← Quay lại trang sách

Q1 Chương 13.

Sau khi cho quân đi do thám biết vợ con Hoàng Ân Vinh nhân đêm tối đã trốn thoát, việc không bại lộ, Dương Trường Huệ bèn gửi mật thư cho Ân Vinh hẹn ngày giờ tiến binh. Ân Vinh phúc đáp: “Tôi đã nhận được thư hẹn ngày tiến binh của tướng quân. Các ám hiệu xin cứ theo như cũ. Tôi nóng lòng chờ đợi tướng quân cùng đại binh để sớm thoát khỏi cảnh cá nằm trên thớt này”.

Đúng như hai viên đầu lĩnh đã hoạch định, giờ Ngọ, ngày Mậu Ngọ, tại trung quân làm lễ tế cờ rồi hai đường thuỷ bộ cùng nhằm hướng nam thẳng tiến. Hai mươi vạn quân đi ào ào như bão ngàn thác đổ. Quân đi tới đâu cây cỏ nát tươm, trơ trụi. Khi vào tới đất An Nam, tướng tiên phong Quách Thịnh, Hoàng Bào dẫn ba trăm kỵ binh, nỏ cứng, giáo dài đi trước thăm dò, cứ theo đường có ám hiệu khói lửa như đã hẹn, quả nhiên không có quân phục. Các tướng Chu Thiên Tước, Đinh Nhược Thảo dẫn một đội khinh thuyền đi trước thăm dò. Suốt một dải dài mấy chục dặm ven bờ, cờ đen cắm thưa thoáng, tinh ý lắm mới nhận ra. Cũng như tín hiệu lửa, tín hiệu cờ dẫn đại quân vào đường không có quân An Nam phục. Thế là năm ngày sau, hai mươi vạn quân binh, dân binh cùng hơn năm vạn lừa ngựa, hàng ngàn cỗ xe, hàng ngàn chiến thuyền, hàng chục vạn hộc lương cứ ùn ùn kéo vào đất Bình Lâm, Quảng Nguyên. Cờ xí rợp trời, ngựa xe chật đất. Quân tới bến Vạn Hoa thì dừng lại lập doanh trại với bốn đạo quân án ngữ bốn hướng đông, tây, nam, bắc cùng với đại trại ở trung quân là năm trại, nên gọi “Trại Ngũ hoa”. Quân đi như đi vào chỗ không người, lòng quân sinh kiêu. Suốt ngày đêm ca hát, tiệc tùng. Tại đại trại lập hai trướng hổ cho Dương Trường Huệ và Đoàn Kính Chí. Không ra mặt, nhưng ngày ngày Hoàng Ân Vinh đều cho người lén đem các đồ sơn hào hải vị, cùng châu báu vàng bạc đến dâng tại trại giặc kèm những lời tâng bốc hai viên đầu lĩnh, như là hai bậc đệ nhất anh hùng của cả vương triều Tống. Dương Trường Huệ cứ đọc đi đọc lại mãi cái đoạn Hoàng Ân Vinh viết: “… Ngọn cờ của nhị vị tướng quân trỏ về phương Nam, phương Nam tan tác. Quân triều đình chạy một mạch về đến Thăng Long, chắc chửa hoàn hồn. Hai tướng quân không việc gì phải nhọc lòng đánh dẹp làm gì. Thiết nghĩ, nhị vị cứ kê gối cao nằm khểnh hưởng cho thoả thuê của ngon vật lạ và khí hậu ấm áp phương Nam. Tôi chắc rằng chỉ nửa tuần trăng, Lý Công Uẩn phải tự trói mình đến nộp mạng và dâng nước cho nhị vị. Khi An Nam đã lọt vào tay nhị vị rồi, thì nhị vị đòi gì thiên tử chẳng nghe theo. Tôi được biết, hiện nay mặt bắc, quân Khiết Đan đang thắng lớn… Thư nói chẳng hết nhời. Hẹn ngày hội ngộ tại Thăng Long.” Thư và quà biếu tặng hàng ngày của Hoàng Ân Vinh, khiến hai tướng man Tống có cảm giác như họ đang dẫn đại binh tới một miền đất trù phú để tĩnh dưỡng. Vì thế trong quân suốt ngày chè chén phè phỡn. Lính uống say rồi lùng sục vào các thôn bản lục soát của cải, tìm kiếm con gái, đàn bà. Trung quân thì hết đại tiệc này đến đại tiệc khác, hầu non, gái đẹp vây bủa từng đàn. Suốt ngày đêm, nơi trướng hổ vang lên lời ca tiếng nhạc. Suốt ngày đêm, các đầu lĩnh say sưa hành lạc. Thấy các chủ tướng không nghĩ gì đến việc đánh dẹp, các bộ tướng liền can: – Ta đem đại quân vào đất giặc, cốt đánh tan quân nó, bắt sống vua nó, chiếm đất đoạt thành, cớ sao chủ tướng đóng quân lâu vậy, sợ trong quân sinh lòng trễ nải. Dương Trường Huệ đã ngà ngà say lại đang ôm một mĩ nữ ở trong lòng, thấy có kẻ muốn phá cuộc chơi, bực lắm, Huệ quát: - Mày là thằng nào mà dám lên mặt dạy tao? - Bẩm tướng quân, tôi là Quách Thịnh, xin chủ tướng lấy việc quân làm trọng. - Kẻ kia không phải dạy ta. Ta đem đại binh qua đây, lũ chuột nhắt An Nam run sợ vỡ mật ra chết cả rồi. Quân ta không mất một mũi tên mà thâu gọn mấy châu quận. Nay mai vua nó sẽ trói mình đến hàng dưới trướng. Cớ sao ngươi lại xui ta làm nhọc sức quân, phá vỡ cuộc vui của ta? Thấy chủ tướng khinh địch, Chu Thiên Tước vội can: - Sao chủ tướng không nghĩ đây là một “kế không thành” mà bên địch đang lừa ta. Binh pháp đã dạy: “Lấy hư làm thực, lấy thực làm hư, hư hư thực thực khiến kẻ địch không biết đâu là thực là hư”. Thần nghĩ rằng ta đang ở giữa vòng vây, xin chủ tướng nghĩ lại. Dương Trường Huệ được ăn uống các đồ kích dục, lại có hầu non cặp kè, lòng dục bốc lên che lấp cả sự sáng suốt nên rút gươm quát: - Ta cấm các ông không được nói việc tiến binh, khi không có lệnh ta không được tự tiện vào trướng hổ. Đi ngay! Các tướng quay ra. Tại trướng của Đoàn Kính Chí sự việc diễn ra cũng không hơn gì. Các tướng can mãi không được cũng nản lòng, mặc cho quân lính trốn đi tìm rượu, tìm gái xa quân doanh hàng chục dặm. Thấm thoắt quân nằm tại trại đã quá mười ngày, kho lương kho cỏ cứ vợi dần mà không có nguồn tiếp tế, viên quan quản xuất quân lương vào bẩm hai chủ tướng: - Lương, cỏ trong kho chỉ còn được non bốn ngày nữa, xin chủ tướng liệu định. Đúng lúc ấy lại có thư của châu mục Hoàng Ân Vinh đưa đến: “… Hoàng Ân Vinh tôi cúi đầu bái lạy, và xin cấp báo lên nhị vị tướng quân một tin vui. Nội trong năm ngày nữa, quốc chủ tôi sẽ có đủ lương, cỏ đưa tiến tận doanh trạm của đại nhân, xin đại nhân cử người tiếp nhận. Và đúng 10 ngày nữa kể từ hôm nay, quốc chủ tôi xin nộp ấn kiếm và xin rước nhị vị vào Thăng Long…” Đọc xong, Dương Trường Huệ cả cười rồi ném tờ thư vào mặt tướng coi lương: - Các ngươi chỉ là đám võ phu. Ta cất quân nhân nghĩa không cần dẹp, kẻ địch khắc tan. Nay mai ta vào Thăng Long nữa, thì đến thiên tử cũng phải sợ oai ta. Lũ các người thật có mắt mà như đui. Dương Trường Huệ lập cập chạy sang trướng của Đoàn Kính Chí báo tin vui. Đoàn Kính Chí tỏ vẻ nghi ngờ: - Túc hạ ạ, sao mãi không thấy Hoàng Ân Vinh ra mắt khiến tại hạ đâm ngờ. Có thể bọn ta mắc vào quỷ kế thì sao. Vài ngày nữa lương thảo hết, lòng quân chắc sinh biến. Tại hạ đã cho quân đi thám thính suốt ba chục dặm quanh vùng, tịnh không kiếm nổi một đấu lương thực. Nhà cửa của dân man thì trơ trụi, súc vật không còn gì. Dân không có một mống nào. Tại hạ nghi An Nam dùng kế thanh dã[62]. Xin túc hạ sớm liệu đi kẻo nguy đến nơi rồi. Đúng lúc hai tướng đang lo bị trúng kế, lo về quân lương thì Hoàng Ân Vinh cho chở lương đến ùn ùn tới cả trăm xe. Lại dâng các đồ sơn hào hải vị cùng vàng bạc châu báu nhiều vô kể. Thư Hoàng Ân Vinh còn nói rõ: “Quốc chủ tôi sợ đại quân đi lâu ngày, lương thảo có hạn nên đưa đến sớm hơn thư hẹn. Chiều nay tạm giao hai trăm xe. Thuyền lương đang gấp rút chở từ Thăng Long lên, cặp bến lúc nào, chúng tôi sai vận chuyển tới ngay lúc đó. Nếu thuận gió, đêm nay sẽ nộp thêm một ngàn xe lương, xin hai vị tướng quân cho dọn kho để thu nạp. Ngày mai vào đầu giờ tý, tôi xin được diện kiến để xin thể thức đầu hàng cho quốc chủ tôi”. Thấy vậy, cả hai vị đầu lĩnh đều giải toả được mối lo. Vì vậy các cuộc vui không gì ngăn cản được. Lại nói về phía quân Nam. Vua Thuận Thiên hằng ngày theo sát mọi diễn biến bên trại giặc và việc bài binh bố trận của thái uý Lý Trưng Hiền cùng chư tướng. Về phía giặc, có ba điều thủ bại khiến nhà vua yên tâm: Một là tướng giặc tuy có nghi nhưng vẫn tin vào kế trá hàng của Hoàng Ân Vinh. Hai là lương thảo của giặc sắp cạn kiệt mà không có nguồn tiếp tế cùng quân tiếp viện. Ba là giặc chờ quân ta đến hàng chứ không triển khai thế trận. Về phía quân ta cũng có ba điều khiến nhà vua tin là chắc thắng. Một là binh sĩ, vua tôi một lòng thề quét sạch giặc ngoại xâm. Hai là quân tinh, tướng dũng đồng cam cộng khổ. Ba là thế trận đã bày xong mà quân thù không hay biết một tí gì. Đêm ấy, đứng giờ tý, Hoàng Ân Vinh cho ngựa lưu tinh đem hoả bài cấp báo đến trướng hổ của Dương Trường Huệ, xin nộp kho một ngàn xe lương. Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí bước ra khỏi trướng nhìn bầu trời phía đông rực sáng, tiếng người tiếng ngựa ầm ào liền hỏi kẻ báo tin: - Quân kia nói ta nghe, sao nộp lương lại đốt lửa sáng rực trời, ta còn thấy cả tiếng ngựa, tiếng quân là cớ làm sao? Người cầm hoả bài quỳ xuống tâu: - Bẩm đại vương, hàng ngàn xe lương đi trong đêm mà không có đèn đuốc thì đi làm sao được. Vả lại không đốt đèn, đốt đuốc binh tướng của đại vương đi tuần, ngờ là quân gian xông vào đánh giết thì làm thế nào. Còn có tiếng ngựa, là ngựa kéo xe lương. Hàng nghìn xe lương phải có hàng vạn quân tải lương, sao ngăn nổi tiếng ồn. Nếu đại vương không cho nhập, tôi sẽ về bẩm chủ tướng cho xe lương quay lại. Được tôn vinh làm đại vương, lại nghe biện bác có lý có tình, hai vị đầu lĩnh hài lòng lắm. Đoàn Kính Chí liền phán: - Cho ngươi lui. Nói chủ ngươi chở gấp lương thực nộp kho đại vương đêm nay, không được chậm trễ nghe! Xong, Kính Chí quay nói với Trường Huệ: - Có nhẽ khi xe lương đến cứ một xe đổ kho của túc hạ, một xe đổ kho của tại hạ. Dương Trường Huệ cả cười: - Túc hạ phân minh quá, tại hạ xin chấp thuận. Lại quay ra nói với người của Hoàng Ân Vinh. - Tướng kia về nói với chủ ngươi, xe lương vào đến ngã ba bến Kim Hoa thì rẽ làm hai. Cứ một xe sang tả, một xe sang hữu đi thẳng vào kho mà đổ lương, không được làm kinh động đến núi rừng và giấc ngủ của quân ta. Nghe chưa? Tướng Nam giật mình tỏ vẻ sợ hãi, cúi đầu vái lạy: - Bẩm đại vương cho lui để tôi về trình chủ tướng. Nói xong viên tướng trẻ nhảy lên mình ngựa ra roi. Hai vị đầu lĩnh chia tay chui vào trướng hổ ngủ vùi. Đầu giờ tý, quân Nam đẩy một ngàn xe cỏ khô lèn chặt, chạy như bay vào hai kho lương của hai vị đầu lĩnh người man Tống. Cùng một lúc phóng hoả đốt cháy rụi hai kho lương lớn nằm giữa khu vực hai mươi vạn quân; kéo theo một đội kỵ binh tinh nhuệ tay cầm đoản đao, tay cầm đuốc, lưng đeo cung tên và khiên ào ào đốt trại giặc, xông thẳng vào hai trướng hổ định bắt sống hai viên đầu lĩnh. Thấy bốn bề lửa cháy cùng tiếng quân reo như vỡ trời, Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí vội nhỏm dậy quơ lấy binh khí nhảy lên mình ngựa cắm đầu chạy. Bộ tướng của hai đầu lĩnh chạy theo hộ vệ nhưng không thoát được vòng vây. Bốn bề tiếng reo như vỡ trời đêm. “Kho lương cháy hết rồi!”, “Dương Đoàn hai tướng tử trận rồi!”, “Chạy mau, anh em ơi!”. Đấy là quân ta đóng giả quân man Tống hò reo, khiến quân giặc càng hốt hoảng tìm đường tháo chạy. Quân man Tống vòng ngoài là dân binh, vòng trong là quân binh, giữa là kho quân lương. Họ qua nước Nam chưa gặp phải sự kháng cự nào, chỉ ăn chơi suốt ngày đêm, nên tinh thần lỏng lẻo. Kíp đến khi bị đánh bất ngờ từ trong đánh ra, phần nhiều trong số họ không kịp lấy binh khí mà quáng quàng tìm đường chạy. Họ tự giày xéo lên nhau mà chết, hoặc hàng vạn con ngựa sổng tàu chạy ra hỗn loạn, giày đạp lên đám quân kia chết vô số kể. Rồi những người lính An Nam thiện chiến, gươm sắc, giáo dài, sức lực dẻo dai họ chém tới mỏi tay mà quân giặc vẫn cứ ùn ùn hỗn loạn. Tất cả các nẻo đường chạy sang đất Tống, quân ta đều bịt kín. Mờ sáng, quân giặc lần qua các dòng suối cạn khô, định men ngược lên vùng biên ải, bỗng đâu ầm một tiếng, rồi nước từ trên cao ập xuống cùng đá lăn từ hai bên sườn núi, phút chốc dòng suối đã trở thành chiếc quan tài nước, vùi chôn không biết bao nhiêu xác giặc. Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí cùng bộ tướng không biết chạy đường nào, đành ngồi vào một góc núi tử thủ. Quân theo chừng vài chục đứa, bộ tướng dăm tên. Tất cả đều đã bị thương, không một kẻ nào còn nổi chiếc khăn, chiếc mũ che đầu. Trường Huệ, Kính Chí đều bị cháy trụi râu, mặt bị bỏng đen nhẻm, áo quần rách rưới tả tơi như một lũ ăn mày. Đánh đến khoảng đầu giờ thìn, quân ta đã chém trên năm vạn thủ cấp giặc, bắt sống chừng năm vạn tên với khoảng ba vạn ngựa chiến cùng binh khí thu không biết bao nhiêu mà kể. Hoàng Ân Vinh mặt hồng như lửa, mình mặc áo giáp, tay khiên tay giáo dẫn đầu đoàn quân đi lùng bắt tướng giặc, bỗng nghe tiếng gọi thất thanh: - Hoàng châu mục! Hoàng châu mục! Tôi ở đây cơ mà. Nghe tiếng gọi quen quen Hoàng Ân Vinh đang dõi mắt tìm xem người gọi ở đâu, thì người ấy đã tới trước đầu ngựa, khóc mà rằng: - Quân ta đại bại rồi! Có phải Hoàng châu mục đi tìm Dương tướng quân, Đoàn tướng quân không? - Đúng rồi, ta tìm hai vị ấy, nhưng ngươi là ai? Tên lính cười phô hai hàm răng trắng giữa cái mặt nhọ nhem bẩn thỉu: - Hoàng châu mục không nhận ra tôi thật ư? Tôi là Trương Minh Tú tự Tử Minh đem thư dụ hàng đến tiên sinh chứ ai. Hoàng Ân Vinh “à” lên một tiếng rồi quát: - Vậy ngươi phải mau mau dẫn ta đi cứu nhị vị tướng quân. Thế là Tử Minh dẫn đường cho quân ta đi bắt hai tên đầu sỏ giặc. Sự thật, y vẫn tưởng châu mục Hoàng Ân Vinh thực bụng hàng. Tới khi quân ta trói gô đám quân tướng giặc giải đi, Tử Minh mới biết châu mục trá hàng. Cũng chính lúc này Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí mới vỡ tỉnh rằng tướng An Nam dùng châu mục Hoàng Ân Vinh vào kế phản gián, mà ngay từ lúc nhận bức thư đầu cùng một trăm nén vàng Huệ đã nghĩ tới, nhưng không ngờ tới. Khi giải hai tên đầu lĩnh giặc tới trước trung quân, Hoàng Ân Vinh liền nói: – Như hôm qua ta đưa thư hẹn với nhị vị tướng quân, rằng giờ tỵ ngày hôm nay ta sẽ có mặt dưới trướng. Thế mà các vị chẳng chịu chờ ta. Lúc này Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí mới biết mặt Hoàng Ân Vinh. Hai người tức quá hộc máu ra phun phì phì, họ nhìn Hoàng Ân Vinh với lòng căm giận đến nỗi bốn mắt bật ra ngoài, con ngươi nổ tung. Họ chết mà chưa kịp hiểu rằng mình ngu dại. Vua Thuận Thiên sai Trung thư lệnh soạn biểu văn thắng trận dâng lên thiên tử nhà đại Tống. Lại ghi chú rằng: “Đoàn cống sứ đem theo chiến lợi phẩm dâng thiên tử nhà đại Tống, nay mai sẽ lên đường sang thượng quốc”. Vua sai quân chạy ngựa đến nộp ngay cho trạm tiếp sứ của nhà Tống trên địa đầu ải bắc. Quân biên trấn Quảng Tây nghe nói hai mươi vạn quân man Tống cùng biết bao tay anh hùng hảo hán dưới trướng Đoàn Kính Chí, Dương Trường Huệ bị tiêu diệt sạch sành sanh, chỉ trong một trận đánh kéo dài từ giờ tý đến giờ thìn thì xiết bao kinh hãi. Vì vậy họ đã sai ngựa lưu tinh chạy suốt ngày đêm đem biểu văn của quốc vương An Nam về triều cho thiên tử trù liệu. Vài ngày sau, những con ngựa, những tên lính man Tống còn sống sót bị quân ta bắt được giải đi. Dọc đường, cứ hễ trông thấy màu đen của cờ xí, màu đỏ của lửa ám hiệu là người ngựa lại hốt hoảng giày xéo lên nhau mà chạy. Và chúng lại chết thêm, chết thêm vì các thứ sắc màu kia ám ảnh.