Q1 Chương 15.
Cu Sắn sắp cưới con gái nhà xã trưởng! Tin đồn dậy khắp hương ấp. Đầu làng xó ngõ không chỗ nào là không bàn tán về cuộc hôn nhân không đăng đối này. Sắn đi làm đồng, cánh con trai các nhà có máu mặt, bữa nay cũng kéo nhau ra đồng, họ xúm vào hỏi Sắn cho ra nhẽ:
- Nghe nói mày sắp cưới con gái ông xã trưởng phải không? Sắn ngượng đỏ mặt, mặc dù trong lòng cu cậu rất sung sướng và cả hãnh diện nữa. Không thấy Sắn trả lời, một chàng trai khác lại hỏi, giọng miệt thị: - Mày không biết phận mày thế nào à Sắn? Đến bọn tao đây còn chẳng dám hỏi con gái ông xã trưởng, thế mà mày, đũa mốc lại dám chòi mâm son? Một chàng khác, giọng gây gổ: - Sắn, mày khinh bọn tao hả? Liệu hồn mày. Đừng tưởng sắp làm rể nhà xã trưởng mà vênh váo là ăn đòn đấy. Bị xúc phạm, Sắn thấy nóng nóng phía vành tai, chàng bổ mạnh lưỡi cuốc cắm phập vào đất, cán ngỏng lên, rồi buông cuốc hai tay thắt lại chiếc vành khố, Sắn nói: - Các anh chẳng biết gì, lại cứ nói lấy được. Ai bảo các anh, tôi lấy con gái ông xã trưởng. Đám thanh niên giọng hồ hởi, không giấu nổi niềm vui, họ chạy lại nắm tay Sắn hỏi gặng: - Thật thế à Sắn. Đúng là không phải mày sắp cưới cô Lan con gái út ông xã trưởng chứ? Sắn không ngờ mình được ông xã trưởng thương tình gả cho người con gái út, lại là việc xúc phạm đến đám trai làng. Bây giờ Sắn mới nghiệm ra rằng, cái nghèo là bạn cố hữu của cái hèn. Giả dụ nhà Sắn mà giàu xem. Dân làng ắt phải nể trọng. Quan xã, quan phủ bênh che, thử hỏi đám trai làng kia có dám mở lời sàm sỡ, hỗn hào thế không. Sắn nhìn lại tấm thân khoẻ mạnh, cường tráng của mình. Da săn chắc màu đồng hun, bắp chân, bắp tay nổi cuộn. Làm việc gì cũng băng băng như trâu mộng, không ai theo kịp. Vậy chứ mình kém gì họ để họ khinh. Suy ra chỉ tại cái nghèo, Sắn thở dài, giọng uể oải đáp lời đám trai làng. - Các anh biết cho, tôi phận côi cút, nhà nghèo đâu dám đũa mốc mà chòi mâm son. Thế nhưng… Sắn đang ngập ngừng thì một chàng trai khác đã cướp lời: - Lại còn “nhưng” gì nữa. - Thế nhưng, Sắn mạnh dạn nói tiếp: – Nhưng đích thân ông xã trưởng gọi tôi đến, và ông bảo tôi rằng, mọi việc cưới cheo, ông lo liệu tất tận cho bà cháu tôi. Sắn làm ra vẻ đau khổ với giọng nói ngùi ngùi: – Nếu ở vào cảnh ngộ của tôi, liệu các anh có dám cưỡng lời ông xã trưởng không, xin các anh chỉ bảo giùm cho. Thấy Sắn không tỏ vẻ ngông nghênh, lại còn lễ độ xin lời chỉ bảo, khiến đám trai xoan tự nhiên dịu lại. Và nghĩ đến quyền uy ông xã trưởng, anh nào cũng ngài ngại. Chàng trai lớn tuổi, con nhà hào phú đóng chiếc khố điều, bữa nay đi cùng bọn đàn em ra đây định gây sự, nếu Sắn lên mặt ta đây thì bọn họ sẽ nện cho một trận tơi bời. Thế nhưng Sắn lại rất nhã nhặn khiêm nhường, chẳng có cớ gì để đánh nhau cả. Hơn nữa, Sắn là một chàng trai lực sĩ, nhất là lúc các cậu nom thấy Sắn thắt lại dải khố nâu, quả các chàng công tử khố điều cũng thấy gờm gờm. – Để tỏ mình là kẻ cả, chàng khố điều người cao dỏng nói giọng đầy quyền uy: - Thôi được, bọn tao mừng cho mày. Mày quả là tốt số vớ được vợ đẹp, con nhà giàu, lại có thần có thế. Nhìn ngược nhìn xuôi rồi chàng lên giọng răn dạy: – Mày phải biết ông xã trưởng họ Lương được cả làng kính trọng, quan trên cũng phải nể ông, nếu mày ăn ở với cô Lan có điều gì không phải để ông phàn nàn, là bọn tao lột da mày bưng trống đấy! - Vâng ạ! Em cảm ơn các anh dạy bảo. Sắn lễ phép nhận lời cho qua chuyện. - Thế bao giờ cưới vợ, mày có mời bọn tao không? - Dạ, em chỉ sợ các anh chê nhà em nghèo không đến thôi ạ. Năm chàng khố điều tuổi choai choai từ mười bảy đến hai mươi cùng cười đắc thắng, dắt tay nhau vừa đi vừa nghêu ngao hát. Họ đi xa rồi, Sắn vẫn còn nghe vẳng lại một giai điệu vui vui: … Tình bằng có cái trống cơm Khen ai khéo vỗ Chọn được ngày lành để đôi trẻ hợp duyên, ông xã trưởng bèn đến thăm bà cháu bà cụ Giá. Khách đến nhà, bà cụ cứ cuống lên chẳng biết nói thế nào, chẳng biết làm việc gì. Đến nỗi cụ quên cả mời khách ngồi. Người cụ cứ run bần bật, miệng cứng ra. Còn Sắn thì đứng dựa cột nhìn nhạc phụ loay hoay. Ông xã trưởng phải mở lời trước, ông vừa cười vừa nói, giọng thân tình: - Chả là tôi xem được ngày lành cho cháu về đằng nhà cụ rồi. Tôi sang báo để hai nhà cùng lo liệu. Nghe giọng ông xã trưởng gần gũi ấm áp, cụ Giá đã bớt sợ. Cụ sợ là bởi từ hồi còn thơ ấu tới nay, đã ngót tám chục tuổi rồi, có bao giờ cụ được tiếp xúc với các bậc quan chức thế này đâu. Xúc động quá, nước mắt bà cụ cứ chảy trào ra khắp hai bờ mi. Ông xã trưởng nắm tay bà cụ và ấn vai cụ ngồi xuống mép giường. Ông nhìn thằng cu Sắn, thằng con rể ông mới vạm vỡ làm sao. Thằng bé có đôi mắt to, sáng, lông mày nét mác thật rậm mà hơi xếch, vầng trán vuông vức, mũi thẳng, cằm bạnh. Từ trước ông chỉ thoáng thấy nó đi lẫn với đám trai làng, và dân làng ai cũng khen nó nết na hiếu thảo. Ông cho như thế là đủ rồi. Con gái ông chỉ cần một tấm chồng như vậy thôi. Ai ngờ thằng bé có quý tướng, tam đình ngũ nhạc phân minh đắc cách. Nó sẽ là một con người đàng hoàng. Hiềm một nỗi nó không được học hành. Ông lấy làm tiếc, nếu biết nó trở thành con cái ông, thì ông cho nó vào chùa, theo học các vị thiền sư, chắc là thằng bé nên người. Tuy nhiên… phần này sẽ lo sau. Ngoái nhìn khắp ba gian nhà bà cháu cụ Giá, ông không thấy một thứ đồ đạc nào, ngoài chiếc chõng thờ bằng tre đặt nơi gian giữa, và hai gian bên kê hai chiếc giường cầu tre của hai bà cháu. Ông cũng không ngờ, bà cháu bà cụ lại nghèo đến thế. Thôi được, ông tặc lưỡi, cũng là dịp để con gái ông tỏ sự đảm đang. Suy nghĩ giây lâu, ông gọi Sắn vào ngồi cạnh bà cụ Giá và nói: - Tôi biết bên này cụ và cháu đều neo người neo của. Cụ không phải lo sắm gì hết, để tiện tôi lo lễ lạt cỗ bàn cho cả hai nhà. - Ấy chết ai lại làm thế ông xã trưởng, – bà cụ Giá giãy nảy lên. - Hà tất cụ phải băn khoăn, thì đằng nào nó chẳng là con cái chúng tôi. Ông xã trưởng vừa nói vừa cười thoải mái. Rồi ông tiếp: – Sắp đến ngày cưới, tôi sẽ cho gia nhân sang dựng rạp giúp cụ. Ông xã trưởng cáo lui. Ra đến đầu ngõ, như chợt nhớ ra điều gì, ông liền quay lại gọi Sắn ra dặn bảo: “Chiều mai, con xin phép bà sang bên thầy, có chút việc thầy nhờ con”. Sắn đỏ mặt lên vì sung sướng. Từ nhỏ, Sắn đã quen chỉ có bà, và quên không biết nói cả hai tiếng “thầy, bu”. Nay bỗng nhiên có cha có mẹ, dù là cha mẹ vợ cũng khiến Sắn sung sướng đến rối dạ. Ông xã trưởng cho gia nhân đón Sắn ngay từ đầu xóm. Bữa nay sang nhà nhạc phụ, Sắn không đóng khố như khi đi làm đồng hoặc lúc ở nhà với bà. Sắn mặc chiếc áo cánh thụng may bằng vải thanh cát màu chàm, quần vải mộc màu trắng, đầu vấn khăn chữ nhân, nom chững chạc hẳn ra. Từ nhỏ, Sắn chỉ biết nhà ông phú hộ Lương Thanh Khiết qua bức tường thành, vây quanh khu đất rộng đuối tầm mắt và cao gần gấp đôi đầu người. Nhà ông chỉ để lộ ra bởi hai chiếc cổng lúc nào cũng đóng im ỉm. Cổng hướng nam để đón khách. Cổng hướng bắc để kẻ ăn người ở đi làm đồng. Nghe nói trong nhà ông có đàn chó đông tới cả trăm con. Ban ngày nhốt vào một khu nhà với chiếc sân rộng có tường cao bao bốn mặt, chỉ để mươi con loáng thoáng nơi góc vườn, cổng, ngõ. Ban đêm, khi mọi người đã đi ngủ, gia nhân mới thả chó ra. Động tĩnh từ ngoài xa, một con đánh hơi, là cả bầy cùng xô lại một góc như đàn chó ngao sủa nghe đến rợn người. Ông xã trưởng đích thân dẫn Sắn đi chào nhạc mẫu, rồi cả hai ông bà cùng đưa Sắn vào chào bà nội vợ. Cụ già, mắt kém nhìn không rõ mặt Sắn, nhưng nghe giọng nói, cụ biết nó là một đứa trẻ đàng hoàng. Cụ là người sống nhân hậu, nên khi biết gia cảnh bà cháu Sắn, cụ thương lắm. - Nhích lại gần đây với bà, giọng cụ thân mật, khiến Sắn đã bớt run. Thực tình khi mới bước vào tới đầu sân nhà ông xã trưởng, nom thấy toà ngang dãy dọc, vườn rộng mênh mông, nhất là hai cây rơm như hai trái núi đứng sừng sững ngoài vườn, Sắn đủ hình dung ra số lúa gạo và kẻ ăn người ở trong nhà phải tấp nập đến nhường nào. Bà cụ lấy tay rờ rờ lên đầu, lên mặt Sắn. Cụ sờ rất kỹ đôi mắt, vầng trán và hai lưỡng quyền cùng chiếc cằm. Tay cụ cứ vuốt vuốt hoài cái đầu có mái tóc dày, đen nhức mà cứng như rễ tre. Cụ nhoẻn cười, lẩm bẩm như người nói chuyện với chính mình: – Tông môn nó, tóc này là bướng lắm đây, sai con lắm đây. Bàn tay cụ lại rờ rờ vào cái cổ, cái gáy thằng cu Sắn. – Gáy đầy xun xun thế này là thảo lắm. Có cái gì hàng xóm chưa hỏi, đã vác đi cho. Bàn tay già dăn deo những da cùng xương ấy lại vòng về phía miệng. Cụ bỏ qua những sợi ria lún phún cứng quơ, đặt ngón tay trỏ vào giữa nhân trung rồi dùng cả hai bàn tay vuốt nhẹ khuôn mặt Sắn và dừng nơi chiếc cằm nở nang của chàng trai vạm vỡ, chỉ còn vài tuần trăng nữa sẽ chính thức là cháu rể cụ. Gương mặt cụ rạng rỡ, phản chiếu sự hài lòng. Ông xã trưởng lại dẫn Sắn lên nhà trên, nơi có bộ kỷ gụ kê làm phòng khách. Gia nhân cũng vừa đi đón được ông phó may về. Uống nước xong, ông cho đầy tớ đi mời cô Lan tới để ông sai. Một lát, cô con gái út của ông bẽn lẽn bước vào. - Thưa thày cho gọi con. Giọng cô dịu dàng, ấm áp. Cô có cặp mắt đẹp như mắt bồ câu, nước da trắng hồng. Khi nói, gương mặt cô bừng sáng. Cô không thuộc loại người đẹp sắc sảo, mà chỉ là một thôn nữ có duyên thầm, một người đôn hậu. Ở cô toát ra một tâm hồn trong lặng lạ kỳ. Và nếu như có ai đó nhìn cô mà thấy gợn vẩn gì, hẳn là chính trong lòng người đó đang tàng ẩn một âm mưu bất tường. Bữa nay cô vận chiếc áo cánh lụa thâm, cổ tròn lá sen trùm kín vai, lớp vải viền cổ bằng là, màu trắng ngà, tay áo thụng, rộng ước đến gần chín tấc, cỡ hơn một gang rưỡi tay; ngang lưng thắt dải lụa màu chàm, múi buông bên trái, mặc váy lụa thâm, hoa chìm. Ông xã trưởng trao cho người con gái chùm chìa khoá và dặn: - Con vào mở chiếc hòm cái, còn mấy súc vải bê hết ra đây cho thày. Lan thoăn thoắt bước về phía gian đầu hồi, nơi kê chiếc hòm cái chiếm gần nửa gian nhà. Cô bê ra năm súc vải cả thảy, và đặt vào góc kỷ, đã toan lui thì cha cô gọi giật lại. - Này con, ở lại đây cha bảo. Sự thật, ông xã trưởng chỉ muốn bữa nay cho hai trẻ tường mặt nhau, nên ông mượn cớ mời bác phó may tới nhà, để may quần áo cưới cho chúng. Chỉ vào tấm vải thanh cát, ông xã trưởng bảo ông phó may: - Chú may cho cháu Sắn đây một cặp áo dài. Trong đó một chiếc mặc thường ngày, còn một chiếc mặc vào ngày cưới. Chiếc áo cưới của cháu, ông nhớ phải may đúng kích thước triều đình đã ban, kẻo ngày vui của các cháu lại có người bắt bẻ thì xui lắm. Còn mấy tấm lụa hoa kia, chú may áo dài cho cháu gái, tấm lụa đen mỏng này may váy cho cháu. Ông phó may lấy thước ra đo. Ông cầm thỏi son non vạch các đường chéo, ngang, dọc trên tấm vải. Và số đo cũng ghi luôn lên mặt vải. Ống tay rộng 9 tấc. Nách rộng 8 tấc 2 phân. Vừa ghi số đo, ông phó may vừa nói, chẳng ra cằn nhằn, cũng chẳng phải là khen. - Cậu này nom người có vẻ mảnh thế mà lại hoá cỡ đại. - Nó lẳn mình trắm, ông xã trưởng đáp lời ông phó may. – À mà ông để chiều dài áo cưới của thằng cháu Sắn là bao nhiêu đấy? - Dạ thưa ông xã trưởng, cứ theo quy ước triều đình ban thì áo của các quan, chiều dài cách mặt đất là hai tấc, còn dân phải ngắn hơn từ hai đến ba tấc nữa ạ. Dạ thưa ông, chúng tôi làm thợ mà không rành về thể thức, chuẩn mực thì lấy vải đâu, lấy tiền đâu mà đền cho khách; không những thế còn đắc tội nữa chứ ạ. Đo đạc xong, ông xã trưởng cho Sắn về, còn ông phó may được giữ lại may quần áo cưới cho vợ chồng Lan đến khi nào xong. Hằng ngày ông được phục dịch ba bữa cơm. Bữa tối được nhà chủ mời thêm hai chén rượu. Nếu phải thức khâu khuya, thì được ăn thêm bữa cháo đêm. Ông phó may không phải ngồi ăn với đám thợ cày thợ cấy, nhưng cũng không được ngồi ăn với ông bà xã trưởng. Nghĩa là ông phó may ăn cơm uống rượu một mình. Dường như ông cũng đã quen lắm với cảnh này rồi. Làm thợ may gần trọn đời, may áo quần cho đủ loại người từ quan lại đến dân thường. Nhưng sao ông vẫn băn khoăn một điều rằng: có bao nhiêu màu đẹp, vải đẹp, dễ chế tác thì vua, quan giành phần hết. Này nhé, màu đại hồng là của đấng chí tôn. Kẻ nào lạm dùng chỉ có mất đầu. Màu tía là sắc phục của các quan nhất, nhị phẩm. Màu đào hồng là sắc phục của hàng tam phẩm. Ngũ, lục, thất phẩm là các phẩm hàm gần cuối bậc, độc chiếm màu biếc. Bát, cửu phẩm là thuộc hàng quan lại cuối cấp phải dùng màu xanh, tức màu thanh cát, gần với màu chàm dành cho thứ dân. Trong đầu óc bác phó may thì có bao nhiêu màu chánh sắc tươi tắn thì vua, quan chiếm hết. Dân chúng chỉ được dùng màu xanh chàm, màu nâu và vải mộc trắng. Vì vậy, áo cưới của các cô cậu này từ màu sắc đến vải vóc cũng đều là đơn sơ, mộc mạc. Bác phó may lim dim đôi mắt mơ màng, ước sao có một xã hội mà ai, nước da hợp với màu nào thì may màu ấy. Ai có đủ tiền mua loại vải nào thì may loại vải ấy. Còn như bây giờ ôi thôi, mặc sai màu sắc, sai vải vóc đã kê cứu theo thứ bậc, thì cứ gọi là mất nhà mất cửa, thậm chí mất mạng như chơi. Nếu không, thì ông xã trưởng đây, hẹp gì không may cho cậu tế tử một cặp áo cưới bằng gấm lam Tàu. Và cả cô con gái ông nữa, hàng vóc, nhiễu thiếu chi thứ làm đẹp thêm nhan sắc của cô trong ngày cưới. Đã qua lâu rồi các lễ chạm ngõ, lễ hỏi, nay đến kỳ lễ cưới, bà mẹ ông xã trưởng gọi con vào hỏi: - Con Lan là đứa cháu gái cấn cơm cấn sữa, mẹ thương nó. Nó lấy chồng nhà nghèo, nhưng mẹ xem thằng bé ấy rồi sẽ nên người. Con nên lo liệu chu đáo kẻo cháu nó tủi thân. Ngày xưa, mẹ lấy thày con, cũng chỉ có hai bàn tay trắng, bốn bàn tay không mà nên cơ nên nghiệp. Vậy chứ con định thế nào, nói mẹ nghe. - Thưa mẹ, ông xã trưởng vừa nói vừa nhích gần lại chỗ bà cụ, vì ông sợ mẹ nặng tai nghe không rõ. – Thưa mẹ, phần nhà mình thì chẳng có gì đáng ngại, trâu, bò, lợn, gà đầy nhà, mời khách đến đâu, giết thịt tới đó. Còn quần áo cưới của các cháu, con đón phó may về may tại nhà rồi. Lễ nghĩa tiền bạc bên nhà mình thách bao nhiêu để thiên hạ không nghĩ rằng cho không con gái, mẹ để con tính toán. Vâng thưa mẹ thách là để lấy cái tiếng thôi, con sẽ giúp bên nhà trai đủ. Cả việc chi phí ăn uống bên nhà trai, con cũng lo hết. - Con nhớ nhá, con lo cả hai bên cũng là lo cho con mình thôi, không được viết văn tự bắt bà cụ Giá ký nợ đó nghe con. Ăn ở cốt là như cái đức. Còn của cải là ở hai bàn tay con ạ. - Vâng thưa mẹ, con sẽ làm theo ý mẹ. Ông xã trưởng cho dọn hẳn ba gian nhà ngang để bày biện của hồi môn cho con gái ông sắp về nhà chồng. Ngay gian giữa, vật đầu tiên đập vào mắt ta là chiếc giành nhỏ trong lót vuông vải trắng, đựng một cục đất to bằng quả bưởi. Cục đất xắn ở góc vườn nơi gần cây mít năm thân to bè, gần bằng cây đa trước cửa đình làng. Cục đất màu phù sa đỏ đậm, khiến ta nghĩ tới những mùa màng bội thu. Đó là nắm đất hồi môn mà bất cứ người con gái nào về nhà chồng cũng được cha mẹ đẻ chia cho. Ngay cả các cô quận chúa, công chúa đem theo mình hàng đấu ngọc, vàng, đồ trang sức về nhà chồng, cũng không thể thiếu được nắm đất hồi môn. Vì sao vậy? Ấy là bởi con người ta mới sinh ra đã được đất nâng đỡ, trong suốt cuộc đời được đất nuôi dưỡng, tới khi chết lại về với đất. Đất chính là vật thiêng mà tạo hoá ban cho con người. Bởi vậy con người không bao giờ lìa bỏ đất. Sau giành đất là hai chiếc vai cày gỗ nhãn đỏ au. Mỗi chiếc vai cày sẽ được kèm theo một con trâu. Sau hai chiếc vai cày là năm chum đựng đầy thóc kê sát tường. Những chiếc chum màu da lươn dày dặn, mỗi chiếc chứa tới cả trăm đấu thóc giống kia, là những giống lúa tốt để cho vợ chồng cô dâu chú rể lập nghiệp. Dưới chân những chum thóc sừng sững là những chiếc lọ gốm màu xanh ngọc, màu huyết dụ, màu ngà chỉ nhỏ bằng nắm tay, đựng đầy các hạt giống rau như rau cải, rau dền, mướp, bí, đậu ván, đậu đũa, mùi, thìa là, ớt… Gian đầu bên kia là các thứ đồ đan như rổ, rá, giần, sàng, mẹt, nong, nia; gian đầu bên này treo thuần những áo váy, chăn gối của cô dâu. Kế vách kê chiếc hòm cái sáu chân, mới đóng bằng gỗ xoan đào thơm phức. Chiếc hòm ấy sẽ bỏ tất cả đồ dùng của cô dâu vào đó, rồi khiêng về nhà chồng cùng với lễ rước dâu. Trên mặt hòm cái, bày chiếc khay khảm xà cừ. Trong khay có chiếc hộp trầu bằng đồng đỏ, một quả đào bằng bạc để đựng vôi ăn trầu. Cạnh hộp trầu bạc có dây đeo chiếc vuốt hổ để kỵ nắng gió. Cạnh đó là đôi vòng đeo chân bằng bạc, mỗi chiếc vòng lại có thêm một chùm ba chiếc nhạc nhỏ bằng đầu ngón tay út. Đây là những chiếc vòng mà ông bà xã trưởng cho con gái đeo từ thuở nhỏ, nay được đem theo để rồi lại đến lượt con cô. Mấy bữa nay người trong xóm, trong làng, kể cả người thiên hạ cứ lũ lượt kéo vào nhà ông xã trưởng để xem trưng bày của hồi môn, mà ông xã trưởng cho người con gái út được đem về nhà chồng. Thật ra đây không phải lần đầu tiên nhà ông xã trưởng trưng bày của hồi môn. Mà đây là lần thứ năm ông chia của cho con gái đi lấy chồng. Các lần trước con gái ông lấy chồng vào các nhà môn đăng hộ đối, nên người tới xem cũng vừa phải. Nhưng lần này, người đến xem đông nghịt. Bởi người ta tò mò, rằng chàng rể nhà ông xã trưởng lần này là một người nghèo vào loại nhất làng, xem ông đối xử ra sao. Mặc dù người vào xem đông, nhưng gia nhân đều chu tất; không ai là không được mời trầu, mời nước. Làng xóm gần xa, ai tới xem của hồi môn của con gái ông xã trưởng, lúc ra về đều tấm tắc khen ông là một người nhân hậu, không phân biệt giàu nghèo. Trước ngày cưới, bên nhà trai dẫn lễ. Mọi việc, bà cụ Giá lại phải nhờ đến bà Luyến. Bà Luyến là một bà mối biết công biết việc, biết ăn biết nói. Cả làng ai cũng gọi bà là “Bà Nguyệt”, tức là người thay tạo hoá xe duyên lành cho trai gái đến tuổi trưởng thành. Bà là người tính toán giỏi, thuyết phục giỏi. Bà đi về giữa nhà ông xã trưởng và nhà cụ Giá thoăn thoắt như một con thoi. Bàn bạc ngã ngũ lễ lạt với bên nhà gái, cần những gì những gì xong, bà tính ra thành tiền. Hết bao nhiêu, ông xã trưởng mở tráp đếm đưa tất cả cho bà, nhờ bà mua sắm hộ bà cháu bà cụ Giá. Bà Luyến là người đàng hoàng, bà giúp ai là giúp hết lòng, một mảy may bà cũng không thèm tơ hào. Hôm dẫn lễ, bà mời ba ông bà cụ cao tuổi, nhà khấm khá, con cháu đầy đàn đi cùng với bà và cậu Sắn. Dẫn đầu là bà mối mặc áo dài vải thanh cát, bê tráp quả trong đó đựng một cơi trầu, một chai rượu và một bao chè. Mấy anh con trai trong xóm được mời làm phu khiêng lễ. Thoạt tiên là ba vò rượu nếp thơm, mỗi vò một đòn khiêng, tiếp đến ba thúng đầy gạo nếp cái hoa vàng thơm nức, mỗi thúng một đòn khiêng, sau rốt là một con lợn to, phải dùng tới hai đòn mới khiêng nổi. Bên nhà trai cũng đã dọn nhà, dựng rạp, mượn bát đĩa chuẩn bị làm cỗ bàn nấu nướng. Thoắt đã tới ngày đại cát. Tháng giêng trời rét ngọt. Lúa má vừa cấy xong trước tết. Cỏ lúa chưa đến kỳ. Nước lúa còn ăm ắp ruộng. Thảng có nhà lỡ có bát tằm ăn rỗi, hoặc đang dệt dở mấy lọn tơ thì hơi bận mải, còn phần đông mọi người đang rỗi việc. Các làng đang đua nhau mở hội. Trống vật, trống chèo khua rộn xóm thôn suốt ngày đêm. Già trẻ, gái trai đi trảy hội từ làng này sang làng nọ nối nhau tấp nập. Hội cũng vui mà cưới cũng vui. Dẫn đầu đám rước dâu của vợ chồng nhà Sắn là năm cặp trai gái với năm cặp “nõ” – “nường”. “Nõ” và “nường” đều đan cốt bằng tre hóp ngoài phết giấy điều. Nõ tượng trưng cho bộ phận sinh thực khí của người con trai, to và dài gấp đôi cái chày giã cua, khoảng bốn gang tay người lớn. Nường tượng trưng cho bộ phận sinh dục của người con gái to bằng chiếc nón đội đầu của mấy người lính thú. Các cặp trai gái mang nõ – nường đều vận áo dài lửng màu chàm, thắt lưng bó que màu đen, đeo mặt nạ mo nang. Họ nhảy theo nhịp ba, theo trịch của ba người vỗ ba chiếc trống cơm đeo trước ngực. Các cặp trai gái vừa nhảy vừa hô… “tinh-tinh-phoọc!”. Hai hàng nam nữ bước theo nhịp. Nhịp bước rơi đúng vào tiếng “tinh”. Hai bước tiếp theo tiếng “tinh”. Sang bước thứ ba thì hàng bên trái ngoảnh về bên phải, hàng bên phải ngoảnh về bên trái, nhịp chân rơi vào tiếng “phoọc”. Đúng lúc ấy thì hai vật nõ – nường tượng trưng kia xỏ khít vào nhau. Cứ lặp đi lặp lại giai điệu như thế suốt đoạn đường dài. Trẻ con và cả đám thanh niên nam nữ chạy theo những cặp nõ – nường và cùng bắt theo nhịp “tinh-tinh-phoọc!” thật là sôi động. Tiếp đám rước nõ – nường là cụ già cao tuổi nhất làng. Dân làng thường gọi cụ là cụ Mốc. Cụ Mốc xóm Đông sức lực còn khang kiện, nhà khá giả, con cháu đầy đàn. Cụ có mái tóc bạc trắng búi gọn lại phía sau gáy. Cụ đội chiếc mũ bình đính bằng lụa màu đen. Cụ có chòm râu dài tới ngực, sợi nào sợi ấy sóng như cước. Nước da cụ hồng hào. Mình cụ khoác tấm áo thụng dài bằng gấm trổ hoa màu xanh, về cái màu xanh này chỉ các hàng quan lại thất, bát phẩm mới được mặc nhưng vì triều đình ưu trọng người già từ bậc đại lão trở lên thì được phép mặc. Tay cụ chống hờ cây gậy trúc, hai bên tả hữu hai đứa chắt nội, một trai một gái tóc để trái đào, mặc áo dài thanh cát lon ton chạy theo cụ; trên trán mỗi đứa đều có điểm dấu bằng nước quết trầu đỏ chót. Sau cụ Mốc là hàng mấy chục các bà các ông, thuộc hàng cô dì chú bác của cô dâu chú rể, vừa bỏm bẻm nhai trầu vừa nói chuyện râm ran. Tiếp đến là dâu rể cùng các bạn bè phù dâu phù rể, ăn vận rất đẹp. Chú rể Sắn, lần đầu tiên trong đời được mặc chiếc áo dài thụng vải thanh cát còn thơm mùi hồ, lại đội chiếc khăn lượt đen xếp hình chữ nhân để lộ ra khuôn mặt đôn hậu và phảng phất chất kiêu dũng của con nhà võ, ẩn sau cặp mắt xếch và đôi chiếc lông mày mũi mác kia. Sắn vận chiếc quần vải trắng ống rộng, chân đi giày vải đen mũi cong, nom bảnh bao tươi tắn khiến các chàng trai phù rể cảm thấy hãnh diện vì anh. Cô dâu Lương Thị Lan, vợ Sắn vốn là một cô gái có duyên, ưa nhìn. Bữa nay, cô vận bộ áo dài mớ ba càng làm tăng vẻ đài các của một cô gái con nhà giàu. Đó là bộ áo dài thụng, trong cùng là chiếc áo màu chàm, giữa là nếp áo thanh cát, lớp ngoài cùng là lụa đen, hoa cúc dây chìm. Cả ba chiếc áo dài đều có cổ lá sen trùm kín bờ vai, và đều viền nẹp cổ bằng lụa trắng ở phía trong; chiếc thắt lưng lụa màu mỡ gà thắt mũi ra ngoài lớp áo mớ ba, nom người cô thon thả bắt mắt. Lan đội chiếc khăn vuông trùm đầu bằng vải thanh cát ôm lấy khuôn mặt trái xoan đến là xinh, chân cô đi đôi hài mũi cong, váy thả chùng quét đất. Sau Lan độ vài chục người là đoàn vận chuyển các đồ hồi môn. Đi đầu là chiếc giành trong đựng nắm đất đã gói bọc kỹ càng, đoạn hậu là hai con trâu tơ một con đực một con cái để kéo cày và chăn nái. Năm cặp nõ – nường và ba chiếc trống cơm vẫn làm huyên náo giòn trò. Đôi lúc mỏi chân, mỏi mồm tạm nghỉ thì họ lại đốt pháo. Những tràng pháo tép nổ giòn, khói xanh thơm thơm bay theo vụn giấy đỏ bám phủ lên đầu lên áo mọi người, và rơi hồng cả mặt đất. Chẳng mấy chốc đã tới cổng nhà trai. Năm cặp trai gái múa nõ – nường thu đồ nghề lùi lại phía cuối đoàn người, nhường chỗ cho cặp trai gái khiêng chiếc giành trong có cục đất hồi môn vào đặt giữa sân. Người nhà ra đón lấy nắm đất hồi môn và đón cả đám cưới vào nhà. Lễ tế tơ hồng bắt đầu. Trống phách, đàn sáo nổi lên. Quan viên hai họ ngồi kín rạp. Họ uống nước, ăn trầu, họ chúc tụng đủ mọi điều tốt đẹp cho bà cháu bà cụ Giá, ở hiền gặp lành và ai cũng bảo: “Ông Trời có mắt!”.