thấm ơn mưa móc. Nay chúng khởi binh làm loạn, chẳng qua cũng như lũ giặc cỏ đi cướp bóc kiếm ăn. Triều đình dẹp lúc nào xong lúc đó. Nhưng thần thiển nghĩ không nên đánh dẹp, mà hãy khích lệ chúng đánh chiếm An Nam. Được đất An Nam, triều đình sẽ cắt thêm đất phong cho. Tức là cho lập quốc và ban ấp phong hầu. Đám dân man này ham quyền chức, ham tiền bạc, chúng sẽ lao vào quấy nhiễu An Nam. Nếu như nó gặm nhấm được đất ấy, thì triều đình cứ cắt đất phong hầu cho nó. Mặc nhiên người An Nam phải lo đối phó với nó, không thể nhòm ngó đất ta. Thiên tử rảnh tay, trừng trị giặc Khiết Đan trên mạn bắc. Chẳng hay ý bệ hạ thế nào? Vương Khâm Nhược có vẻ hài lòng về kế sách của mình lắm. Ông ta tự tưởng thưởng bằng một nụ cười mỉm, rồi nói tiếp – Bệ hạ dùng kế này, là bắn một mũi tên trúng ba đích như thần đã nói, chứ không phải hai đích như xưa nay dân gian vẫn ao ước. Chân tông dùng kế của tể tướng Vương Khâm Nhược, liền sai sứ đến vỗ về cho hai nhà Dương – Đoàn, lại cấp thêm lương thảo, khí giới, lừa ngựa qua hiệp trấn Quảng Tây và Tổng quản thành Ung Châu. Rượu được một tuần, Dương Trường Huệ mở lời: - Túc hạ có biết tôi mời túc hạ đến thương nghị về việc gì không? - Ta chắc ông có thư phúc đáp của Hoàng Ân Vinh. - Đúng vậy, ta mời túc hạ chính vì việc đó. Hoàng Ân Vinh rất mong được về dưới trướng của ta và túc hạ. Nhất là ông ta đã nhận làm nội ứng dẫn đường cho quân ta đánh chiếm đất đai, tiêu diệt quân triều đình An Nam. - Việc ấy có gì làm bằng cớ? Dương Trường Huệ bèn cất tiếng gọi: - Tử Minh! Quân bay truyền lệnh ta đòi Tử Minh vào hầu. Một lát, Trương Minh Tú đã có mặt. - Bẩm chủ tướng, Tử Minh tôi đang chờ ngài sai khiến. - Nhân có Đoàn tướng quân qua đây bàn đại sự, ngươi đã đến gặp châu mục Hoàng Ân Vinh, có thế nào thuật lại cho tướng quân cùng nghe. Đây là việc hệ trọng có quan hệ đến sự mất còn, ta cấm ngươi không được tự ý thêm bớt. Đã được chủ tướng căn dặn cần phải nói những điều gì, vì thế Tử Minh nói rất trôi chảy. Chỗ nào ngờ ngợ Đoàn Kính Chí hỏi lại, đôi khi cả Dương Trường Huệ cũng đặt câu hỏi xen vào nhằm gỡ bí cho Tử Minh, khiến Tử Minh ứng đối thật là lưu loát. Khi chỉ còn lại hai người, Dương Trường Huệ gạn hỏi: - Vậy chớ theo túc hạ, quân ta đã tiến binh được chưa? Đoàn Kính Chí trầm ngâm giây lâu, đáp: - Tôi có cảm nhận như công việc của chúng ta đang làm, được trời giúp. - Sao lại nói trời giúp, chúng ta nằm gai nếm mật, lại bỏ gần hết sản nghiệp ra gây dựng, nên anh hùng hào kiệt mới quy dưới trướng. Nay thanh thế lừng lẫy, lại đổ cho trời. Sao trời không giúp kẻ khác? - Tướng quân cứ ngẫm lại mà xem, từ khi ta cất quân tới giờ, nhất hô bá ứng, trăm họ theo về, thế như chẻ tre. Bọn quan quân triều đình từ châu, quận đến trấn, lộ đều kiêng nể. Nay lại được triều đình hậu thuẫn việc Nam chinh, sắp xuất binh thì có người nội ứng. Rõ ràng là THIÊN-ĐỊA-NHÂN ứng hợp. Cả thần, người đều giúp. Như vậy chẳng phải là trời giúp, chẳng phải là mệnh trời sao? Nghe lời nói lọt tai, Dương Trường Huệ gật gù đắc ý: - Đoàn tướng quân quả là sáng suốt. Nếu tướng quân không chỉ ra chỗ vi diệu đó, hẳn là tôi không nhận rõ được mệnh trời. Vậy tới bao giờ ta mới tiến quân để tuân phục thiên mệnh. - Trước khi tiến binh, ta nên bàn sau này nên thế nào. Ấy là tôi muốn nói việc tôi với tướng quân chiếm cứ hai vùng Tả Giang, Hữu Giang nay mai lại thôn tính thêm các châu quận của An Nam, thì việc lập quốc nên như thế nào. Ai sẽ lĩnh ấn phong hầu của thiên tử? Tôi hay tướng quân? Nghe Đoàn Kính Chí hỏi, Dương Trường Huệ cảm thấy nóng nóng phía vành tai. Huệ tự nghĩ: “Trước khi chiếm đất, đoạt thành, y đã có lòng kia khác. Nếu y không nể mặt ta thì cũng phải biết rằng, không có ta ứng hợp, một mình y sao đủ sức vẫy vùng. Thật ra ta mới xứng chức đại vương, còn y nhận chức giả vương cũng đã là quá lắm. Con sói tham lam này không trừ khử, ắt khó cho nghiệp lớn của ta. Ngặt vì bây giờ ta lại đang rất cần y. Đối với kẻ tham, không gì bằng lấy lợi ra để nhử”. Tự xem mình đã đi nước cờ cao, Dương Trường Huệ bèn lên tiếng: - Tôi với túc hạ tình là lân bang, nghĩa là bầu bạn. Nhưng mọi việc phải công bằng. Tính ra đường đất từ ta sang đánh An Nam, túc hạ phải đi xa hơn tôi. Thế tất túc hạ vất vả hơn tôi. Vì vậy số của cải lấy được của An Nam, bất luận cái gì đều chia làm năm phần, túc hạ ba phần, tôi hai phần. Đoàn Kính Chí gật gù, thầm nghĩ: “Phải, y nghĩ thế là phải, nhưng còn phải tính binh ta mạnh hơn binh hắn, quân ta đánh giỏi hơn quân hắn”. - Còn như ấn phong hầu thuộc về ai, – Dương Trường Huệ nói tiếp. – Thuộc về cả hai chúng ta, tôi nghĩ vậy. - Sao lại thế? – Đoàn Kính Chí vặn lại, ấn chỉ có một mà người có hai, phải bàn dứt khoát xem ai được giữ ấn. Dương Trường Huệ tự thấy không thể nhường y, lại càng không thể tranh với y trong lúc này. Bởi sự thật thì đã có ấn tín gì đâu. Mà chủ tâm của ta trước sau phải trừ khử y, hai hổ không thể sống chung một chuồng. Nghĩ vậy, Huệ lại nói: - Túc hạ nói chí phải. Chúng ta ngang tài, cân sức, không ai có thể ngồi trên ai được. Vì vậy, đánh dẹp xong ít châu quận miền biên viễn của An Nam, thế lực của chúng ta lớn lắm. Ta xin thiên tử phong hầu, ban ấn cho cả hai người. Nếu triều đình dùng dằng bức bách ta, thì chúng ta sẽ tiến binh vào trung nguyên, làm thế ỷ dốc cho Khiết Đan rồi cùng tiến đánh Biện Kinh. Sự thật, ta chỉ cần doạ như thế, thiên tử cũng đã phải nghe theo mà cắt đất, ban ấn, phong hầu cho chúng ta. Ta lại nói rõ cái nhẽ lợi hại có chúng ta làm phên giậu che chắn mặt nam, thiên tử càng yên bụng tin ta. Như thế ấn chẳng thuộc về cả hai chúng ta, còn thuộc về ai nữa. Vả lại, có ban cho chúng ta, thiên tử cũng chẳng mất gì. Nói xong, Huệ vỗ đùi cả cười. Đoàn Kính Chí cũng lấy làm đẹp ý cười theo. Hai viên tướng lấy làm thoả mãn vì đã thoả thuận xong việc chia chiến quả cùng ngôi thứ. Hai người cùng cười ha hả mãi không thôi. Rồi hai người hợp bàn kế tiến binh. Suốt một ngày tranh cãi, cuối cùng hai viên thủ lĩnh đều kết ngày Mậu Ngọ, giờ ngọ tháng dần năm Giáp Dần[60] cả hai đường thuỷ bộ đều tiến. Mỗi đầu lĩnh sẽ xuất năm vạn tinh binh, năm vạn dân binh, hai vạn năm ngàn lừa ngựa, thuyền bè, chiến cụ, lương thảo đầy đủ. Riêng lương thảo chỉ đem đủ dùng trong mười lăm ngày. Vậy là hai đầu lĩnh đều đã quyết tâm tử chiến với quân Nam. Lại nói vua Thuận Thiên rời khỏi Thăng Long vào đầu giờ hợi. Nhà vua chỉ đem theo một đô tùy long cùng vài viên đại tướng. Con Bạch long thần mã vừa được dắt ra khỏi tàu ngựa, chưa kịp đóng yên cương, nó đã đứng dựng hai chân lên như muốn bay vào không trung, rồi hí một hồi dài vang dội. Vua không dùng nghi vệ đế vương mà đóng giả như lính tuần thám. Tức là đội mũ phiêu kỵ, mặc áo chẽn tay, giáp hộ tâm, gươm bên sườn, giáo cầm tay. Đoàn người ngựa đi xuyên rừng lội suối suốt hai ngày đêm thì tới trung quân của thái uý Lý Trưng Hiền. Thái uý lúng túng: - Thần chưa kịp làm lễ cung nghinh, xin bệ hạ tha tội. - Đây là chốn quân doanh chứ không phải nơi triều hội. Ta miễn lễ. Cứ tuỳ nghi làm việc, không được để lộ hình tích ta, kẻo kẻ địch dò biết được thì hỏng kế của ta. Vua nói, và ngài hỏi tiếp: - Thái uý nói thử diệu kế phá giặc ta nghe. Thái uý mở bản lược đồ hành binh và kế sách phá giặc ra trình vua. Nghe Thái uý tâu trình, vua lấy làm đẹp lòng, lại hỏi: - Có phải Thái uý định lùa gọn hai mươi vạn giặc vào khu vực này rồi dìm chết chúng ở bến Kim Hoa? Nhà vua vừa nói vừa lấy bút son khuyên vào các địa danh trên đồ bản. - Trình bệ hạ, đúng như thế đấy ạ, Thái uý nói và cảm như nhà vua đã hiểu hết gan ruột mình. - Thái uý cùng chư tướng nghe ta dặn mấy điều. Giặc tràn sang ta, binh đông như kiến. Chúng tiến cả hai đường thuỷ bộ. Cho nên mọi sự mọi việc phải hết sức cẩn trọng. Phải coi địch thủ của ta là mạnh và giảo quyệt. Nên nhớ rằng đằng sau hai viên tướng man kia, là cả triều đình nhà Tống giấu mặt. Thử hỏi, không có lương thảo, khí giới của thành Ung Châu phát ra, không có lừa ngựa cùng sự thanh viện của hiệp trấn Quảng Tây, quân kia sao dám xuất binh ra khỏi cõi? Bởi thế, trong quân doanh của man Tống không thiếu gì mưu sĩ Tống. Quân ta đánh giặc lần này, danh là quân man Tống, còn thực là quân Tống trá hình. Vì vậy các tướng phải cùng binh sĩ hết lòng giết giặc, quyết không cho một tên nào chạy thoát trở về. Ta phải đánh, sao cho từ binh sĩ, quan tướng, lừa ngựa cho đến cả tể tướng Vương Khâm Nhược cùng Tống Chân tông, mỗi khi nghĩ đến mảnh đất phương nam này đều rùng mình sởn gáy. Ta đích thân cùng tướng sĩ chia sẻ nỗi khó nhọc nguy nan trong chiến trận, dù da ngựa bọc thây cũng cam lòng. Kẻ nào chùn bước, thối chí chính là kẻ thù của ta, kẻ thù của đất nước. Ai có công thì từ sĩ tốt đến tướng lĩnh đều được ban khen xứng đáng, tên tuổi được ghi trong sử sách, lưu truyền con cháu muôn đời. Trước giờ lâm trận, lời nhà vua nói thiêng liêng như lời non nước, các tướng đều khắc cốt ghi tâm để truyền lại cho binh sĩ dưới quyền. Thái uý cúi đầu: - Thần xin lĩnh mệnh. Nhà vua bèn trao cho Thái uý một lá cờ tiết, một thanh gươm báu và dặn: - Ta trao toàn quyền chỉ huy việc phá giặc cho Thái uý, trong lúc cấp bách cứ tự tiện điều hành không phải hỏi lại ta, kể cả việc giữ nghiêm quân mệnh, kẻ nào có tội cứ chém trước tâu sau. Thái uý đỡ lấy cờ, kiếm rồi lạy nhà vua hai lạy. Vua lui về biệt doanh, ở đây không có cờ quạt, tàn lọng, không có ca sang nhã nhạc. Lý Công Uẩn bước đi đầu hơi cúi. Ông đi dưới ngàn sao trong đêm và nhớ lại cách đây năm năm, ngày mới lên ngôi, một bữa trở lại gia hương làm lễ bái tạ tổ tông và thần, Phật trong làng rồi đêm đến ông đã đi như kẻ mộng du tới chùa Tiêu Sơn để gặp thiền sư Vạn Hạnh. Cái chính là để nghe thầy răn dạy. “Đạo làm vua phải lấy nước làm trọng. Nước phải lấy dân làm trọng. Vì không có dân chẳng những không có nước còn kể gì đến vua”. Điều thầy dạy ta không bao giờ dám nguôi quên. Ta được quần thần và trăm họ tin cẩn, trong năm năm qua chưa bao giờ ta dám ngủ trọn đêm, chưa bao giờ dám nghĩ đến sự thụ hưởng phú quý mà phải lo trả cái ơn tri ngộ cho muôn dân. Lê Ngọa triều để lại cho ta một đất nước nghèo xác với cả triệu dân đói khát lang thang. Quan lại thì tham nhũng và ác độc như hùm sói. Dân chúng điêu linh. Ta đã ráng sức mà mười phần công việc chưa chắc đã được một hai. Giận vì không làm được nhiều hơn nữa cho nước, cho dân. Ta đã cấp ruộng, đã khuyến nông, lại tha tô thuế ba năm liền, và xoá hết các khoản tô thuế mà dân còn nợ đọng, để người dân có thể ngóc đầu lên được. May, lại mấy năm liền trời cho được mùa, dân đã có bát ăn bát để, trong đất nước ta hiện không có một người nào chết vì đói cơm khát cháo. Các chùa chiền được tu bổ hoặc mới tạo dựng trong hương ấp ngày một nhiều. Thấy ta cho dựng chùa, đúc chuông, tạc tượng, cấp độ điệp cho dân chúng xuất gia, nhiều kẻ đã bài xích ta làm hao tổn của kho, dung túng cho những đứa lười nhác việc nông, trốn tránh sưu dịch. Đành rằng đã bày vẽ ra làm bất cứ việc gì cũng đều phải tốn kém. Nhưng cả một hương ấp, mấy trăm con người, lại không dựng nổi một ngôi chùa tranh, vách đất ư? Bất quá mỗi nhà chỉ góp một vài cây tre với vài ba ngày làm công quả, là có nơi để tâm linh đi về trú ngụ. Có nơi để dân làng bàn bạc việc công. Họ đâu biết ta làm như vậy, là nhằm dựng xây sự trường cửu cho quốc gia, dân tộc. Bởi chùa không chỉ là nơi dìu dắt đạo lý, tâm linh cho bách tính, mà còn là trường học, là nơi khai trí, rèn đức cho trẻ nhỏ; biết đâu nhân tài chẳng từ cửa đó mà ra. Cứ suy như ta, nếu không có cửa Phật cùng các bậc thiền sư lỗi lạc dìu dắt, thì lúc bé chỉ là một đứa trẻ chăn trâu, lớn lên bất quá trở thành một tên điền tốt chứ biết gì đến việc đời, việc nước. Các người bài xích ta đâu có biết dân chúng đang mê muội tin theo bọn đồng cốt. Họ đâu có biết bọn phù thuỷ lừa mị dân chúng, mù quáng thờ phụng bất cứ một cái gì mà chúng bảo là thần linh. Thôi thì đủ thứ từ gốc đa, gốc gạo đến viên đá bên đường; từ dâm thần, tà thần, đến ác thần… thứ gì chúng cũng đem ra hù doạ người dân thất học ngu ngơ. Một đằng cứ để cho bọn phù thủy, bọn đồng cốt quàng xiên ấy dắt dẫn dân chúng đi vào đường quanh ngõ cụt, tốn của hại người, một đằng theo về giáo lý Phật, tu tâm dưỡng tính, khai mở trí tuệ, thiện hoá bách tính, đằng nào lợi hơn cho dân, cho nước? Nếu đương thời vì mù quáng không hiểu ta, hậu thế vì cố chấp không hiểu ta, do đấy lịch sử coi ta như một kẻ mê muội cuồng si Phật pháp, thì kệ thây cái thứ lịch sử mù loà ấy. Điều ta cần thấy nhỡn tiền là phải làm cho dân sinh được no ấm, dân trí được khai mở, dân tâm được yên định, xã hội được thái bình, cái thiện được ở ngôi. Ôi, nếu làm được điều đó, thì ta dẫu chết cũng không có gì phải ân hận. Còn như kẻ lười nhác trốn tránh việc nhà, việc đời thì thời nào chẳng có. Hãy xem dưới thời Lê Long Đĩnh, triều đình không cấp độ điệp cho những người có chí hướng xuất gia, cũng không khuyến khích việc tạo dựng chùa chiền, thế nhưng người lười nhác, người lang thang cơ nhỡ vẫn đầy đường chật quán. Mà tháng ba, tháng tám người chết đói nhan nhản khắp chợ, cùng quê. Bất hạnh thay, người lười nhác nhất nước, tàn bạo nhất nước, phá hoại nhất nước lại chính là đức vua – đó là Ngọa triều Lê Long Đĩnh. Sao ngày đó, ta không thấy ai kêu ca gì hết. Hay nó đã là một đại hoạ tràn lan khắp nước rồi, nó nhiều quá rồi, người ta không còn kêu vào đâu được. Còn ngày nay, vì nó ít quá, nên ai cũng nhìn thấy, bởi thế họ mới kêu ca. Nhà vua đang triền miên suy tưởng, bỗng nghe thấy ầm ào như tiếng thác reo từ xa vọng lại. Đêm tịch mịch, tiếng động mỗi lúc một rõ hơn, mạnh hơn, gần hơn. Vua đang căng tai nghe động tĩnh, chợt có ngựa lưu tinh đem tín bài về dâng. Đọc xong mấy chữ “TẶC ĐÁO BIÊN THUỲ”[61] trên tín bài, nhà vua “hừm” một tiếng, gương mặt ngài trở nên rạng rỡ. Đoạn ngài nói như một tiếng reo vui: - Ôi Tống Chân tông!