Q1 Chương 17.
Cứ nghĩ đến việc ngày mai được đi mở phủ hoàng thái tử Lý Đức Chính lòng càng chộn rộn, hết đứng lại ngồi. Chàng nhớ, ba hôm trước, vua cha vời vào điện Long Thuỵ căn dặn lại một lần nữa trước khi lên đường. Vua cha vỗ về: “Ta cho con đi mở phủ riêng, không phải là đày con vào nơi khổ ải. Mà ta muốn con có cơ may được sống chung lẫn với người dân. Bởi mai đây con sẽ thay ta trị vì thiên hạ. Trị vì thiên hạ không phải là đem quyền uy ra bắt toàn dân phải khuôn theo ý mình. Trị vì thiên hạ không có nghĩa rằng chỉ lo đến việc thoả lòng dục của riêng mình rồi đẩy dân chúng vào vòng lầm than. Nếu thế thì đã có tấm gương hoen ố mà Lê Long Đĩnh treo suốt bốn năm ròng để rồi thân, danh đều vùi chôn trong nhơ nhuốc. Vì vậy người đứng đầu muôn dân không thể không biết dân muốn gì. Nếu muốn biết lòng dân thì phải sống chung lẫn với họ. Đôi khi con còn phải chung lo với họ những công việc nhỏ nhoi, mà kẻ giàu sang cho là hạ tiện. Ấy là miếng cơm manh áo hằng ngày hoặc khi ốm khi đau. Những thứ bé mọn ấy nhiều khi nó làm chìm nghỉm cả một kiếp người. Con nên nhớ, người đứng đầu muôn dân phải có cái hạnh Bồ tát. Vì vậy con không được từ nan bất cứ điều gì mà dân chúng đang cần đến con. Con nên nhớ cha con bây giờ đứng đầu trăm họ, nhưng đã từng là một chú tiểu tăng, bách na chi nô, không thiếu một việc gì ta không làm. Ta nhớ, có những năm trời làm mất mùa, phải vào rừng đào củ mài, lấy bột báng biết bao là gian nan. Hoá nên bây giờ ta biết thương người nghèo đói.
Chẳng nói đâu xa, ngay như đức Lê Hoàn, khi đã được nước rồi, đã phá Tống bình Chiêm, thế nước vững như bàn thạch, uy danh trùm thiên hạ, thế mà mùa cày, mùa gặt ngài vẫn đóng khố đi cày, đi gặt lam lũ với đám nông phu. Chỉ tiếc rằng cha thì thế mà con thì thế. Ấy cũng bởi cái đức của họ Lê mỏng quá. Tưởng con nên lấy để làm gương…” Vua cha cứ rủ rỉ nói với ta như là một sự khuyên nhủ đối với đứa con yêu, hoặc như với người bạn vong niên mà ông quý; lại như một sự bộc bạch có pha phần lo lắng cho vương nghiệp các đời sau của dòng họ Lý. Ôi lời cha răn dạy, ắt ta phải ghi sâu vào đáy dạ. Nhưng cứ nghĩ đến cái ngày mai ta được về hương Tam Sơn, được gặp lại Mạnh Minh, người bạn mà ta hằng quý mến thì vui biết mấy. Nhưng ta cũng phải thừa nhận rằng, ta không thể nào xoá được hình ảnh cô gái quẩy hai giỏ lá dâu nặng trĩu ở hai đầu đòn gánh, bước đi nhún nhảy như người chạy gằn, có gương mặt tròn sáng như mặt trăng rằm với đôi mắt bồ câu đen lay láy. Chợt thấy ta, nàng ngơ ngác như một con nai tơ vừa bước ra khỏi nơi rừng rậm, lại có dáng e ấp ngỡ ngàng như một nàng tiên vừa lạc bước xuống trần. Cái con nai tơ này, cái nàng tiên này đích thị là em gái của Mạnh Minh rồi, nhưng sao bữa ấy ta lại chưa kịp hỏi tên nàng. Anh nàng họ Mai, thôi thì ta cứ tạm cho nàng một cái tên là Mai thị vậy. Ước gì ta đến tuổi nạp phi, ta sẽ xin với phụ vương cho ta đưa nàng về cung. Trong giấc ngủ chập chờn, hoàng tử mơ về Mai thị và chàng cảm như có ai phủ lên thân thể chàng một tấm chăn mỏng nhẹ như khói, mà sao nó dịu êm đến thế. Chàng cảm như tấm chăn kia nâng bổng chàng lên, và cứ thế chàng bay, bay miết vào bầu trời thăm thẳm với triệu triệu ánh sao xanh. Sớm mùa thu, những tia nắng trong trẻo luồn qua các song cửa vào nhảy nhót trên vầng trán, và đùa giỡn trên cặp má đậm lông tơ, khiến hoàng tử cảm thấy buồn buồn, như có ai mơn man vào da thịt mình. Chàng mở bừng mắt, ngồi nhỏm dậy, tấm chăn lông chim tuột hẳn xuống chân giường, vừa lúc nhũ mẫu bước vào đón lấy. Bà vừa gấp chăn vừa nhìn chàng âu yếm. Nhưng trên gương mặt già nua kia thoáng hiện một nét buồn. Bà biết sớm nay hoàng thái tử cùng những phụ tá của chàng sẽ rời kinh thành đi mở phủ. Nhũ mẫu tự biết thân phận mình chỉ là một người hầu, nhưng bà vẫn không kìm nén được tâm trạng của người mẹ, sắp phải xa đứa con ngoan mà mình biết bao công sức chăm bẵm nó, từ khi mới lọt lòng. Bà nhớ khi vào hầu trong nhà thân vệ tướng quân điện tiền chỉ huy sứ, ông còn đang coi sóc cấm quân ở Hoa Lư, phu nhân mới mang thai hoàng tử Đức Chính bây giờ được ba tháng. Nhũ mẫu đã từng đẻ tới chín lần, đậu được ba đứa một trai, hai gái. Đứa bé nhất mới tròn một tuổi thì phải để con lại cho chồng, đi nuôi con của thân vệ. Chẳng có ai bức bách cả, nhưng nhà nghèo quá, lại có người mách được vào hầu hạ nhà quan. Vừa có công cao, lại được nương nhờ cửa quyền uy, gia đình, họ mạc nơi hương thôn không còn sợ đám xã quan đè nén nữa. Thế là bà vào nhà thân vệ ẵm bế, tắm rửa và cả cho công tử ấp vú từ khi mới chào đời. Nhớ từ khi được lọt vào cửa quyền quý, nhũ mẫu được ăn uống đủ thứ của ngon vật lạ trên đời, mà khi ở nhà chưa từng được nhìn thấy, nói gì được ăn. Thực tình như cái thứ bà, một con nạ dòng quê mùa ai người ta hơi đâu mà nuôi vỗ cho béo múp đầu đuôi như một con nhộng. Chẳng qua mình cũng chỉ là kiếp con bò sữa mà thôi. Nhưng ngờ đâu từ ngày nuôi ẵm công tử, bù trì bú mớm, dõi theo từng hơi thở, từng bước đi của công tử, tự nhiên trong lòng nhũ mẫu nảy sinh tình cảm của người mẹ. Ấy là tự mình nghĩ thế thôi, chứ vía nhũ mẫu cũng không dám hé môi thổ lộ cùng ai. Nhất khi công tử đã trở thành hoàng thái tử, người kế vị vua cha trị vì thiên hạ. Nhũ mẫu thường phỉ thui, mỗi khi trong lòng chợt nảy cái ý nghĩ về tình mẫu tử đối với chàng hoàng tử này. Cho tới nay, khi sắp phải nhìn thấy hoàng thái tử ruổi ngựa lên đường, thì cái ý nghĩ diệt tộc kia, tức là cái lòng nhớ nhung thương cảm của người mẹ, chợt bùng lên từ đáy lòng bà. Nước mắt bà tự nhiên cứ ứa ra, tấm chăn lông chim tuột khỏi tay rơi xuống đất lúc nào bà cũng không hay nữa. Thái tử đọc được tình cảm của bà, chàng đứng dậy ôm choàng lấy cổ nhũ mẫu như ngày nào chàng còn năm, sáu tuổi. Chàng nói: - Nhũ mẫu đừng khóc nữa. Tôi đi mấy ngày lại về với nhũ mẫu thôi mà. Bà lấy đầu dải thắt lưng chấm nước mắt, hai tay ôm lấy thái tử vỗ về, giọng rưng rưng cảm động: - Già này chỉ lo mấy ả a hoàn, mấy gã nội nhân không biết cách hầu hạ thái tử. Ước chi thái tử cho già được theo hầu, chăm sóc thái tử từ miếng ăn miếng uống thì già mới thật yên tâm. Thái tử buông tay khỏi cổ nhũ mẫu, lắc hai bờ vai và nhìn thẳng vào gương mặt dăn deo u buồn của bà, chàng bật cười khanh khách: – Nhũ mẫu cứ coi tôi như trẻ nít mãi ư. Nhũ mẫu chẳng thấy tôi đã từng theo các tướng đi đánh giặc sao. Chàng lại rung rung hai cánh tay bà, tựa như đứa bé làm nũng mẹ. Chợt chàng buông hai tay lùi xa mấy bước, mặt hơi nghiêm, bắt chước giọng người lớn, chàng nói nửa như nũng nịu nửa như răn dọa: – Nhũ mẫu chưa biết phụ vương tôi thường phán bảo mọi người rằng: “Ta sẽ trị tội kẻ nào làm các con ta trở nên yếu đuối”. Nhũ mẫu sợ quá, vội cúi xuống ôm gọn tấm chăn đi giật lùi ra cửa ngách. Thái tử cười phá lên, gọi với: - Nhũ mẫu! Nhũ mẫu, tôi nói đùa đấy, chớ sợ! Sớm ra, một đoàn các người tuỳ tùng đã tề tựu trước sân điện để rước thái tử đi mở phủ. Khác với lệ thường, bữa nay hoàng thái tử vận giản dị như một nho sinh nghèo. Áo dài thanh cát, đầu quấn khăn lượt chữ nhân, chân đi hài vải. Các người hầu cũng theo đó mà phục sức kín đáo chứ không tiền hô hậu ủng làm kinh động đến khách qua đường. Thái tử cỡi con ngựa sắc tía nòi Hồ, to cao có dáng dấp như một con thần mã. Con ngựa này có xoáy lông đen ngay giữa trán, và bốn khoáy nằm cân đối ở hai u vai và hai bên mông. Nó là con ngựa hay nhưng thuần tính. Theo sát thái tử là hai gã thiếu niên hộ vệ ở hai bên tả hữu cỡi hai con ngựa sắc huyền dáng hùng dũng. Đây chính là đám ngựa thu được của giặc man Tống do Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí cùng hai chục vạn binh kéo sang năm trước, bị quân ta tiêu diệt sạch sành sanh. Hai gã hộ vệ này còn trẻ măng, tuổi chừng mười sáu, mười bảy, tinh thông võ nghệ do bên cấm quân gửi theo hầu thái tử đã được gần một năm. Hai chàng đều vận áo quần thợ săn màu chàm. Mỗi chàng đeo một thanh đoản đao bên sườn, một cây cung bắt chéo ngang ngực, và giỏ tên lấp ló phía sau vai. Dẫn đầu đoàn quân là tướng Lê Phụng Hiểu, một tướng nổi danh khắp toàn cõi từ trước khi hoàng thượng cho vời về kinh sư. Nghe nói Phụng Hiểu là người hương Băng Sơn, châu Ái, có sức khoẻ hơn đời. Khi dân hai làng Băng Sơn[74] và Đàm Xá đánh nhau vì tranh chấp đất ruộng, ông can ngăn không được bèn vươn mình nhổ tre trong bụi làm gậy vung đánh, nhiều người chạy không kịp nên bị thương. Người làng Đàm Xá sợ bỏ chạy. Nay hoàng thượng cho ông theo hầu hoàng thái tử, với mong muốn thái tử hấp thu được tính hùng dũng, tài thao lược của Phụng Hiểu. Lê Phụng Hiểu bữa nay vận quần áo chẽn, may bằng vải thanh cát, đội mũ bình đính bằng da. Ông sử cây đại đao. Phụng Hiểu được hoàng thượng ban cho cái đặc ân là tự chọn trong lũ ngựa hàng vạn con thu được của đám giặc nhà man Tống để lấy một con vừa ý. Tướng quân đã lựa con Nê Thông có màu lông như màu bùn. Nom sắc lông không bắt mắt, nhưng đích thị nó là con ngựa chiến. Dạn lửa, bơi trong nước như đi trên bộ, chạy một mạch thông trăm dặm mà không cần nghỉ ngơi, ăn uống, không toát mồ hôi. Sau Lê Phụng Hiểu là Lý Nhân Nghĩa, một Chi hậu cục đã hầu hạ hoàng thượng lâu năm. Ông là một người trung hậu, có học thức cao. Lý Nhân Nghĩa là tay chân thân tín của hoàng thượng; được cắt cử theo hầu hoàng thái tử với mong muốn, ngoài việc gần gũi chăm sóc, còn là để giáo hoá hoàng thái tử về mọi mặt kể cả việc giám sát, không cho thái tử làm những điều trái đạo lý, trái pháp luật. Bữa nay Lý Nhân Nghĩa mặc áo quần theo kiểu nho sinh, ông có dáng người dong dỏng, khuôn mặt thanh tú, vầng trán rộng, đôi mắt sáng, ưa nhìn thẳng. Ông cỡi con ngựa bạch nòi ngựa ré Nước Hai, nhỏ như một con la. Ông ngồi trên lưng ngựa, phía trước phía sau yên cương chất đầy sách. Đi sau Lý Nhân Nghĩa là Ngô An Ngữ. Ngô An Ngữ, thuộc tướng của quan Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn dưới triều Lê Long Đĩnh. Ông có gương mặt vuông vức, bước đi mạnh mẽ, oai nghiêm. Có người nói ông còn có tên là Ngô Ích Vệ, là con trai Ngô Xương Xí, một trong mười hai sứ quân đóng tại Bình Kiều ở Châu Ái. Ngô Xương Xí lại là con của Ngô Xương Ngập tức Thiên Sách vương lên nối ngôi cha là Ngô vương Quyền, tức Ngô tiên chúa. Nếu đúng như vậy thì Ngô An Ngữ là cháu bốn đời của Ngô Quyền, người đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, giết chết tướng giặc là thái tử Lưu Hoằng Tháo, mở ra thời kỳ độc lập, tự chủ của nước nhà sau hơn một ngàn năm Bắc thuộc. Trong cuộc tôn lập Lý Công Uẩn lên ngôi, Ngô An Ngữ cũng là người có công lớn. Ông là đô tướng nắm giữ các đô quân hổ bôn canh giữ bốn cổng thành, nghiêm ngặt đến nỗi một cánh chim cũng không lọt ra ngoài được. Vì thế, có nhiều kẻ âm mưu bạo loạn cũng không có cách nào mà trở tay được. Ngô An Ngữ là tướng tâm phúc cũng như các tướng tâm phúc khác của nhà vua, nay cho theo phò hoàng thái tử, đủ biết nhà vua coi trọng người kế nghiệp biết dường nào. Thái tử dẫn đầu cả đoàn người sang nhà học đường đón quan sư phó. Sư phó chính là thầy đồ Trương Tuấn Minh, một người hay chữ và đức hạnh nổi tiếng khắp cả vùng Luy Lâu, mà hoàng thượng triệu vào cung nhằm giáo huấn cho hoàng thái tử nên người. Thái tử thân vào trong nhà mời thầy. Hai chàng hộ vệ của thái tử bê hành lý và sách bút của thầy đem ra chất lên chiếc xe song mã, đang chờ thầy trước cửa dinh. Quan sư phó mặc áo thụng xanh, đội mũ ô sa, vừa bước ra khỏi thềm nhà đã cúi đầu xá mọi người. Thái tử đi sau thầy học của mình chừng một bước chân, dìu thầy lên xe rồi chàng mới leo lên mình ngựa. Thái tử cùng với thầy học và tướng quân Lê Phụng Hiểu, nội nhân Lý Nhân Nghĩa qua sông trước. Đoàn tuỳ tùng cùng xe ngựa sang đò sau. Đang lúc đứng chờ, mọi người cùng quay nhìn về phía kinh thành. Mặt trời đã lên gần tới ngọn cây, đang rắc cơ man những lớp bụi kim nhũ xuống không trung. Bầu trời kinh thành mới lộng lẫy làm sao. Thái tử chợt nhìn xuống dòng sông. Sông cái mùa này nước cạn, để lộ ra hai bên bờ những ngấn đất phù sa đỏ au. Và dòng nước lúc nào cũng ngầu đục chất chứa mỡ màu. Hai bên bờ sông, rừng cây rậm rạp chạy xô tới cả mép nước. Nhìn dòng sông hẹp, thái tử mơ ước có một cây cầu bắc qua, nhưng chợt nhớ mùa nước nổi, dòng sông mênh mang đuối tầm mắt, nước chảy vun vút như mũi tên lao chẳng cầu nào chịu nổi. Xa kia, phía hạ lưu thấp thoáng mấy lá buồm cánh dơi, đang chậm chạp bơi trong làn sương mờ ảo. Những con thuyền khẳm mạn, chuyên chở sản vật từ mọi miền đất nước về bồi trúc cho Thăng Long. Thái tử cố kiễng chân để tìm nơi lầu Ngũ Phượng tinh, là lầu cao nhất kinh thành, nhưng nó đã bị chìm khuất trong màu xanh cây lá. Chàng lại đảo mắt về phía hồ Dâm Đàm, nơi quanh năm sương khói cứ ùn ùn bốc lên. Có khi sương mù như quánh đặc lại, đến chim chóc cũng không dám bay qua. Khi chuyến đò cuối cùng đưa hết người sang sông, cũng là lúc mặt trời đã lên tới đỉnh ngọn tre. Thầy trò, chúa tôi đi mãi tới non chiều mới đến đất Tam Sơn. Thái tử chỉ ngôi chùa nằm chênh vênh bên sườn núi, ẩn hiện dưới bóng đại ngàn, chàng nói với mọi người: - Để ta lên chùa chào thầy ta, và xin người cho ở đỡ ít ngày trong khi chờ chặt hạ cây que làm nhà mới. Thái tử sải được vài chục bước chân ngựa thì có mấy người quần áo tề chỉnh, đã chực sẵn ở lối rẽ lên chùa bước ra giữa đường vái: - Tâu thái tử, chúng thần là hương chức cùng một số bậc cao niên thay mặt cho dân chúng trong hương ấp, nghe tin thái tử về bản hương mở phủ, chúng thần ra đầu ấp cung nghinh, xin thái tử đại xá! Xã trưởng vừa dứt lời thì có bốn hoàng nam khiêng một án thư trên bày trầu, nước, cùng oản chuối dâng mời. Thái tử xuống ngựa, đỡ các bô lão và nói với chức dịch: - Cảm ơn các vị bô lão cùng xã quan, Đức Chính tôi được phụ hoàng cho về hương ấp ta mở phủ, triều đình đã có chỉ dụ không được làm điều gì phiền nhiễu đến chức dịch và dân chúng sở tại, cớ sao chư vị không giúp tôi giữ nghiêm phép nước. Một bô lão râu tóc bạc phơ vái dài thái tử một vái rồi nói: - Tâu thái tử, đây là lòng dân. Dân kính đức lớn của quốc vương mà mến yêu thái tử, chứ thực như thời Lê Ngọa triều, quả dân chúng khiếp sợ người của triều đình như một bầy cọp dữ, nghe tiếng binh mã từ xa đã tìm đường lánh ẩn, chớ đâu dám cận kề chiêm bái như bây giờ. Xin thái tử chớ nghiêm quá mà bỏ mất cái tình của dân. Nghe lời bô lão nói chí tình, tấm lòng trong trắng của thái tử hốt nhiên xúc động, chàng vội nắm lấy tay cụ già vừa lắc lắc vừa nói: - Đa tạ! Đa tạ! Trong lúc thái tử còn đang bối rối, chưa biết hành xử thế nào thì Lý Nhân Nghĩa và Ngô An Ngữ đã tới. Nhân Nghĩa bèn đỡ lời: - Các lão trượng cùng dân trong hương ấp đã có lòng như vậy, xin thái tử đừng khách khí. Thái tử bèn vẫy mọi người lại uống nước, ăn oản chuối. Chờ mọi người ăn uống xong, xã trưởng lại đứng ra thưa: - Xin thái tử tha tội, nghe thái tử về ở với dân, nên dân chúng đã phát quang mấy sào đất, dựng tạm một nếp nhà tranh làm chỗ cho thái tử cùng các vị tuỳ giá nghỉ tạm. Cả đất và nhà chỉ là tạm thời ạ, còn thái tử muốn cắm đất ở đâu, làm nhà như thế nào, xin thái tử chỉ dụ, dân chúng trong vùng hết lòng cung đốn. Nét mặt thái tử chợt buồn, chàng quay nói với mọi người: - Phụ hoàng cho ta về đây mở phủ, cốt là để cho ta cảm thông với nỗi vất vả của người nông phu. Nếu như các việc từ phát cây rẫy cỏ, dựng lán dựng nhà, cuốc đất cấy trồng, các vị trưởng lão cùng dân chúng không cho ta làm, thì có nghĩa là ta đã trái mệnh triều đình, và cũng chẳng bao giờ có cơ hội gần dân nữa. Các vị bô lão cùng xã quan sợ quá, cúi đầu sụp lạy: - Chúng thần không dám trái mệnh, xin thái tử tha tội. - Thôi được, các vị trưởng lão cùng bách tính đã có lòng, ta xin mượn căn nhà đó để nghỉ tạm trước khi cất được nhà mới. Nay thì ta xin kiếu để lên chùa chào thầy ta đã. Nói rồi thái tử xăm xăm leo dốc lên đồi.