← Quay lại trang sách

Q1 Chương 16.

Đêm xuân tịch mịch. Khắp bốn mặt hoàng thành im phăng phắc. Thảng có đàn vạc ăn đêm thả vài tiếng vu vơ trên không trung, rồi sự yên tĩnh lại trả về cho đêm tối. Vua Thuận Thiên vẫn ngồi trước án, bên ngọn đèn dầu chín bấc để đọc sớ, tấu, biểu của các đài, sảnh, viện hoặc của các lộ gửi về. Trong đám các giấy tờ đầy ắp ấy, thường nhà vua lựa những biểu chương từ các nơi biên trấn để đọc trước. Mặt bắc, mặt tây, mặt nam, mặt nào cũng phải cảnh giới. Bởi đâu chẳng là cương thổ của hoàng triều. Tuy nhiên, mặt bắc là trọng yếu nhất, vua thường nghĩ vậy.

Trái với lệ thường, bữa nay nhà vua lại lựa mấy bản tấu trình của các quan Tả, Hữu gián nghị đại phu để đọc trước. Đọc xong bản tấu của quan Tả gián nghị Lương Tằng, mặt nhà vua bừng đỏ. Dằn lòng, vua cầm lấy bản tấu của quan Hữu gián nghị Trịnh Túc. Thì ra hai người cùng can ta một việc. “… Binh là việc hiểm thế mà nhà vua lại ham đánh dẹp. Nhà vua vừa tức vị tháng 10 năm Canh Tuất (1010), thì tháng 2 năm Tân Hợi (1011) đã thân chinh đốc suất sáu quân, đi đánh giặc Cử Long[64] ở Ái Châu rồi. Tiếp đến cuối năm Nhâm Tý (1012), lại thân dẫn đại quân đi chinh thảo Châu Diên, lúc về tính mạng suýt bị nguy ở Vũng Biện. Kế đó, năm Quý Sửu (1013) lại tự mình cầm quân tiến đánh châu Vị Long. Sang năm Giáp Dần (1014) bình giặc man Tống trên châu Bình Lâm. Rồi mùa xuân năm Ất Mão (1015) lại dẹp các châu Đô Kim, Vị Long, Thường Tân, Bình Nguyên. Đành rằng nước muốn thái bình phải dẹp yên bốn cõi. Nhưng năm lần ra quân ấy liệu có cần phải bệ hạ ra tay cả năm không? Thiết tưởng chỉ có lần hai mươi vạn giặc man Tống tràn sang lấn cõi năm Giáp Dần, bệ hạ đích thân thảo phạt, chúng thần không dám bàn cãi. Còn bốn lần kia, nơi thì đám giặc cỏ, nơi thì thủ lĩnh người man làm phản, triều đình thiếu gì tướng giỏi thừa sức đánh dẹp, há cần bệ hạ phải ra tay! Bệ hạ là nhân chủ của một nước, phải biết giữ tấm thân muôn quý để dùng cho nước, thế mà lại ham chút công nhỏ của đám võ biền. Nơi trận mạc kẻ kia mai phục bắn lén, biết đâu mà lường. Còn như bệ hạ muốn tỏ uy vũ, thì trong nước ai mà chẳng nhớ võ công của bệ hạ tháng chạp năm Kỷ hợi (999), ngày ấy bệ hạ chỉ là một tiểu tướng quân mới hai mươi lăm tuổi mà giúp Lê Hoàn hoàng đế chuyển bại thành thắng trong trận Hà Động dẹp tan khê động Thạch Thành làm phản. Lại như năm Giáp dần (1014) mới đây, chỉ ra tay một trận bệ hạ đã quét sạch hai mươi vạn quân binh man Tống, chém đầu hai tên đầu lĩnh Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí, thu năm vạn ngựa Hồ cùng biết bao binh khí quân lương, khiến Tống Chân tông khiếp sợ. Uy vũ bệ hạ như thế tưởng đã là đủ. Nếu bệ hạ cứ bao biện làm cả việc của người dưới, thử hỏi chư tướng muốn lập chút công nhỏ ngoài mặt trận, để dâng bệ hạ, thì họ biết làm thế nào. Vì đại cuộc, bệ hạ nên để tâm vào việc an trị thần dân. An trị muôn dân không gì bằng nuôi vỗ dân. Nuôi vỗ dân không bằng lo cho dân có ruộng cấy trâu cày. Đó là phần dân sinh. Còn dân trí, dân tâm thì sao? Bệ hạ có bao nhiêu việc lớn phải lo, phải làm. Xin bệ hạ sớm liệu định. Còn một điều nữa, chúng thần không hiểu được, rằng các hoàng tử, tuổi đang niên thiếu, biết gì đến chiến chinh, trận mạc mà bệ hạ đã sớm cho lĩnh ấn, cầm quân, tập thói quen chém giết, phỏng có ích gì cho việc dưỡng tâm? Bệ hạ là người đức độ khoan dung, thần kính cẩn dâng lời nghịch nhĩ (trái tai). Xin bệ hạ lượng xét. Hữu gián nghị đại phu Thần: Trịnh Túc…” Đọc xong hai bản can gián của Tả, Hữu gián nghị, vua Thuận Thiên toát mồ hôi hột. Thì ra các quan cho việc ta làm là chăm chút võ công, là đem gươm mổ ruồi. Nếu chỉ nhìn vào biểu can này thì hậu thế sẽ cho ta là một ông vua hiếu chiến, đa sát. Bởi mới chỉ có sáu năm chấp chính thì năm năm liền xuất binh. Chao ôi, các quan không hiểu được lòng ta. Điều quan yếu là ta muốn ra uy trong bốn cõi, khiến những kẻ manh tâm bạo loạn phải ngừng tay, để cho ta bình ổn xã hội. Xã hội mà không bình ổn thì làm sao mà định được dân tâm. Dân tâm đã không định thì làm sao mà hành đạo được. Ta đánh châu Vị Long năm trước, cốt để cho Hà Trắc Tuấn tỉnh ngộ. Vì thế ta mới mở đường cho y trốn chạy. Nhưng y chứng nào tật ấy, năm sau ta lại ra binh, bắt Hà Trắc Tuấn đem về kinh sư chém bêu đầu ở bến chợ Cầu Đông. Thế là các châu Vị Long, Đô Kim, Thường Tân, Bình Nguyên đi vào đại định. Việc cho các hoàng tử theo ta đi đánh dẹp, thì quả là các người không hiểu được. Thâm ý của ta, là tất cả các con ta, đều phải trở thành các tướng giỏi. Cho chúng đi, là để ta rèn dạy. Ta thừa biết đây là việc làm bất đắc dĩ, nhưng binh quyền để lọt vào tay kẻ khác thống lĩnh, thì việc phế bỏ một triều đại, là việc làm dễ như trở bàn tay. Vì sao Đinh Bộ Lĩnh dẹp được mười hai sứ quân, là bởi trong tay ông có đội binh mạnh nhất. Vì sao Lê Hoàn hiếp được ấu chúa, lấy cơ nghiệp nhà Đinh như lấy đồ vật trong túi áo mình vậy. Ấy cũng bởi quan Thập đạo nắm trọn binh quyền. Hậu thế khờ khạo, cứ tưởng việc ấy là do sự tự ý thức của Dương hậu trước thế nước lâm nguy. Đâu phải vậy, chẳng qua Dương thị đã có chút tư tình với quan Thập đạo. Và việc y thị làm là để bảo trọng ngôi hậu của bà, chớ đâu phải vì việc nước. Trao áo, trao mũ cho quan Thập đạo và khuyên mời ông lên ngôi, chẳng qua chỉ là một tích trò để che mắt thế gian. Vả lại tình thế lúc ấy, Dương thị không thể làm khác được. Mọi sự, mọi việc đều ở một tay Lê Hoàn bày xếp cả. Lại vì sao cơ nghiệp nhà Lê đưa về nhà Lý một cách êm xuôi như thế. Đành rằng có các bậc thiền sư dày công sắp đặt, nhưng nếu như Lý Công Uẩn này không thâu tóm được hết thẩy cấm quân, thì dễ gì triều đình đã quy về một mối. Suy nghĩ giây lâu, vua Thuận Thiên thở phào nhẹ nhõm. – May thay, ta được các quan gián nghị có cái nhìn sắc sảo để giám sát ta. Nhưng trước hết họ có cái tâm thiện nên mới nhìn thấu nhẽ đục trong. Bình tâm suy xét lại, nhà vua tự nhủ: “Quả thật việc ta thân chinh như vậy, cũng hơi nhiều”. Đĩa đèn vừa lụi tắt, cũng là lúc gà gáy dồn, phương đông đã ưng ửng một ráng hồng. Nhà vua vươn vai đứng dậy, thuận tay rút cây kích trong giá binh khí, ngài chạy ra phía sân sau đi một vài đường cho tỉnh ngủ, rồi hôm nay còn phải đến chùa Thắng Nghiêm dự lễ khai mở đạo tràng. Từ mấy bữa nay chùa Thắng Nghiêm trang hoàng rực rỡ, nào cờ nhà Phật, nào phướn dài, ở mỗi cuối đuôi nheo lại đeo một chùm nhạc, và ở mỗi gót kèo, gót tàu, bẩy đều có treo những chiếc khánh đồng gắn nhạc, gió hơi phơ phất đã nghe âm âm tiếng nhạc rung. Và những chiếc đèn lục lăng, đèn bát giác kết theo hình hoa sen hàm tiếu. Ở mỗi mặt đèn lại vẽ một cảnh thật là sinh động như cảnh đức Thích Ca Mâu Ni tu khổ hạnh; cảnh Phật ngồi nhập định dưới gốc cây bồ đề; cảnh Phật thuyết pháp; Phật thành đạo; Phật nhập niết bàn… Xung quanh chùa, đại thụ mọc như rừng. Những cây đa, cây muỗm, cây bồ đề cành lá vươn dài. Sang xuân, lộc đa đâm tua tủa tựa hàng trăm ngàn ngọn bút lông thỏ phơn phớt hồng như muốn viết vào nền trời xanh. Hoa muỗm phơi phới đón khí xuân. Mấy cây gạo trước cửa chùa gân guốc cành, nhánh búp hoa chúm chím, chỉ chờ nắng lên là thắp lửa rực trời. Lầu chuông ba tầng cao vút lên như một cây đại thiền trượng, trong đó treo quả đại hồng chung, đúc từ số tiền vua ban là tám trăm lạng bạc cùng với cả đấu vàng do thập phương công đức. Sớm nay, vua Thuận Thiên tới chùa Thắng Nghiêm không dùng nghi lễ đế vương, người chỉ đi một chiếc kiệu hai đòn khiêng. Nhà vua đội mũ bình đính, mặc áo vóc đại hồng, không thắt đai. Theo hầu vua có quan hữu nhai tăng thống và hai quan chép sử cùng với nửa đô quân tuỳ long do tướng quân Lê Phụng Hiểu cầm đầu. Bữa nay nhà vua không cho đám trung quan[65] và quan nội hầu[66] đi theo. Tới tam quan, vua sai dừng kiệu để ngài dẫn bộ vào chùa. Thiền lão Hương Nghiêm là sư trụ trì vội ra nghênh đón nhà vua. Theo sau là cả sa môn đoàn. Thiền lão mời nhà vua vào toà phương trượng. Chợt trông thấy thiền sư Vạn Hạnh đang ngồi đối ẩm với thiền sư Đa Bảo trên thiền sàng, nhà vua rảo bước tới trước hai vị, bỏ mũ cúi đầu, chắp tay vái: - Nam mô A-di-đà Phật, Công Uẩn tôi xin kính chào nhị vị sư phụ. - Nam mô A-di-đà Phật! - Nam mô A-di-đà Phật! - Xin đừng gọi như thế. Xin đừng gọi như thế. Bệ hạ đứng đầu trăm họ, chúng tăng chỉ là kẻ xuất gia, – thiền sư Vạn Hạnh đáp lời rồi hai vị cùng bước ra khỏi kỷ vái đáp lễ nhà vua, nhường chỗ, mời ngồi. Sư trụ trì vừa bước vào bèn mời nhà vua ngồi lên kỷ còn sư đứng cạnh hai đại lão. Vua Thuận Thiên cung kính nói: - Các đại lão đều thuộc hàng tiền bối, đạo cao đức trọng, trẫm tuy được ở trên trăm họ, nhưng đây là nơi cửa Phật, không phân biệt đối đãi, xin các vị tôn trưởng có ngồi thì trẫm mới dám ngồi. Kiếu từ hai ba lần không được, hai vị đại lão thiền sư mới cùng chịu ngồi chung với nhà vua. Quan theo hầu ngồi tản trên các đôn, kê rải rác khắp thiền phòng. Nhà chùa dâng thiền trà. Đó là một thứ nước lấy từ thân cây mai già, chẻ nhỏ ra từng thanh, cho vào ấm giỏ hãm với nước sôi. Nước có màu hồng, vị thanh hơi ngọt. Dược điển nói, loại trà này nhuận gan, ích mục, thanh nhiệt. Lý Công Uẩn đâu có lạ, mấy chục năm làm tiểu tăng theo hầu sư phụ Vạn Hạnh, ngày nào chẳng phải hãm một vài bình cho thầy. Đối với các nhà tu hành, đây là loại trà quý. Thuở nhỏ, Công Uẩn còn phải lấy lá vối hoặc nụ vối, chế biến thành trà vối, pha hãm uống cả ngày. Nhưng thích nhất vẫn là lúc khát, được uống vài ngụm nước mưa ngâu. Vừa nhấp xong tuần trà, sư trụ trì liền mở lời: - Tâu hoàng thượng, thưa hai vị đạo trưởng cùng các quan tuỳ giá, đạo tràng này được ra đời cũng là nhờ mưa móc ơn trên. Nay chùa được mở rộng khang trang, lại thêm cả chục dãy nhà làm đạo tràng nữa. Công quả nhà vua lớn lắm. Lớn lắm! Thiền lão Hương Nghiêm cảm động nhắc đi nhắc lại. – Còn về việc lựa tuyển thiền sinh, ngài Hương Nghiêm nói – Chính là nhờ có chiếu của triều đình đã ban về các lộ, cấp độ điệp cho những ai có chí hướng xuất gia. Vì thế ở Thăng Long cũng đã khởi cấp được hơn ba trăm người, trong số triều đình cho phép là một ngàn người. Bởi nhẽ đó, nên đạo tràng Thắng Nghiêm đã chiêu tập được đủ số thiền sinh từ khắp mọi vùng của đất nước về học. Cái khó nhất của đạo tràng là việc tuyển lựa. Bữa nay là ngày khai giảng đạo tràng, bần tăng có thỉnh hai đại lão thiền sư đây (vừa nói thiền sư Hương Nghiêm vừa trỏ vào hai ngài Vạn Hạnh và Đa Bảo) làm giảng chủ. Bởi nhẽ đây là khoá đầu, vị Hữu nhai tăng thống cũng khuyến cáo bản tự nên mời các thiền lão đạo cao đức trọng cộng sự, để các vị chỉ giáo cho những điều cần thiết. Nhà vua vừa nghe vị Giám viện tức thiền sư Hương Nghiêm nói, vừa xem đồ hình phân chia các lớp. Vậy là tất thảy có bốn chục lớp, mỗi lớp hai mươi lăm thiền sinh, vị chi khoá này có một ngàn người tu học. Nhà vua xem rất kỹ về khoá nghi tức là nghi thức tụng niệm hằng ngày chia làm nhị thời công phu (hai thời vào buổi sáng và buổi chiều). Thời khoá buổi sáng: - Chú Thủ Lăng Nghiêm - Chú Đại Bi Tâm Kinh - Chú Như Ý Bảo Luân Vương - Chú Dược Sư Quán Đỉnh - Bát Nhã Tâm Kinh - Niệm Phật Thích Ca… Thời khoá buổi chiều: - Kinh A Di Đà - Chú Vãng Sinh Tịnh Độ - Bát Nhã Tâm Kinh - Niệm Phật A Di Đà - Hồi hướng Cực Lạc… Nhà vua thầm nghĩ: chương trình sắp xếp thật là hợp lý. Tri tụng thần chú nhằm gia trì định lực, còn niệm Phật là để nhất tâm bất loạn. Vua Thuận Thiên tỏ vẻ hài lòng về sự ra đời của đạo tràng. Bởi nếu không có đạo tràng đào tạo các sư tăng thì khó có thể quảng bá được sự đạo. Vẻ cởi mở nhưng thành kính, nhà vua quay sang nói với hai vị đại lão thiền sư: - Xin hai vị tiền bối phát tâm dẫn dắt đám thiền sinh này vào đường Đạo, họ chính là những hạt giống của Giáo hội ta. Từ lúc nhà vua bước vào nhà phương trượng hai vị thiền lão thôi không thiền đàm nữa, mà chăm chú lắng nghe xem nhà vua có phán bảo điều gì. Nhưng nhà vua lại chú mục vào việc sắp xếp trường lớp của đạo tràng cùng giới đạo của bản đạo quy. Hoá nên hai vị đại lão cứ nhàn toạ chờ ý chỉ. Nom cái vẻ ung dung tự tại của hai vị, cứ tưởng như các vị đang chập chờn nửa tỉnh nửa thiền. Kỳ thực trong lòng các vị đang chộn rộn niềm vui. Không vui sao được khi thấy việc vun trồng của mình, điều ước đoán của mình đã ngày một hiển lộ rành rành. Như với thiền sư Vạn Hạnh thì từ khi gặp Lý Công Uẩn mới được sáu tuổi, tại chùa Kiến Sơ do sư Khánh Văn trụ trì. Mới nhác trông Lý Công Uẩn, ông đã thấy cái thần minh anh tú, hiện ra từ đôi tròng mắt và toàn thể gương mặt thơ ngây của cậu bé. Không kìm nén được, Vạn Hạnh đã buột miệng nói ra: “Thằng bé này không phải là người thường, sau này lớn lên, tất có thể giải quyết được mọi việc khó khăn trong đời, trở thành đấng vua giỏi trong thiên hạ”. Ngày ấy Lý Công Uẩn còn quá nhỏ, chưa ý thức được lời khen của thầy. Và từ ấy, Vạn Hạnh lo nuôi dạy cho Công Uẩn nên người. Thay vì rèn dạy cho Công Uẩn trở thành người xuất gia xả tục, một đạo đồ kế tự truyền đăng của dòng thiền, Vạn Hạnh trước hết trao cho Công Uẩn cái tâm thiện của nhà Phật. Tiếp đó ông dạy cho Công Uẩn nắm được các yếu ước của nhà Nho trong mối rường sắp đặt và bình trị thiên hạ. Cả binh thư, đồ trận, thái ất thần kinh, thiên văn, địa lý ngài đều chỉ bảo đến chỗ rốt ráo của kinh văn. Phải nói, Công Uẩn là người có chí lớn, nên tiếp thụ sự giáo huấn có dụng tâm của Vạn Hạnh rất hài hoà, thầy trò thật là tâm đắc. Nay Công Uẩn công thành danh toại, đó chẳng phải là cái nhân Vạn Hạnh gieo đã thành cái quả Thuận Thiên rồi đó ư? Còn với ngài Đa Bảo thì sao. Thiền sư là người có con mắt xanh thấu thị. Ngay từ thời Lý Công Uẩn còn là cậu bé mười bốn mười lăm tuổi, theo hầu thầy Vạn Hạnh tới kiết hạ tại chùa Khai Quốc, sư Đa Bảo trông thấy liền nói: - Cậu bé này cốt tướng chẳng phải tầm thường, ngày sau làm vua, ắt là người này đây. Lý Công Uẩn nghe sư nói cả sợ, bèn thưa: - Thánh đế đang trị vì toàn cõi, đất nước yên bình, sư nói thế không khéo gây hoạ tru di cho cả họ nhà tôi. Sư đáp: - Mệnh trời đã sắp đặt, dù muốn hay không cũng không được. Nếu quả đúng như nhời, mong đừng quên nhau. Thiền sư Vạn Hạnh nghe thấy lời đó cũng giật mình, sợ để Công Uẩn theo hầu sẽ có người bàn tán dị nghị, thì tính mệnh Công Uẩn khó toàn, bèn đuổi Công Uẩn trở về chùa Lục Tổ, lại căn dặn rất kỹ càng: “Các sách binh thư, lý số, nhâm cầm độn toán, thiên văn địa lý phải cất giấu đi. Đọc quyển nào lấy ra quyển ấy, không được khinh suất cho người ngoài thấy được”. Từ đấy, Công Uẩn rất cẩn trọng trong việc xuất lộ và giao tiếp. Nay mọi việc đều đúng như nhời các thiền sư tiên lượng, Lý Công Uẩn không biết lấy gì để trả cái ơn tri ngộ của các bậc tiền bối. Nhất là với thầy Vạn Hạnh, vừa giáo dưỡng, vừa dìu dắt, vừa bày xếp cho nhà vua từng bước, từng bước, cho đến ngày viên mãn. Có nhẽ điều tốt nhất để đền đáp công ơn nhà Phật là làm cho sự đạo được hưng thịnh. Nghe lời thỉnh cầu của nhà vua, hai vị đại lão thiền sư rất lấy làm đẹp ý. Hai vị cứ đùn đẩy nhau không ai chịu mở lời trước. Một lát, thiền sư Đa Bảo nói: - Tâu bệ hạ, tăng này là kẻ xuất gia, bốn bể đều là tâm Phật đất vua cả, nên lão tăng thường vân du khắp cõi, chứ có dừng lại ở đâu mà phụng sự bệ hạ. Nói xong thiền sư cười ha hả. Tiếng cười trong trẻo hồn nhiên của người không còn nhuốm một chút bụi trần nào, tựa như sư đã nuôi dưỡng được cái tâm vô lậu vậy. Thiền sư Vạn Hạnh chợt mở bừng mắt, ngài nói: - Gần hết cuộc đời, tăng này gắn kết giữa Đạo với Đời, nay tuổi đã xế tàn, còn ngày nào, chỉ nguyện hiến dâng cho sự đạo, mong bệ hạ thể tất cho. Vả lại, các bậc sư tượng bây giờ nhiều vị còn trẻ mà tài năng đức độ đã tới mức quán thông, sức lực lại sung mãn, xin bệ hạ vời những người đó, thì mới giúp bệ hạ lèo lái con thuyền quốc gia ra khỏi chỗ trì bế, mà các triều trước còn để lại gánh nặng cho bệ hạ. Lý Công Uẩn nhìn hai người thầy mình với tấm lòng kính ái, và quả nhiên sức các vị đã xuống lắm rồi. Với cái tuổi ngoài bảy mươi, các vị sống qua ba triều đại, phải chứng kiến biết bao biến thiên lịch sử, thì cái sự bãi bể nương dâu cũng là chuyện thường tình. Nhà vua rất mong có dịp để đền đáp công ơn các bậc tiền bối. Như thầy Vạn Hạnh đó, nếu không có thầy dạy dỗ và hướng đạo cho, thì thân này bất quá cũng chỉ là một thầy tăng bình thường thôi, chứ có hơn gì ai. Rồi từng bước nhập thế, đều có sự dìu dắt, và cả sự che chở kín đáo của thầy. Công ơn sâu nặng ấy, làm sao ta có thể trả được. Có nhẽ ngài là một vị Bồ tát, do đức Thế tôn phái xuống để tạo nghiệp quả cho đất nước này, mà ta chỉ là một cơ duyên trong then máy do các ngài bày xếp. Nhà vua lại tự nghĩ: nhưng đền đáp sao đây. Các vị đã xuất gia xả tục, thì các việc như danh lợi các vị coi không bằng cọng cỏ. Khi đã buông xả tất cả, không chấp hữu, chẳng chấp vô, thì đừng nói tới chuyện đền đáp ơn nghĩa với các bậc đại giác này. Nhưng quả thật, nếu không nhắc tới, hoặc không làm một cái gì đó để đền đáp trọng ân của các vị, thì lương tâm ta lại bứt rứt. Lý Công Uẩn thực sự loay hoay khi ông mở lời: - Công Uẩn tôi được các sư phụ nuôi dạy thành người, được dân nước ái mộ, nên lạm ở trên trăm họ mà lòng lúc nào cũng run sợ, như người mặc áo cỏ khô ngồi trước lửa. Nhiều lúc lúng túng không biết phải làm gì để đáp lại tấm lòng của trăm họ. Vậy xin các bậc cao minh chỉ giáo cho, xem trong sáu năm chấp chính, những việc triều Thuận Thiên đã làm, cái gì được, cái gì sai hỏng. Và nữa những việc triều Thuận Thiên hành xử với đạo Phật cũng như các đạo Nho, Lão như vậy có được không; các bậc thức giả có dị ý gì không; xin các đại lão cho trẫm được tỏ tường. Thiền lão Đa Bảo xua tay nói: - Bệ hạ không phải nhiều lời. Sáu năm chấp chính tha liền tô thuế ba năm, thế là nhân. Bỏ hết các hình phạt tra tấn dã man như cùm kẹp, voi giày, ngựa xé, hổ báo rắn rết hành hình đối với mọi người thế là nghĩa. Khởi nghiệp của một triều đại bắt đầu từ những việc nhân nghĩa; triều đại ấy nhất định sẽ trường cửu chứ không đoản nghiệp như các triều Đinh, Lê. Nghe thiền sư nói những điều chân thực bằng vào các việc mà triều Thuận Thiên đã làm, Lý Công Uẩn lấy làm hài lòng. Là người từng trải sự đời lại thấu hiểu lòng dân, cho nên nhà vua lúc nào cũng băn khoăn về những việc mình làm. Tuy thân ở ngôi cửu ngũ mà lòng lúc nào cũng canh cánh lo âu. Việc giản đơn như người nông phu thì phải có ruộng đất, phải có trâu bò để cày kéo. Ngay việc ấy cũng không dễ gì làm được. Bởi ruộng đất, trâu bò hiện do các nhà quan, các nhà giàu chiếm hữu gần hết. Không những thế, chúng còn giết mổ trâu bò ăn uống phè phỡn vào các việc tế lễ, tang ma, cưới hỏi, trong khi đám nông phu cứ phải è cổ ra kéo cày thay trâu. Triều Thuận Thiên tuy có khoan nới tô thuế, tạp dịch; song quả thực thân phận người nông phu vẫn chưa hơn gì thân phận đám ngựa, trâu. Thấy Đa Bảo thiền sư nói những việc có thật, nhưng lại hàm ý khen ngợi vẻ như tâng bốc nhà vua, thiền sư Vạn Hạnh nét mặt hơi nghiêm lại, sư nói: - Triều Thuận Thiên tuy còn mới mẻ, nhưng đã làm được nhiều việc, thuần những việc nhân nghĩa như ngài Đa Bảo nói. Tuy vậy cũng còn ối việc nhà vua cần phải làm tiếp. Mong muốn của nhà vua là xây đắp một quốc gia, dân thì giàu mà nước thì mạnh. Gốc của nước là dân. Nhà vua mong cho dân giàu cũng tức là mong cho người nông phu phải có ruộng cấy, trâu cày. Bởi làm ra của cải cho toàn xã hội là ở lớp người này. Thế nhưng phần đông trong số họ, hiện đang phải đọa đày trong kiếp nông nô tại các dinh phủ của quan lớn quan bé, và ở trong các nhà phú hộ. Số không phải là nông nô, thì lại không có ruộng, không có trâu. Thành thử mong muốn của bệ hạ vẫn cứ là mong muốn thôi. Còn bệ hạ tha tô thuế, cũng chỉ người giàu có lợi. Ngừng lại giây lâu, tựa như còn để cân nhắc nông sâu, đoạn thiền sư Vạn Hạnh lại tiếp: – Bệ hạ băn khoăn hỏi đám thiền lão xem triều Thuận Thiên hành xử với các dòng đạo như thế, các bậc thiện trí thức, các giáo đoàn có dị ý gì không? Vậy là bệ hạ đang quan hoài đến hai việc bao trùm toàn xã hội, tức là cả thế tục lẫn tâm linh, có đúng không nào? Nói xong, thiền sư ngửng nhìn nhà vua, đôi mắt ngài rọi sáng như hai luồng hào quang khiến gương mặt nhà vua như rạng rỡ thêm lên. Vua Thuận Thiên gật đầu đáp: - Đúng thế! Đúng thế. Đó là hai việc lớn quốc gia luôn luôn ám ảnh trẫm. Xin nhờ hai bậc quốc sư chỉ bảo cho trẫm những điều quan yếu nhất, mà triều Thuận Thiên cần phải tiếp nối canh cải. - Vậy thời, Đa Bảo thiền sư hắng giọng, ngài với cây thiền trượng dựng bên mé thiền sàng gõ xuống nền đất ba cái, rồi chống gậy đứng lên đi loanh quanh. Thiền sư Đa Bảo có thói quen, mỗi khi nói việc gì hệ trọng là người phải nói trong thế hành, tựa như một cao tăng vừa hành thiền vừa thuyết pháp. – Vậy thời, sư nhắc lại, – Việc cấp kỳ là phải làm sao cho người nông phu có ruộng đất cấy trồng. Có ruộng đất thì mới nói đến chuyện người nghèo đủ ăn, đủ mặc được. Nhưng lấy đâu ra ruộng đất cho người nghèo? Vừa buông câu hỏi đột ngột, sư vừa dộng mạnh cây thiền trượng xuống nền gạch, và nhìn thẳng vào mắt nhà vua đang chú mục nhìn sư. - Quả vậy, nhà vua xác nhận, – ruộng đất cho nông phu là điều khiến trẫm lúc nào cũng canh cánh khôn nguôi, xin quốc sư chỉ giáo. Thiền sư Đa Bảo đi thêm mấy bước nữa, rồi người ngoắt quay lại phía nhà vua giọng chậm rãi: - Không! Không thể lấy hết ruộng đất của người giàu để chia cho người nghèo được. Nhưng cũng không thể để cho các chủ đất chiếm hầu hết đất ruộng được. Điều đó không công bằng. Sinh thời đức Thế Tôn cũng không chấp nhận điều này. Vậy thời chỉ có khuyến cáo người không có ruộng đất đem sức ra khai phá đất rừng, đất hoang hoá, đất bãi bồi. Triều đình cấp cho họ gạo ăn làm cái vốn để khai phá đất đai hoang hoá. Nếu không, họ khai phá đến đâu, lại phải bán cho các chủ đất đến đấy. Thiển nghĩ, nếu có chiếu vua ban, ai vỡ được đến đâu cho làm chủ luôn đất ấy, lại tuỳ theo công sức bỏ ra mà tha tô thuế từ năm đến mười lăm hoặc hai mươi năm, ắt là người nghèo sẽ đổ xô đi tìm đất. Thấy mắt nhà vua vẫn hau háu muốn nghe, thiền sư Đa Bảo lại hồ hởi nói tiếp. Tuy tuổi già nhưng thiền lão có giọng nói sâu trầm khoẻ khoắn, chứng tỏ nội lực ngài còn dư dả. – Nếu nhà vua lại xem xét thấu đáo dân tình mà ban hành một đạo chiếu trong đó hạn chế việc chiếm nô, chiếm điền nữa thì sư này dám chắc với bệ hạ rằng, bệ hạ không muốn cho dân giàu cũng không được. Một khi dân đã giàu thì nước ắt phải mạnh. Đó chính là cái đạo nước nổi thuyền nổi, mà từ cổ xưa các bậc minh quân đã từng làm, mong bệ hạ lưu tâm. Nhà vua rất hài lòng về lời chỉ bảo nhân nghĩa, mà chính ra đây là cả một kế sách an dân; xuất phát từ cái tâm thiện của thiền sư. Nhà vua chợt nhớ, đã lâu lắm, từ khi ta còn là một chú tiểu tăng ở chùa Lục Tổ hầu thầy Vạn Hạnh, thấy thiên hạ lắm điều bất công. Người thì tiền dư thóc mục, người thì chết đói, chết rét nằm co quắp đầy đường sá, cầu quán. Người mới sinh ra đã kẻ hầu người hạ cho đến già, đến chết; mưa không tới mặt, nắng chẳng tới đầu. Lại có người cha truyền con nối, đời đời kiếp kiếp làm thân nô lệ. Những điều mắt thấy tai nghe ấy, ta đem hỏi thầy. Thầy khen ta: “Có tấm lòng trắc ẩn trước bất hạnh của người khác, ấy là dấu hiệu của lương tri. Giải toả được những bất hạnh ấy, tức là đem lại sự công bằng cho con người, cho xã hội, ấy là công việc của các bậc thượng trí, thượng giác. Ta kỳ vọng lớn lên con sẽ làm được các việc đó”. Phải chăng bây giờ đã đến cái thời mà thầy ta kỳ vọng chăng? Thiền sư Đa Bảo vừa dứt lời, ngài lại gõ gậy xuống sàn nhà ba lần rồi lui về tĩnh toạ trên thiền sàng. Vua Thuận Thiên đứng lên vái sư ba vái: - Đa tạ! Đa tạ quốc sư chỉ bảo khiến cái tâm của trẫm đã bừng tỉnh. Lúc này cả thiền sư Đa Bảo, cả nhà vua đều hướng về phía thiền sư Vạn Hạnh như chờ đón sự chỉ giáo của người. Nhưng thiền sư vẫn ngồi điềm tĩnh, đôi mắt nửa khép nửa mở, gương mặt bình yên như mặt nước hồ thu. Ở với thầy lâu năm, nhà vua biết trong trạng thái thế này là tâm thầy rất trong lặng, thầy đang tìm về với bản thể uyên nguyên. Và cứ sau giây phút như vầy, tuệ tâm của thầy lại phát sáng. Vì vậy nhà vua rất hoài vọng khi thầy bừng tỉnh là cầu kiến ngay. Thiền sư Đa Bảo không để ý đến các sự việc thuộc về thiền hạnh của sư Vạn Hạnh, nhưng ngài lại biết rất rõ về thiền nghiệp của sư. Đa Bảo nói nhỏ, nhưng thanh âm của ngài có độ rung mạnh mẽ, có nhẽ ngài chủ tâm kéo sư Vạn Hạnh vào cuộc tham vấn tròn đầy của nhà vua. Sư nói: - Vân du khắp cõi, ham mải bạn bầu với thông ngàn hạc nội, với gió thổi mây bay, với lâm tuyền hoang dã, có nhẽ đại lão hoà thượng không bằng bần tăng. Nhưng xét suy sau trước, tính việc ngàn năm, sắp đặt then máy với con mắt tuệ của thiền gia, thì bần tăng không bén gót hoà thượng. Vậy kính xin thiền lão bố thí thiện tâm đáp lời cầu kiến của nhà vua. - A-di-đà Phật! Sư Đa Bảo vừa dứt lời thì tiếng “A-di-đà” của sư Vạn Hạnh tiếp nối ngay. Và lời ngài nói cứ chảy ra như một dòng nước lưu thoát, như một thiền gia vừa đốn ngộ. – Việc thế tục, việc lợi lạc quần sinh, thiền sư Đa Bảo nói vậy, kể đã đủ đầy. Xin nhà vua lưu tâm hành hoá. Nay Vạn Hạnh ta nói về việc Đạo, việc tâm linh. Nhà vua nên nhớ, khi người ta đói, người ta nghĩ về ăn. Vậy cơm ăn chính là đạo của người đói. Tới khi người ta no rồi, người ta có ruộng đất, trâu bò lúa gạo dư dả rồi thì người ta nghĩ về trí, về tâm. Trí là để khai hoá xã hội, tâm là để khai mở cái thần minh cao cả của con người, ấy là tâm linh Phật. Bởi thế khi người ta no bụng rồi, thì trí và tâm là đạo của người no vậy. Thật ra không hẳn là như thế. Người ta có thể đói, nhưng người ta không thể sống trong ngu muội vì thiếu phần trí tuệ khai mở, người ta càng không thể thiếu phần tâm linh dắt dẫn. Hoá nên không thể nói phải chờ khi nào người dân no đủ rồi mới tính tới con đường khai trí, con đường khai tâm, cũng tức là đường Đạo. Mà phải hiểu rằng, con người dễ bị rơi vào lầm lạc của dục vọng, đam mê, tăm tối, chỉ vì con người thiếu trí tuệ và tâm linh soi sáng. Những việc này sống dưới thời Lê Long Đĩnh, chắc bệ hạ đã tường, ta không nhắc lại nữa. Nay nhân việc nhà vua cho mở đạo tràng, cũng tức như nhà vua mông ân đức Thế Tôn. Ta đã nói từ khi bệ hạ còn trong độ tuổi thiếu niên rằng, nếu để dân ngu muội thì dễ trị. Nhưng dân ngu thì vua hèn, nước nhược, cuối cùng rơi vào sự thống trị của ngoại bang. Nay nhân nhà vua vừa hỏi về sự ứng xử dung hoà giữa các nền đạo, thì tăng này cứ thực lòng bày tỏ, có điều gì sơ khoáng xin bệ hạ đại xá. Trước hết nói về đạo Phật. Đạo Phật là đạo của từ bi hỉ xả, yêu mình, yêu người, quần sinh lợi lạc, không phân biệt sang hèn, giàu nghèo, trên dưới. Đức của nó lớn như nước, đâu đâu cũng nhuần thấm được hết. Vì tính thiện, tính từ ái bao trùm, nên có người bảo nó thiếu phần tranh đấu để tiến hoá. Thật ra thì Đạo Phật lấy nội lực làm động cơ tiến hoá chứ không ỷ vào tha lực. Vì vậy nó hợp với một xã hội mà người người đạt tới phần trí năng thuần khiết. Song le xã hội của bệ hạ thì muôn phần bề bộn mà phần nào cũng còn sơ khoáng lắm. Cho nên bệ hạ phải dựa vào Nho để tải Phật. Đạo Nho là thứ đạo bình trị thiên hạ, nên nó sắp xếp mối rường chặt chẽ. Đạo Nho cũng dạy con người vị nhân, nhưng thực là nó vị kỷ. Ngoài ra nó còn là một trường thực nghiệm các tư tưởng của Bách gia chư tử. Mà tư tưởng nào cũng đầy rẫy sự ganh đua của dục vọng. Dục vọng đẩy tới thái quá thì thiên hạ đại loạn, tức là chiến tranh bùng nổ. Còn đạo Lão thì sao? Thuyết của Lão Tử có điểm tương đồng với tư tưởng của đức Thế Tôn. Nghĩa là tôn trọng sự an bài của thượng đế. Lấy sự vô tranh làm căn cốt cho cuộc tiến hoá sinh tồn. Đạo ấy vời cao quá. Đạo ấy mông lung quá. Tựu trung người Trung Hoa không với tới được, không theo được. Vì thế nó đã đi trệch cái đích cao thượng mà Lão Tử khởi xuất. Tới nay nó là một thứ đạo của những kẻ mộng du, những kẻ ham sống, những kẻ dị đoan. Đạo này nhập vào ta từ đời Đông Hán. Nhưng mới rộ lên từ đầu đời Bắc Tống. Hiện nước ta nhan nhản những kẻ lánh đời ẩn dật, những kẻ luyện đan cầu tìm sự trường sinh bất lão, nhưng nguy hại hơn cả là bọn vu hích, tức bọn phù thuỷ, gieo rắc những trò dị đoan nhảm nhí, lừa mị dân lành, gây hao người tốn của. Vạn Hạnh nói mà không cần biết nhà vua có còn muốn nghe. Tựa như ông coi những điều ông cần phải nói với nhà vua, là một bổn phận thiêng liêng vậy. Đột nhiên cặp mắt của thiền sư lim dim khép mở. Một lát sau, thiền sư lại tiếp lời: – Hiện trên đất của bệ hạ đang tồn tại ba nền đạo lớn. Mà đạo nào thì cũng từ ngoài đưa vào, chứ thực đạo của ta chưa có. Hoặc giả nó còn sơ khai lắm, nó chưa tiến hoá kịp với cuộc sống nhân quần. Bởi thế ta phải mượn các nền đạo từ Tây Trúc, từ Trung Hoa để bù đắp cho cái mà ta thiếu hụt. Song bần tăng xin bệ hạ lưu tâm, cả ba dòng đạo đó, không một dòng nào viên mãn. Do vậy ta không nhất thiết phải trung thành với một dòng nào cả, cũng bởi không có một dòng nào thấu đạt được tâm linh hiền hoà nhưng sâu kín của dân ta. Từ xa xưa, các bậc tiền bối đã ứng hợp mà du nhập vào, thì nay ta phải nhiếp thống cái tinh tuý nhất của cả ba dòng đạo ấy lại, để có được một nền đạo thuần Việt mà không hề sai lạc cốt cách tinh tuý ban đầu của mỗi đạo. Tựu trung Đạo của ta phải gồm đủ ba phần: - Tâm linh Phật. - Xã hội Nho. - Thiên nhiên Đạo. Nhưng phải lấy đạo Phật làm chủ thể. Vì đạo Phật ưu việt hơn tất thảy các nền đạo khác. Như vậy là ta đã hoà đồng được các tông giáo. Nếu nhà vua lấy đạo Phật làm quốc đạo, thì cũng không vì thế mà ức Nho hoặc ức Lão. Nếu có sự phân biệt, ức chế ắt sẽ gây chia rẽ trong dân chúng, cũng tức là gây chia rẽ giữa các nền đạo, và nó sẽ là mối hiểm nguy tiềm tàng, dẫn tới các cuộc lưu huyết đau lòng. Nhà vua chăm chú nghe như uống lấy từng lời từ người thầy mà theo ông, nếu thiếu ngài, chưa hẳn đã có cái triều đại nhà Lý ngày nay. Vua Thuận Thiên thầm reo lên ở trong lòng: “Cái ta cần tìm chính là cái thầy đã trao cho ta trọn vẹn! Ôi lòng ta sao sáng trong như người vừa đốn ngộ. Thật không có học thuyết nào cao hơn, hợp hơn cái học thuyết tam giáo hoà đồng của thầy ta. Phải, ta dại gì mà khư khư ôm lấy riêng một nền đạo, mà đạo nào cũng có một phần hoặc nhiều phần khiếm khuyết. Hơn nữa nó cũng chẳng phải là một thứ hương hoả của ông cha để lại mà phải khư khư giữ lấy làm gì. Tất cả các nền đạo đều chỉ là phương tiện cho sự sống của dân ta, tựa như đức Thế Tôn đã dạy: “Nó chỉ là cái bè, tức cái phương tiện giúp con người qua sông. Sang sông thì vứt bè lại đi bộ hoặc đi xe thì mới nhanh được. Khốn nạn cho những kẻ ngu khờ, cứ khư khư đội mãi cái bè trên đầu như đội một trái núi, khuất lấp hết cả tầm nhìn và cũng chẳng thể nào bước tiếp…””. Nhà vua vừa suy tư vừa lắng nghe bậc đại lão hoà thượng huấn hỗ. Thiền sư Vạn Hạnh vẫn bền bỉ nói: – Nhân bữa nay khai mở đạo tràng, bần tăng lưu ý bệ hạ, phải giáo dưỡng lớp sư tăng này khi mãn khoá trở về tu chứng tại các chùa làng. Ngoài hướng hoá phần tâm linh cho nhân chúng, còn có bổn phận khai hoá cho con em họ. Tức mỗi ngôi chùa phải là một ngôi trường dạy chữ và truyền đạo, kế cả việc trị bệnh cứu người và hướng dẫn họ các việc về pháp luật nữa. Làm được như vậy, dù bệ hạ có không muốn đất nước của bệ hạ phú cường, an lạc cũng không được. - A-di-dà Phật! Thiền sư Vạn Hạnh đột ngột kêu hồng danh đức Phật. Và ngài đưa tay lên chuỗi tràng hạt đeo nơi cổ, vừa thầm niệm vừa lần hết 108 hạt Bồ đề[67]. Chẳng hiểu trong lòng thiền sư có gì xao động, mà người phải ngừng lời để thảy bỏ phiền não. Đoạn ngài lại tiếp nối câu chuyện: – Bệ hạ! Vì sao bần tăng lại nói nên lấy đạo Phật làm quốc đạo? Bởi yếu chỉ của Phật giáo không phân biệt giàu nghèo, đẳng cấp, ai cũng có thể theo đạo và tu đạo được. Ai cũng có cơ may trở thành Phật. Vì rằng trong cõi thế gian, ai ai cũng có Phật tính. Do vậy đức Thế Tôn mới nói: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành”. Ngài cũng từng dạy, ngay các loài vật, hễ đã tiến hoá tới cửu khiếu[68], đều có thể tu Phật. Chính vì tính bác ái, đại đồng, chứ không kỳ thị chủng tộc như người Trung Hoa phân biệt giữa Hoa Hạ[69] với tứ Di[70]; không phân biệt đẳng cấp như quân tử với tiểu nhân của Nho học. Lại cũng không quá mơ hồ, hư ảo như Lão học; hoá nên chọn đạo Phật làm nền đạo chính thống cho quốc gia Việt tộc là chân xác. Vả lại đạo Phật vào nước ta từ rất sớm, từ trước và sau thời nhị nữ Trưng vương[71] đã có các nhà truyền giáo từ Tây Trúc sang ta như Ma-ha-kỳ-vực, Khâu-đà-la, Mâu Tử, Khương Tăng Hội. Trước tác LÝ HOẶC LUẬN và nhiều sách khác cùng các bản kinh Phật quý báu do các vị viết và chuyển dịch sang Hán tự từ đất Luy Lâu[72] vẫn còn truyền tới nay. Điều đó chứng tỏ, đạo Phật đã hòa nhập với tâm linh Việt tộc, cùng tiến hoá theo tư trào văn hoá Việt, mang cốt cách Việt và trở thành Việt Phật từ lâu rồi. Ngược dòng lịch sử ta thấy nền văn hóa Phật giáo vào nước ta từ thời Hùng Duệ Vương, tương ứng với thời đại Chiến quốc của Trung Hoa. Khi ấy nhà nước Văn Lang còn xa lạ với Nho học cũng như nhà Chu còn chưa biết đến đạo Phật. So với ba nền đạo hiện tồn trên đất nước ta, thì chưa nền đạo nào đủ mạnh như đạo Phật. Đạo Phật có hàng trăm phái, hàng nghìn pháp môn, nhưng lại không có sự tranh chấp giữa các phái tới cố chấp, để trở thành xung đột, thành lưu huyết như các nền đạo khác. Dù nhiều pháp môn, nhưng đều tuân theo yếu chỉ: “Vạn Pháp quy không”[73]. Phải nói, chưa một nền đạo nào có được học thuyết hàm uẩn và siêu việt như đạo Phật. Hiện có tới hàng vạn bổn kinh khác nhau, kinh nào cũng hướng con người tới cõi thiện, hướng con người tới giải thoát. Ngoài kinh bổn đã du nhập vào nước ta từ lâu đời, còn có nhiều cao tăng đang hành hoá khắp cõi, lại có các đạo tràng đào luyện và huấn hỗ sư tăng để hành đạo. Tín chúng theo về cũng ngày một đông đảo. Cứ ở đâu có hương ấp là có chùa tháp. Có chùa tháp là có tăng, ni chăm sóc phần tâm linh cho dân chúng. Nói tới đây thiền sư Vạn Hạnh nhìn thẳng vào tròng mắt của nhà vua, như một lần nữa đo dò ý tứ. Và ngài thong thả tiếp – Vậy là bần tăng đã bộc bạch hết gan ruột để dâng lên bệ hạ, nếu bệ hạ xét suy sau trước dùng được điều nào thì dùng, không dùng được thì bỏ. Thiền sư Vạn Hạnh vừa dứt lời, vua Thuận Thiên liền đứng dậy cúi đầu vòng tay vái thiền sư ba vái và từ tốn nói: - Con xin lĩnh ý thầy. Thiền sư Đa Bảo vụt đứng lên gõ cây thiền trượng xuống đất ba cái, ngài cười lớn, và nói: - Nhời ta có sai đâu. Ta đã bảo đại lão Vạn Hạnh có con mắt tuệ nhìn thấu mọi nhẽ huyền vi của trời đất, ngài quả là bậc thánh tăng. Đa Bảo thiền sư nheo mắt cười, ngài nói tiếp: – Nhân đại lão hoà thượng phát tâm Bồ đề với nhà vua, về các yếu chỉ dựng xây nền đạo cho Việt tộc, bần tăng xin nói thêm, không phải tới bây giờ, tới thời Thuận Thiên mà ngay từ các đời Đinh – Lê về trước, đạo Phật cũng giúp vào việc bình ổn xã hội nhiều lắm. Nay triều Thuận Thiên mà khéo phối tạo được một nền Việt đạo, tức là Việt Phật, thì chính nền đạo đó là linh hồn của Việt tộc ta; nó sẽ bồi đắp cho sự tiến hoá không ngừng của non sông đất nước. Nó sẽ là mối dây gắn kết keo sơn giữa con người với con người trên toàn cõi. Nó chính là vật báu giữ nước. Vì vậy nó phải được truyền thừa. Mất nó, dân nước sẽ bơ vơ không nơi bấu víu, không có chỗ trú ngụ tâm linh. Mất nó cũng tức là mất nước. Thiền sư Đa Bảo vừa dừng lời, cũng vừa lúc viên Hữu nhai tăng thống Thẩm Văn Uyển cùng đạo sư Hương Nghiêm đã làm xong các việc khai tràng, và giáo huấn thiền sinh. Ông trở vào nhà phương trượng thỉnh nhà vua và hai bậc đại lão hoà thượng ra lễ đài để các thiền sinh được chiêm bái.