Q1 Chương 14.
Vua Thuận Thiên đích thân giám sát cuộc hành binh của quân triều đình, nhằm đánh bại đám quân man Tống, từ lâu vẫn mưu toan nhòm ngó mảnh đất biên thuỳ của nước ta. Song điều quan yếu nhất lại ở chỗ, đánh vào các mưu toan xâm lăng của triều đình nhà Tống. Trận đại thắng này các tướng lĩnh, sĩ tốt hết thảy đều được thăng thưởng. Riêng châu mục châu Bình Lâm Hoàng Ân Vinh được nhà vua cho triệu về Thăng Long vỗ về.
Lần đầu tiên được đặt chân lên đất kinh thành hoa lệ, châu mục Bình Lâm không khỏi bỡ ngỡ, xao xuyến. Thâm tâm chàng vừa mừng, vừa lo. Ở Thăng Long cái gì cũng có, cái gì cũng đẹp, nhưng cái gì cũng đắt. Điều làm cho Hoàng Ân Vinh ngạc nhiên nữa là con trai con gái Thăng Long sao mà đẹp thế. Họ ăn vận nom cứ như các tiên đồng, tiên nữ mà nói năng mới dịu dàng lịch thiệp làm sao. Hoàng Ân Vinh được dẫn đi xem các cung điện trong hoàng thành, xem vườn ngự uyển, được vua ban yến, lại được đi dạo chơi phố phường ba ngày. Chàng tưởng như mình đang sống trong cõi thiên tiên. Sau vua cho gọi vào cung, ngài dạy: - Trong trận thắng giặc vừa qua, công của ngươi lớn lắm. Vậy ngươi có muốn ta ban thưởng cho cái gì, cứ thực nói ra. Hoàng Ân Vinh lúng túng chẳng biết nói năng hoặc xin nhận cái gì. Mãi lâu sau chàng mới nói lúng búng trong mồm: - Xin nhà vua cho về lại đất Bình Lâm. Vua cười khoan hoà: - Được! Được, rồi ta sẽ cho xe ngựa đưa khanh về đến tận nhà. Khanh nhớ rừng nhớ suối lắm sao? Hoàng Ân Vinh gật đầu. – Nhớ cả con nai con hoẵng nữa chứ! Thấy Hoàng Ân Vinh chân tình mộc mạc, lại chưa thông lễ nghĩa, nhà vua đem lòng cảm mến. Vua tự nghĩ, nếu như trên biên cương phía bắc của ta được dăm bảy người tài cán, đức độ và trung dũng như Hoàng Ân Vinh, thì ta đỡ lo biết mấy. Chính những người như thế này mới thực là phên giậu, là tai mắt của ta. Chợt vua phán: - Hoàng Ân Vinh, ta sẽ gả quận chúa, cháu gái ta cho ngươi. Hoàng Ân Vinh đỏ mặt lúng búng đáp: - Bệ hạ! Bệ hạ! Thần có vợ con rồi cơ mà. Vua cười ngất. Và càng thương con người chân tình, mộc mạc ấy: - Ta biết ngươi có vợ rồi. Nhưng ta cho ngươi thêm một vợ nữa, là cháu ta. Từ nay ngươi sẽ là quận mã, ngươi và con cháu ngươi nối đời được ăn lộc triều đình. Sau khi ngươi đã làm lễ kết tóc cùng quận chúa, ta ban cho ngươi chức Thiên hộ, tức ăn lộc một nghìn nhà. - Bệ hạ bảo quận mã ăn một nghìn cái nhà, ai mà ăn được nhiều thế? Vua cười vui về câu nói ngây ngô của chàng quận mã. - Ta nói ăn lộc một nghìn nhà, tức là một nghìn nhà dân phải đóng thuế, nộp tô cho ngươi. Ngươi dùng số tô, thuế thu được ấy mà chi dụng, biết chưa. - Dạ, thần biết rồi ạ. Bệ hạ, như thế có nhiều quá không? - Không nhiều đâu. Đấy là chế độ do triều đình quy định, ai ở hàng nào, chức nào được hưởng lộc đến mức nào đều rõ ràng cả. Cho hưởng vậy, để biết ơn trên mà gắng hoàn thành trách phận của kẻ chăn dân. Nhưng nhà ngươi có mấy việc lớn phải làm: - Một là lo cho dân yên ổn, không để xảy ra trộm cắp quấy nhiễu. Không để cho bọn hào trưởng, xã trưởng nơi làng bản ức hiếp dân. - Hai là, phải lo cho dân có đất cấy trồng, khuyến giúp người dân khai phá đất đai hoang hóa, cho giữ đất ấy làm tư điền. Lại miễn tô thuế cho họ năm năm. Nơi nào khai phá khó nhọc, tốn nhiều công sức, đất lại bạc màu thì tha tô thuế cho họ từ mười đến mười lăm năm. Ngươi phải gắng gỏi, sao trong châu hạt của ngươi không có người bị đói, khuyến dân giúp đỡ các người già không nơi nương tựa. Các con côi, goá phụ cũng phải lưu tâm đỡ đần họ. - Ba là, phải rèn luyện binh bị cho tinh, tuần cảnh nghiêm ngặt ngày đêm không cho kẻ gian, người lạ từ bên kia biên ải đột nhập vào đất ta dò xét. Muốn làm được việc ấy ngoài số quân, phải lấy dân làm tai mắt. Ai có công thì phải thưởng khen ngay, chớ có dây dưa lần lữa mà người dân nản lòng. Công lớn tâu về triều, ta sẽ khen tặng. Kẻ có lỗi thì khoan thứ, có tội phải nghiêm trị. - Bốn là, ngươi phải cho người sang đất họ buôn bán, làm ăn để dò la xem họ có mưu mô xâm lấn, cướp phá hoặc đặt nội gián trên đất ta không; hoặc có kẻ nào mưu mô tạo phản, ngươi cũng phải biết từ lúc mới manh nha. - Năm là, các trạm đổi ngựa nhằm thông đạt tin tức từ triều đình tới các miền biên viễn đặt trên đất ngươi, phải coi sóc cho chu đáo; lúc nào cũng phải có ngựa khoẻ, có quân túc trực. Các trạm đốt lửa làm hiệu suốt ngày đêm không bao giờ được tắt. Vì rằng ban ngày phải thấy khói bay lên, ban đêm phải thấy ánh lửa hồng. Cứ thế trạm nọ tiếp trạm kia, để cùng lúc ở kinh thành, ta có thể biết khắp bốn phương tám hướng trên đất ta, đang an bình, hoặc ở nơi nào đó có hoạ loạn. - Sáu là, ngươi phải săn sóc, phải đối xử tử tế với quận chúa. Cháu ta lá ngọc cành vàng, ngươi không được phàm phu thô lậu. Vợ chồng phải tương thân như tương kính. Nếu ngươi vì lỗ mãng mà xử tệ với quận chúa, sẽ mang trọng tội. Nghe nhà vua nói, Hoàng Ân Vinh cảm thấy lo hơn mừng. Thật ra các việc vua nói, từ trước chàng đã có làm, nhưng mới chỉ là loáng thoáng. Nay phải làm đầy đủ; phạm vào bất cứ điều gì cũng có tội. Chàng nhẩm tính: “Vậy là ta có năm điều phải làm mà điều nào cũng hệ trọng. Ngay cả điều thứ sáu là điều ta được ban, nhưng lại không hoàn toàn thuộc về ta, như vợ ta ở nhà. Khó quá, chàng nghĩ: ước gì ta không phải làm quận mã”. - Các điều ta nói, ngươi đã nhớ chưa? – Vua hỏi. - Bệ hạ, thần nhớ cả rồi. - Từ nay ngươi là con cháu của ta, là người tâm phúc của ta, mỗi việc làm của ngươi đều phải cẩn trọng, không được ỷ thế làm bậy. Không được khắc bạc với dân, với lính. Từ việc dân, việc binh, nhất nhất phải làm theo luật pháp ta đã ban. Nếu cố tình phạm tội, ta sẽ trị nặng gấp đôi người thường. Ngươi còn chưa thông lễ nghĩa, việc ấy quận chúa sẽ dạy cho. Vua nhìn Hoàng Ân Vinh với tấm lòng trìu mến và cả sự trọng nể nữa. Nhà vua tự nghĩ: – Biên cương phải có phên giậu, phải có thân vương trấn trị. Lại nói về nhà Tống, khi nhận được biểu chương của quan hiệp trấn Quảng Tây nói về đạo binh hai mươi vạn của Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí bị An Nam quét sạch trong thoáng chốc thì xiết đỗi kinh hoàng. Tống Chân tông nghe viên hàn lâm thị độc đọc xong lời biểu, ông như rã rời hết cả tay chân. Quần thần im lắng buồn thiu, như có quốc tang. Lát sau, viên hàn lâm thị độc nhắc khẽ: - Tâu hoàng thượng, còn biểu của An Nam quốc vương có đọc không ạ? - Đọc! Chân tông buông một tiếng cộc lốc. “Thần là mỗ quốc vương An Nam kính lạy thiên tử nhà Đại Tống. Vừa rồi, đám giặc cỏ đứng đầu là hai tên Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí đã dại dột nghe lời xúi bẩy của kẻ xấu, dám vô lễ đem binh xâm phạm nước của thần. Vâng mệnh thiên tủ, phải giữ cho nước phên giậu của thiên triều được an lạc, thần đã sai tướng đánh dẹp, giết không còn một mống nào. Chiến lợi phẩm thu được, đủ dùng cho binh của thần trong năm năm. Thần sẽ sai sứ đem chiến quả dâng lên thiên tử, chỉ nay mai là tới biên thuỳ. Xin thiên tử gia ân cho thông sứ lộ. Kính chúc thiên tử muôn năm trường trị”. Lời biểu của quốc vương An Nam đọc lên làm cả triều đình kính phục. Vương Khâm Nhược lo sợ vì đã xui Chân tông ngầm giúp đám tướng man binh khí, lương thảo, mưu lược để đánh An Nam. Cái hoạ này có kẻ nào cáo giác ra, hẳn ta sẽ mất đầu như chơi. Lại vừa rồi ta đi thương nghị với Khiết Đan, mang thất bại trở về. Nếu nhà vua gộp hai tội làm một, ta còn biết biện bác sao đây. Càng nghĩ càng thấy hối tiếc, tể tướng cúi đầu thu gọn người lại. Ông cứ tưởng làm như thế các bạn đồng liêu sẽ không nhìn thấy mình mà cáo giác. Trong khi đó, tri khu mật viện Vương Đán lại nghĩ khác. Ông cho rằng nước Nam đang cường thịnh. Không chỉ riêng việc họ vừa diệt xong hai mươi vạn quân man, có cả triều đình nhà Đại Tống đứng ở phía sau, mà còn bởi lời lẽ của Lý Công Uẩn rất là khí phách, vẫn giữ lễ với thiên tử, nhưng cũng là một việc làm bẽ mặt thiên tử. Cái giỏi của vị quốc vương này là lời lẽ ôn nhu không bắt bẻ vào đâu được, nhưng lại tỏ ra một đấng anh hùng, ngầm kiêu hãnh. Sự thật, muốn biết nước họ mạnh hay yếu, thịnh hay suy, cứ xem lời lẽ trong biểu của họ thì đủ biết. Cả triều hội nghe xong hai biểu chương vẫn im phăng phắc. Tống Chân tông ngao ngán không biết sẽ khu xử việc này ra sao. Nhà vua lên tiếng: - Các khanh thử nói ta nghe, có đúng là quân An Nam mạnh tới mức ấy không, hay chỉ là lời đồn? Rốt cuộc chẳng có ai chịu khai khẩu, vua bèn chỉ vào Vương Khâm Nhược: - Tể tướng nói thử ta nghe, sao trước kia khanh xui ta ngầm giúp đám man tướng này, là bắn một mũi tên trúng những ba đích kia mà. Không phải ai mà chính nhà vua cáo giác, Vương Khâm Nhược mặt tái xanh, lom khom đứng dậy: - Muôn tâu thánh thượng, quân An Nam quả là hiếu chiến, hung hãn. Nhưng chưa hẳn họ đã diệt được hết đám quân man kia; biết đâu họ chẳng khoác lác để doạ nạt thiên triều. Vương Khâm Nhược nói, các quan đều thấy khó nghe, đây chỉ là lời lẽ nhằm che đậy lỗi lầm. Binh bộ thị lang Trần Bình Niên có tiếng là người hiểu rộng, tính tình bộc trực liền xuất ban xin nói: - Tâu bệ hạ, tể tướng là bậc quan chấp chính đầu triều. Có tài thì giúp vua nên việc. Bất tài thì làm hỏng việc của vua, của nước. Thần xin cáo hạch tể tướng Vương Khâm Nhược mấy điều: - Một là dưới thời tiên đế, ông đã gièm pha bậc tể thần có tài kinh bang tế thế là khu mật viện trực học sĩ đồng trung thư môn hạ bình chương quân quốc trọng sự Khấu Chuẩn, đến nỗi ông này bị truất và phải đi đày, rồi chết ở Lôi Châu. - Hai là được vua uỷ thác cho việc thương nghị với Khiết Đan, thì ông đem cái nhục về cho nước. Từ nay mỗi năm nhà Đại Tống phải nộp cho rợ Khiết mười vạn lạng bạc cùng hai mươi vạn tấm lụa. Thật là ông có tài rút cạn của kho nhà nước đem dâng cho giặc. - Ba là ông xui vua ngầm giúp hai viên đầu lĩnh người man xâm lăng An Nam, để đem về cho vua ba mối hoạ: - Mối hoạ thứ nhất là người man oán bệ hạ đẩy họ vào chỗ chết. - Mối hoạ thứ hai là người An Nam oán bệ hạ, đã giúp người man xâm lấn nước họ. Vì vậy nếu có cơ hội nhất định họ sẽ quấy nhiễu Trung nguyên, để trả mối hận cừu này. - Mối hoạ thứ ba là người Khiết Đan biết chuyện thất trận lớn lao này, sẽ càng tác quái trên mạn bắc thuỳ, vốn đã khốn đốn của chúng ta. Rõ ràng là tể tướng thuộc loại “Nhất ngôn táng bang”[63], xin bệ hạ trị tội. Càng nghe binh bộ thị lang nói, Vương Khâm Nhược càng run sợ, mặt tái mét. Các quan thì hả lòng hả dạ, vì từ trước vẫn ghét thói gian nịnh của tể tướng mà chưa có cơ hội cáo giác. Tống Chân tông lòng đã rối, càng rối hơn. Triều hội ào ào đòi trị tội Vương Khâm Nhược. Chân tông nói: - Thôi được, trước hết ta truất ngôi tể tướng của Vương Khâm Nhược, giao cho bên kiểm pháp quan nghị tội. Nhưng còn việc “An Nam xin thông sứ lộ” thì làm thế nào. Lộ tiếp sứ đã có, đường đi lối lại từ trước tới nay đã có gì thay đổi đâu mà “xin thông sứ lộ”. Các khanh bàn kỹ việc này xem sao. Tri khu mật viện Vương Đán bước ra khỏi ban: - Tâu hoàng thượng, Binh bộ thị lang nói về tể tướng thế là rõ ràng, đầy đủ, thần chỉ nói đến việc An Nam “xin thông sứ lộ”. Vì sao họ lại xin việc này. Thần chắc chắn là đoàn cống sứ sắp tới sẽ đông đúc như cả một đội quân, sợ rằng thiên triều có sự hiểu lầm gây khó dễ. Nên phải xin thiên tử ban lệnh xuống các trấn lộ biết mà giúp đỡ. Lại vì sao sứ An Nam sang đông như vậy. Là bởi họ vừa chiến thắng một đạo quân lớn, chiến lợi phẩm ắt nhiều không kể xiết. Họ sẽ đem sang cống thiên tử thuần chiến lợi phẩm gồm các đồ quân dụng, binh khí, lừa ngựa của nhà Tống giúp quân man; có thể còn có tù binh hoặc đầu các viên tướng bị chém nơi chiến trận. Họ sang đông thế là còn có ý muốn khuếch trương chiến thắng của họ. Suốt mấy ngàn dặm từ biên ải về tới Biện Kinh, dân chúng hoặc bất kỳ ai nhìn thấy họ đi ngoài đường, sẽ đem lòng sợ hãi để đời. Rồi một đồn trăm, trăm đồn ức vạn, khiến ai không được trông thấy, mà chỉ nghe thấy cũng đủ sợ oai binh sĩ An Nam. Việc đó sẽ gây dấu ấn kinh hoàng trong binh sĩ của ta, nếu như lại có một cuộc Nam chinh. Thế nhưng lại không thể không cho họ sang. Vì rằng các biểu hiện bên ngoài của họ, vẫn một lòng thờ thiên tử, nạp cống thiên triều. Nếu lần này ta khước từ, thì An Nam sẽ vin vào đấy không bao giờ triều cống nữa. Vả lại nước họ đang cường thịnh, không nên làm mếch lòng họ. Hãy xem bài học Khiết Đan, chỉ vì ta vụng đường khu xử, nên càng ngày họ càng lấn ta. Xin thiên tử lượng định. Tống Chân tông nghe lời Vương Đán, xuống chiếu cho các quan sở tại có sứ giả An Nam đi qua, các đệ trạm phải tiếp sứ long trọng, cung đốn đầy đủ, nhất nhất không để xảy ra điều gì sơ khoáng. Trong khi đó triều đình An Nam lại nghị bàn việc đi sứ Tống nên như thế nào. Khai mở, vua Thuận Thiên nói: - Ta đã có biểu tâu thắng trận, xin thông sứ lộ lên Tống Chân tông. Vậy cống phẩm của ta lần này ra sao, các khanh thử bàn cho đến chỗ rốt ráo. Quan tả kim ngô Phí Xa Lỗi xin được nói: - Tâu bệ hạ, theo thiển ý của thần, sứ đoàn Nam Việt cùng các cống phẩm sang Tống triều lần này phải khác. Đây không phải là tuế cống mà là biệt cống, tức là nhân việc ta vừa thắng trận lẫy lừng, nay đem chiến công ấy dâng lên thiên tử nhà Đại Tống. Quan tả kim ngô lấy làm đắc ý về lời lẽ của mình, ông giả bộ sửa lại chiếc đai mũ, vén cánh tay áo thụng rồi tiếp: – Xin bệ hạ cử hai vị chánh phó sứ văn tài lỗi lạc, biện bác thông tuệ, rồi đóng hai chiếc hòm gỗ thơm, tạc hai cái đầu người giống hình Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí để dâng cho thiên triều. Việc này có ba cái lợi: - Một là làm bẽ mặt Tống Chân tông và cả triều đình của ông ta, vì đã xúi giục hai tên đầu lĩnh này, và cấp binh khí, lương thảo cho chúng xâm phạm cõi bờ ta. - Hai là “gây nỗi kinh hoàng để dạ cho vua tôi nhà Tống” như nhời bệ hạ thường nói. - Ba là nhân cơ hội ta sẽ ép nhà Tống phải nới lỏng một số điều, hoặc tôn trọng một số điều mà hai bên đã quy ước. Ví như việc đi sứ, việc tiến cống không nên bắt buộc theo chế độ một năm tiểu cống, ba năm đại cống, mà xin cho tuỳ tiện có điều gì cần tâu, có vật gì cần biếu thì đưa sang không kể hạn kỳ. Lại việc binh, việc dân ở biên thuỳ hai nước, phải tôn trọng, cấm ngặt các biên quan, biên tướng Tống cứ đẩy người sang ta làm lắm điều càn rỡ, hoặc gây rắc rối cho biên dân ta. Ví như việc họ cho dân sang xâm canh ở các vùng đất hẻo lánh của ta. Rồi đưa người sang xâm cư và cả xâm táng. Ít lâu sau họ nhận bừa đất ấy là đất của Trung Hoa. Tả kim ngô vừa dứt lời thì thái phó Đặng Văn Hiếu bước ra khỏi ban: - Tâu hoàng thượng, nước Nam ta vốn trọng nhân nghĩa và khiêm hoà, theo thần không nên làm điều gì gây tổn thương đến quan hệ bang giao giữa hai nước. Vả lại, nhà Tống hiện là một nước yếu, nhưng yếu là so với chính họ, so với các triều đại Hán, Đường thôi chứ không phải họ yếu so với ta. Đừng có dại gì mà chọc giận con hổ bị thương, con sư tử đang ngủ. Vậy sứ đoàn của ta số người cũng nên vừa phải, lễ dâng tiến Tống Chân tông gồm vài thứ kỳ trân bảo vật cho nhẹ nhàng, cốt ở cái tâm hơn là cái vật. Nước họ toả khắp bốn bể, thiếu gì của ngon vật lạ. Ngoài ra, thêm một vài vật thu được trong trận thắng vừa qua, cùng với tờ biểu của bệ hạ, lời lẽ ôn nhu thế là được. Thái phó vừa ngồi xuống thì thái uý Lý Trưng Hiền đã vội đứng lên xin nói: - Thần trộm nghĩ, với nhà Tống, ta vẫn giữ lễ hiếu hoà, nhưng không thể không tỏ cho họ biết sức mạnh của ta. Thật ra họ không thương gì dân ta, không quý gì vua ta. Chẳng qua cái thế không nuốt được, họ phải chịu. Nói đúng ra thì Tống Thái tông đã thử nuốt hồi năm Tân tỵ (981), nhưng Lê Hoàn làm cho họ hóc cứng họng không nuốt trôi được. Xem ra các triều đại của Trung Hoa từ xưa tới nay, không một triều nào không có ít nhất từ một đến hai cuộc xâm lăng nước ta. Xưa đã thế, nay vẫn thế, còn mai sau chắc cũng lại như thế. Vậy thời tại sao thỏ lại cứ phải thương cáo. Đó là chuyện ngược đời xưa nay. Thái uý ngừng lời, ngửng nhìn nhà vua cùng các bạn đồng liệt, ông nói tiếp: – Tâu bệ hạ, lễ cống lần này theo thiển ý của thần, chỉ nên dâng có một thứ thôi. Thái uý không nói nữa mà ngừng lại dò xem ý tứ vua và các quan. Bỗng vua giục: - Khanh nói lễ cống chỉ có một thứ, chẳng hay thứ gì đó, nói mau! - Tâu, xin bệ hạ cho chọn lấy năm trăm con ngựa quý trong đám năm vạn con vừa thu được của quân man Tống, cùng hơn ba trăm người đi theo đồ lễ đó. Xin bệ hạ lưu tâm, chỉ cần cái đoàn quân cống sứ ấy đi từ biên cương đến Biện Kinh, cũng đủ làm rã rời ý chí những kẻ có manh tâm xâm lăng Nam Việt. Vua cười ha hả: - Khanh quả thật là thâm thuý, nhưng như thế có nhiều quá không. Năm trăm ngựa Hồ là cả một đạo kỵ binh hùng mạnh của ta đấy. Quay về phía Trần Cảo vua hỏi: – Tướng công là quan đầu triều, thử nói ta nghe cao ý của ông. - Tâu bệ hạ, ý của quan thái uý thật là thâm viễn, bệ hạ nên y chuẩn. Xưa nay việc cống nạp với biểu chương của ta đưa sang nhà Tống, cùng việc ban ấn, phong thần, phong vương của nhà Tống đối với ta, nói cho cùng hai bên đều chẳng có bên nào thật lòng yêu kính bên nào. Thế thì nhân việc đánh bại một đội quân xâm lược lớn, đánh bại mưu đồ của triều đình Tống Chân tông, tại sao không nhân việc đó mà ra uy với thiên hạ. Theo thiển ý của thần, nên cho họ số ngựa vừa đủ để ra uy, chứ không nên cho năm trăm con ngựa chiến quý, biết đâu họ chẳng dùng ngựa ấy trở lại đất ta. Năm trăm ngựa chiến quý là cả một đạo kỵ binh đáng giá. Thần cứ nghĩ, độ hai trăm con ngựa nòi với hàng trăm kỵ mã, rầm rập kéo qua đường cái quan, đi suốt từ biên ải tới Biện Kinh, lại trương cờ sứ nước Nam nữa thì sự răn đe là lớn lắm. Xin bệ hạ lưu tâm. - Thôi được, ý các khanh tuy mỗi người mỗi khác, nhưng chỉ khác về tiểu dị, còn đại đồng đều giống nhau cả, đều hợp ý trẫm. Riêng việc Phí Xa Lỗi nói là dâng hai đầu tướng giặc. Ta biết rồi, dù chỉ bằng gỗ, như thế bỉ mặt cả triều đình người ta, thật không nên. Không nên vì tức khí để gieo hận cho cả nước người ta. Nhân việc này, ta cử hai vị viên ngoại lang là Phùng Chân, Lý Thạc làm chánh phó sứ, cầm đầu sứ đoàn sang tiến đem sự khâm phục, sự trọng nể của triều đại Tống Chân tông về cho nước nhà. Các khanh phải dạy bảo sĩ tốt, không được phép làm điều gì hại đến quốc thể. Đúng như dự đoán của các quan từ trong nước, khi đoàn cống sứ do chánh sứ viên ngoại lang Phùng Chân dẫn đại đội binh mã nhập đất Tống, thì viên quan trấn thủ biên thành cả kinh mà rằng: - Từ xưa chưa có lệ cống sứ An Nam đem theo binh mã như vầy. - Thì ông cứ xem biểu văn của vua nước tôi gửi thiên tử đây thì rõ. Viên trấn thủ biên thành lắc đầu. - Tôi đâu dám bóc niêm phong để mất đầu à? - Vậy chứ ông không nhận được cáo văn của thiên tử nhà Đại Tống, rằng đoàn cống sứ của An Nam sẽ qua ải này sao? - Có. Có nhận được lệnh chỉ của triều đình, chúng tôi còn phải tiếp rước các vị thật long trọng qua các đệ trạm về tới Biện Kinh kia. - Vậy các ông còn vướng bận gì không mở cổng thành tiếp sứ. - Bởi tại các ông đi đông quá, nom người ngựa hùng dũng cứ như các ngài Bắc chinh, khiến tôi lo ngại. - Ồ, không có gì đáng ngại đâu. Đây là chiến lợi phẩm thu được do chúng tôi tiêu diệt hai chục vạn quân man, đã có biểu tâu về, thiên tử nói phải cho ngài nhìn tận mắt mới tin. Ông làm tướng giữ thành sao không xét kỹ, nếu là quân xâm lấn sao chỉ có một nhúm người, ngựa mà không có binh khí gì. - Thôi được! Thôi được để tôi mở cửa các ông qua ải, phái bộ tiếp sứ đang chờ các vị ở trong đó. Cho người, ngựa của sứ bộ qua ải, viên tướng giữ biên thành cứ lắc đầu khiếp phục – Trời! Trời! Họ đánh chác thế nào mà diệt gọn hai chục vạn quân, thu thuần ngựa quý. Ta chỉ mơ trạm dịch biên thuỳ của ta có được một hai con ngựa thiên lý. Ấy thế mà họ có cả trăm con đem cống thiên tử. An Nam giàu hể! An Nam mạnh hể! Đoàn sứ bộ An Nam cứ ngày đi đêm nghỉ, tới các đệ trạm tiếp sứ đều được cung nghinh long trọng. Chỉ tiếc trạm nào cũng chật chội, bởi chưa bao giờ các trạm tiếp sứ phải cùng lúc đón hàng mấy trăm người, ngựa, với xe kiệu nghênh ngang như thế này. Suốt dọc đường từ biên ải tới Biện Kinh, đoàn cống sứ An Nam đã là nỗi kinh hoàng cho binh sĩ nước Tống, và là nỗi đau đầu cho vua tôi nhà Đại Tống. Khi sứ bộ An Nam đến Biện Kinh nghỉ ngơi được ba ngày, thì Tống Chân tông vời gặp tại điện Sùng Đức. Phùng Chân, Lý Thạc đệ trình biểu văn của quốc vương nước ta cùng danh mục các đồ tiến cống. Tống Chân tông đọc biểu văn xong, có đôi lời yên ủi sứ đoàn. Nhà vua không đả động gì đến việc An Nam phá tan đạo quân hai chục vạn tên của Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí. Không để cho Chân tông lẩn trốn việc này, Phùng Chân bèn nói: - Muôn tâu thiên tử, quốc vương thần sai chọn một trăm con ngựa nòi Hồ tốt nhất trong năm vạn ngựa thiên lý mới thu được của bọn Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí để kính dâng, của một đồng, công một nén, xin thiên tử không chê nước thần nghèo sai người thâu nhận ngay đồ cống. - Phải, phải các khanh cứ yên tâm, ta sẽ sai người thâu nhận ngay. Ta cốt cái bụng của chúa tôi các khanh, lúc nào cũng giữ đạo thần tử thế đã là quý. Ta nhận đây là vị cái tình thôi, chớ nòi ngựa này thiên triều có tới hàng muôn ức vạn con. Nghe thiên tử nói có vẻ nghịch tai, Lý Thạc bèn tâu: - Thiên tử quả là anh minh, ngựa này chính là của thượng quốc do các đại quan ở Quảng Tây, Quảng Đông bán hoặc trợ giúp cho bọn giặc man chứ lũ người man ấy do hai đầu lĩnh Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí làm sao có được. Chúng đem sang xâm lấn nước của thần tới năm vạn con. Chúng thần bắt không để con nào chạy thoát, cùng với hai chục vạn tên xâm lược bị chôn vùi. - Thiên tử, nước chúng thần đánh lũ người man ấy vô cùng khó nhọc, cốt để giữ yên đất phên giậu cho thiên triều, sao không thấy thiên tử ban khen? Tống Chân tông nghe sứ nói đau tới quặn lòng, nhưng vẫn cố gượng cười: - Các khanh mới chân ướt chân ráo tới thiên triều. Bữa nay ta ban yến cũng là một sự khen. Mai đây các khanh về, ta còn ban nhiều vật quý, chỉ sợ không có sức mang đi. Tuy nhiên, Chân tông cố lờ đi chuyện Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí, cứ như là triều đình Tống không có dính líu gì vào vụ này. Ba tháng sau, sứ giả An Nam xin về, Tống Chân tông y cho. Ngài còn ban cho mỗi người trong sứ đoàn theo thứ bậc khác nhau các loại mũ, áo, đai, lụa, vóc. Lại sắc phong cho Lý Công Uẩn làm An Nam quận vương. Sứ ta lạy tạ, nhưng tỏ vẻ không hài lòng với chức An Nam quận vương, mà Chân tông đã hào phóng ban cho vua Thuận Thiên.