Q1 Chương 18.
Qua một đêm ngủ nơi nhà tạm giữa lô đất rừng mới hạ cây cối, tre lá còn chưa kịp héo, nên mùi đất, mùi lá cây tươi cùng với sương rừng khí núi làm cho lạnh ngắt khiến thái tử trở nên khó ngủ. Chàng cựa mình rồi vùng dậy tới hai ba lần. Thái tử đã thử vận nội công, điều khí đi khắp cơ thể, nhưng cũng chỉ được một lúc rồi khí lạnh lại ngấm dần vào toàn thân. Chàng tìm ra chỗ đống lửa. Lửa tắt. Than tro tàn nguội. Đã toan gọi mấy đứa tả hữu hộ vệ dậy đốt lửa, nhưng thấy chúng ngủ ngon quá, chàng không nỡ đánh thức.
Trở về chỗ ngủ. Lắng nghe nhịp thở đều đều của mọi người, thái tử để ý thấy mỗi người thở theo một nhịp khác nhau. Thế mà trước đây ta cứ tưởng ai cũng thở như ai. Này nhé, tiếng thở của tướng quân Lê Phụng Hiểu thì trầm, sâu và to như tiếng ngáy; hơi thở của hai đứa dũng nhi thì ngắn mà phập phồng; hơi thở của quan sư phó thì nhẹ và chìm… Có nhẽ tính nết con người cũng biểu hiện ra trong hơi thở chăng. Chợt đâu đó tiếng gà rừng gáy vang. Một con, hai con, ba, bốn con gáy, rồi tiếng gáy cứ lan toả mãi, khiến rừng cây trở nên xao động. Lát sau tiếng gà im bặt, thái tử có cảm giác như rừng cây đã nuốt hết bầy gà. Nhưng ở đâu đó lại nổi lên tiếng ri rỉ như tiếng trùng ngân nga. Cái âm thanh mảnh nhẹ như sợi tơ trời kia cứ vuốt dài mãi ra, nghe sao da diết như nó sắp cứa vào da thịt, đến là khó chịu. Rồi bỗng tiếng mang tác, tiếng mấy con hoẵng kêu khiến cho tiếng trùng rền rĩ kia mất hẳn. Chợt tiếng hổ gầm, rồi tiếng chân các loài thú chạy rậm rịch, cây lá rung ào ào, thái tử có cảm giác như là động rừng. Động rừng, như nhũ mẫu thường kể, thì sợ lắm, chàng đã toan gọi tướng quân Lê Phụng Hiểu. Nhưng rồi các thứ tiếng gầm gào, rung động kia bỗng im bặt. Không gian lại tĩnh lặng y hệt lúc thái tử mới vào giấc ngủ. Lúc này chàng không cảm thấy cái giá lạnh của rừng đêm quấy rầy nữa. Chàng nghĩ đến công việc của ngày mai. Ôi chao, cứ nghĩ đến việc phải tự mình đi đốn cây dựng nhà, phá rừng lấy đất cấy trồng như những người nông phu lam lũ kia, là cả một chặng đường dài cực nhọc. Mới chỉ có một đêm ngủ ngoài cung điện thôi, nhưng vẫn có kẻ hầu người hạ, vẫn có giường chiếu, chăn đệm thế mà ta đã thấy thấm mệt. Vậy mà người nông phu cha truyền con nối, hết đời này sang đời khác sống trong bần hàn, nhưng lại bị không biết bao nhiêu tầng áp bức từ hương xã đến châu quận, phủ lộ và cả triều đình nữa. Thân phận họ như vậy, nhưng không biết dựa vào ai, không có một ai bênh, che cho họ. Có nhẽ cảm thông từ nỗi niềm bất hạnh đó, vua cha mới cho ta về cái miền quê khuất lấp này mở phủ, cốt là để ta sống gần dân, hiểu được nỗi thống khổ ngàn đời của họ, hoạ may đem lại cho họ được phần nào an vui chăng? Ôi tấm lòng Bồ tát của phụ vương, con quyết không phụ sự kỳ vọng đó của cha. Cứ triền miên trong suy tưởng, thái tử lại chìm sâu vào giấc ngủ muộn. Lúc thái tử thức dậy, mặt trời đã lên cao, mọi người đang hăm hở phát cây. Mấy ả a hoàn, kẻ bê nước nóng, người đem khăn lại cho thái tử rửa mặt, rồi sắp bữa ăn sáng. Họ bê vào một liễn cháo nấu bằng thủ lợn rừng, và một bát nầm sữa hầm củ sen dâng lên thái tử. Mấy a hoàn cứ sợ sệt vì bữa ăn đạm bạc. Thái tử vẫy gọi: - Bích Hoan, lại đây! Cô ả có tên Bích Hoan tuổi chừng mười sáu mười bảy tóc búi sau gáy, gương mặt trái xoan, da trắng mịn, môi đỏ mọng như vừa mới tô son, thoăn thoắt chạy vào. - Tâu, thái tử gọi con ạ. Thái tử nhìn gương mặt ả hầu gái tươi rói, nhanh nhẹn, khác với khi ở trong cung dưới sự giám sát nghiêm ngặt của các trung quan, ả nào ả ấy mặt mũi lúc nào cũng trang nghiêm buồn tẻ. Cứ như việc chúng vào cung là bị ép buộc, là cực khổ lắm. Chàng thấy điều này hơi lạ, muốn hỏi lại cho rõ ngọn ngành xem có phải chúng bị ép vào cung không. Thế là chàng quên khuấy việc gọi ả đến làm gì. Bích Hoan cứ đứng chờ thái tử sai khiến, còn thái tử lại cứ nhìn Bích Hoan với vẻ chăm chú, và ngạc nhiên nữa. Một lát, Bích Hoan cảm thấy ngượng, mặt hơi đỏ, cúi xuống nói nhỏ: - Thái tử có việc gì sai bảo con ạ? Chợt nhớ, thái tử liền chỉ vào âu cháo và bát thịt hỏi: - Các người cho ta ăn cái gì lạ thế này? - Dạ tâu thái tử, đêm qua lợn rừng về phá nương khoai, dân trong hương ấp bẫy được một con, sớm nay họ khiêng đến, nói rằng để biếu thái tử. Nội thị sai chúng con đem chiếc thủ cấp của con lợn rừng này nấu cháo dâng thái tử, còn chiếc nầm sữa thì hầm ngó sen. Người bảo thái tử ăn những thứ này bổ lắm. Thái tử cười vui. Bích Hoan lấy bát múc cháo từ âu ra đưa mời thái tử. Chàng ăn ngon lành cả hai món đồ ăn, mà ở trong cung chưa bao giờ được thấy. Chàng bèn hỏi: - Này a hoàn, sao ở trong cung, ta không được ăn những thứ này? - Tâu, nội hoả thực cho những thứ này là thức ăn hạ tiện, nên không cho vào thực đơn. - Vậy thời nghe ta nói đây: – Từ nay cứ cho ta ăn các loại thức ăn của người hạ tiện. Ăn xong, thái tử vươn vai đứng dậy rồi lao ra khỏi nhà. Chàng thấy cây cối mới bị chặt hạ nằm ngổn ngang. Chắc là chúng mới bị đốn từ sáng, bởi chiều tối qua tới đây, rừng cây còn ở sát căn nhà. Thấy một cây lớn vừa đổ, cành gãy răng rắc, chàng nhìn về phía đó thấy tướng quân Lê Phụng Hiểu vừa băng lên, giơ dao chém phập vào một thân cây khác. Loáng cái, chàng chưa kịp đếm xem Phụng Hiểu chặt được mấy nhát thì cây đã lại đổ. Cứ thế, Phụng Hiểu cứ phăng phăng như một con voi chiến đi mở đường, cây lớn cây nhỏ ào ào đổ dưới chân ông. Góc rừng phía xa, Ngô An Ngữ và đám lính hộ vệ cũng đang ra sức chặt hạ cây cối. Mấy ả a hoàn xăng xái lúc thì đem nước uống cho mấy người ở chỗ này, lúc đem khoai luộc, thuốc lào cho đám người ở chỗ kia. Thái tử sau một hồi đi lại và nhòm ngó mọi người làm việc, chàng cũng cầm lấy một cây dao trường, xăm xăm nhảy vào rừng phát, chặt. Hạ được chừng ba cây thân to bằng bắp đùi thì thái tử toát hết mồ hôi. Lúc đầu chàng bỏ áo choàng gấm, được một lát lại cởi áo đoạn chần bông. Lúc này chàng chỉ còn vận độc chiếc áo cánh lụa mỡ gà hai cánh tay xắn cao tới nách, và chiếc quần dài xắn móng lợn. Mồ hôi ra ướt đầm áo, hằn lên hai bắp thịt nơi bờ vai và tấm lưng trắng phau. Mồ hôi làm bết cả lọn tóc mai, lấm tấm trên vầng trán cao và chảy dài hai bên má. Thái tử mê mải làm việc như một tay thợ sơn tràng. Chàng có biết đâu, dân làng đang lấp ló đứng xem chàng hoàng tử của mình đi mở phủ như thế nào. Chàng có chăm chỉ làm việc không, hay chỉ ngó qua, rồi lại mất hút vào trong rừng với một nàng công chúa nào đấy. Còn công việc thì dồn trút cho một bầy hổ, báo dưới sự sai bảo của một bà tiên trong những chuyện cổ tích xa xưa. Nhưng không, hoàng tử của dân làng là một người lam làm. Cứ xem cung cách chàng vung tay dao chém phập vào thân cây rất mạnh, nhưng lại không nhấc được lưỡi dao ra ngay, đủ biết chàng làm các việc này chưa quen. Nhưng kìa, bộ quần áo lụa của chàng đã sũng mồ hôi, ướt đầm như người đi dưới mưa. Cơ thể chàng đã hiện rõ, tròn lẳn, trắng phau. Chàng đưa cánh tay lên quệt mồ hôi đang chảy ròng ròng xuống mắt. - Thái tử! Thái tử để đấy dân làng làm cho! Bỗng ai đó nói to lên như vậy. Rồi từ bốn phía, dân làng ùa vào vây quanh thái tử. Chàng ngừng tay dao, ngẩng nhìn mọi người. Đôi mắt chàng lấp lánh toả sáng trên gương mặt đẹp như một tiên đồng. Cặp môi chàng đỏ mọng như môi con gái. Chợt nhìn bộ áo quần ướt đầm đìa, chàng tỏ vẻ lúng túng vì ngượng. Trong đám đông dân làng tay dao tay búa tới giúp chàng đốn cây, hoàng tử chợt nhận ra anh em Mạnh Minh. Chàng vội bỏ cây dao chạy ra nắm lấy tay bạn và luôn nói: “Quý hữu! Quý hữu!”. Đoạn thái tử quay ra nói với mọi người: - Thưa các trưởng lão! Thưa dân làng, xin các trưởng lão cùng dân làng coi tôi như một người dân mới nhập cư. Sự giúp đỡ của dân làng với chúng tôi như thế là đủ rồi. Các trưởng lão và bà con cứ về, nhà nào làm việc nhà ấy. Công việc khẩn đất của chúng tôi không thể làm ngày một ngày hai mà xong được. Một vị trưởng lão bước ra, chắp tay vái hoàng thái tử hai vái rồi nói: - Thưa thái tử, tục dân chúng tôi ở đây, là hễ một nhà trong làng có việc, thì cả làng tới giúp. Từ việc hiếu, việc hỷ đến việc làm nhà, khẩn đất, không sót một việc gì là chúng tôi không giúp nhau. Nó là sự đồng lần thôi thưa thái tử. Ông già vuốt chòm râu bạc cười khà khà, lại tiếp: – Vả lại, thái tử đã coi mình như một người mới nhập cư, thì dân làng cũng coi thái tử như người thân hữu trong làng xóm, trong họ mạc. Vậy thì cái tình tắt lửa tối đèn có nhau, phải giúp nhau cũng là cái nghĩa lân bang nữa thái tử ạ. Nay mai trong làng, nhà nào có việc, thái tử lại đến giúp, lo gì. Thái tử Đức Chính thấy nhen lên trong lòng một niềm vui khó tả. Chàng tự nghĩ: Vua cha bảo ta về thôn ấp để có lòng cảm thông và yêu thương họ – những người nông phu lam lũ. Trong khi ta chưa kịp yêu thương họ, thì họ đã chân thành giúp đỡ ta. Có đúng là họ chân thành hay họ định cầu cạnh gì nơi ta. Không, họ không nhờ vả gì ta đâu. Nghĩ về họ như vậy, thì thật là xấu hổ. Rõ ràng ta thấy họ coi ta y hệt con em họ, chứ chẳng có gì là trục lợi, là cầu cạnh. Họ không giống chút nào những bộ mặt các quan lớn quan bé ở trong triều. Cấp dưới đối với cấp trên thì xun xoe, khúm núm. Nhờ cậy ai việc gì thì quà cáp, biếu xén. Nói năng thì xu nịnh, bợ đỡ. Cứ nhìn cách họ cư xử với nhau, đủ biết họ đã giả dối một cách thành thật đến mức nào. Trái lại, khi người dân có việc đến công đường thì họ hống hách, quát nạt. Còn ở cái hương ấp này, từ người trẻ đến người già, ta đều thấy họ đôn hậu, chất phác, nghĩ sao nói vậy. Được, để xem nhận xét của ta về họ có đúng không. Bởi ta còn phải ở đây chí ít cũng một vài năm. Mà như nhũ mẫu thường nói với ta: Thức lâu mới biết đêm dài Ở lâu mới biết rằng người có nhân. Thái tử không làm sao từ chối được lòng tốt của dân làng. Và thế là mọi người vui vẻ cùng nhau làm việc. Thái tử chưa bao giờ thấy cuộc sống lại đáng yêu như lúc này. Mọi người sống chan hoà. Sáng sớm đã lao vào rừng đốn hạ cây cối. Trưa, quây quần bên mấy nồi cơm to như những chiếc thúng. Thức ăn do mấy người thiện xạ vào rừng sâu săn bắn từ buổi đêm, còn ban ngày lại có một lũ người xuống suối bắt cá, mò cua. Được gì ăn nấy. Có hôm được con nai, con hoẵng, có hôm chẳng được con gì lại trở về với canh măng, rau ngót. Vài bữa đầu, mấy a hoàn, mấy viên nội hầu còn ép thái tử phải ăn riêng, thức ăn do họ tự đi mua về chế biến. Nhưng cái không khí hợp quần với cộng đồng như một thứ men say quyến rũ khiến thái tử cảm như mình bị lạc lõng, mỗi khi chui vào lều lán, nhấm nháp một thứ thức ăn riêng với vài người hầu hạ quen thuộc. Trong khi đó, ở ngoài kia, hàng mấy chục người vừa ăn uống vừa trò chuyện vui đùa thật là thoải mái. Nghỉ trưa trong căn nhà tạm, nghe rõ tiếng nói, cười oang oang của tướng quân Lê Phụng Hiểu. Giọng nói của tướng quân trầm nặng và vang xa như tiếng cồng. Giọng của tướng quân An Ngữ lại rất đanh. Còn giọng của Mạnh Minh hơi khàn khàn chưa vỡ tiếng. Giọng của Mai thị, tiểu muội của Mạnh Minh thì dù thái tử có nín thở cũng không nghe thấy. Nàng rất kín đáo, nhỏ nhẹ. Nhớ bữa bất chợt gặp nàng đi hái dâu về, ta còn nom rõ cả khuôn mặt. Nhưng từ ngày ta về đây mở phủ, Mai thị theo anh trai và dân làng ra làm giúp, ta lại không nhìn rõ mặt nàng. Là bởi nàng chít chéo một vuông khăn che gần hết khuôn mặt, chỉ còn nom rõ hai đốm mắt và phía trên đôi lưỡng quyền. Thái tử nhắm nghiền đôi mắt, nhưng đầu óc hoàn toàn tỉnh thức, yên lặng lắng nghe động tĩnh từ phía ngoài. Và chàng cố hình dung ra gương mặt, ánh mắt và nụ cười của Mai thị. Và nữa hai gã thiếu niên hộ vệ thái tử vẫn thay nhau đi quanh căn lán dùng làm nơi ở tạm của chàng. Nghe những bước chân của hai gã trai đi êm nhẹ như chân mèo bước trên một tấm thảm nhung. Họ đi ngược chiều nhau, thái tử hình dung rất rõ bước chân của mỗi người. Như anh chàng có tên là Cam, gương mặt tròn xoe, môi đỏ, tóc rậm mà cứng như rễ tre, mỗi khi gã ta nói hoặc cười đôi má lúm rõ hai đồng tiền, nom đến là duyên. Chân tay rắn chắc như cây gậy sắt, thường sử đoản đao. Mũi đao y phóng vào gỗ ngập sâu cả đốt ngón tay. Các tiêu điểm vạch sẵn, đứng xa từ mười lăm đến hai mươi bước chân, y phóng không sai một ly. Con người như thế mà tiếng nói lại nhỏ nhẹ, ăn uống từ tốn, khác hẳn với lúc y lăm lăm võ khí trong tay xông vào công kích đối phương, nom y dữ tợn như một con sư tử đang vồ mồi. Và bước chân y, êm nhẹ như lướt trên không khí, bởi không nghe thấy tiếng động mà chỉ nghe thấy tiếng gió hút. Ngược lại với Cam là anh chàng Bứa. Bứa người hơi thô. Chân tay mập, cơ bắp nổi cuộn lên, vai u. Mắt to, lông mày lưỡi mác hơi xếch, tóc dựng đứng. Bứa thường sử dụng một chiếc giáo và một cây cung. Mũi giáo được làm bằng một thứ thép tôi già, nước thép sáng xanh. Còn cây cung cánh gỗ cứng có sức căng đến hàng trăm cân. Bứa có tài bắn cung, khó ai bì kịp. Về mùa chim di trú, sâm cầm, thiên nga bay giăng từng đàn rợp trời. Chim bay cao gần đuối tầm mắt, Bứa giơ cung lên nói bắn con thứ mấy trong hàng, và tên bay đi một loáng thì y như rằng con chim đó rơi trước sự thán phục của mọi người. Về lai lịch hai gã thiếu niên hộ vệ: Cam họ Nguyễn, người hương Cổ Pháp, cha gã là đô trưởng đô tuỳ long, một tay võ nghệ cao cường, thường theo hộ giá nhà vua. Còn Bứa họ Đặng, người Man, lộ Đà Giang, cha y bắn ná thuộc loại “bách bộ xuyên dương”[75], hiện đang giữ chức tổng quản, coi việc quân trong lộ. Hai gã thiếu niên này đều con nhà nòi, được cha chúng rèn rũa từ bốn, năm tuổi, tới mười tuổi được tuyển vào đội tiểu hoàng môn chuyên học các ban đao, thương, cung, ná, quyền, cước tức là thập bát ban võ nghệ, không thiếu một môn nào không được học tới mức tinh thông. Triều đình nuôi dạy đám thiếu niên này trở thành các cao thủ võ nghệ, sau ra làm tướng. Gã nào tỏ ra xuất chúng, lại có tư chất trung thành, mẫn cán thì giữ lại sung vào các đội hổ bôn để phò giá, số còn lại chia về cho các lộ, trấn, dần dần cất nhắc. Được chọn vào hầu và hộ vệ thái tử, hai gã thiếu niên đã sớm tỏ lộ lòng trung thành, tận tuỵ. Không có gì để thái tử phải phàn nàn về công việc của Cam và Bứa. Chỉ đôi khi thái tử thấy khó chịu, ấy là những lúc chàng lại gần đám con gái, nhất là tới chỗ Mai thị, xem các nàng chặt cành, phát lá thì mấy đứa hộ vệ cứ cặp kè khiến các nàng vừa ngượng, vừa sợ sệt nữa. Nghe như ngoài kia đã có tiếng rìu bổ phầm phập, tiếng cây đổ rào rào, mọi người lại đã làm việc rồi. Thái tử trở mình toan dậy, tấm chăn tuột khỏi bờ vai, hai a hoàn đang lấp ló ở đâu đó vội chạy vào kéo chăn. Thái tử vùng dậy, tấm chăn rơi xuống chân giường. Hai a hoàn tươi cười nói: - Bẩm thái tử có ngủ nữa không ạ? Lý Phật Mã mỉm cười đáp: - Các người cứ để cho ta được tự nhiên, không phải canh gác vòng trong vòng ngoài như canh giữ một tên trọng phạm. Ta về đây là để làm nhà, vỡ đất, nếu ta không được làm lụng thì còn về đây làm gì. Nhìn thẳng vào mắt các a hoàn, thái tử nẹt: - Nếu phụ hoàng ta biết các người đang biến ta thành một kẻ lười nhác, thì các người mất đầu đó. Hai ả a hoàn vội rụt cổ lại cười rúc rích. Thái tử vội xỏ chân vào hia lao vút ra nơi người ta đang làm việc nhốn nháo. Hai vệ sĩ băng theo như hai mũi tên vừa bứt khỏi dây cung. Thái tử chạy về phía các tướng Lê Phụng Hiểu, Ngô An Ngữ cùng đám quân tuỳ tòng đang đốn ngã cây cối ầm ầm khiến thái tử cảm thấy như có một đàn voi rừng đang tàn phá hết sức hung hãn. Máu nóng bốc lên mặt, thái tử giằng lấy cây rìu từ tay một viên đô tướng, chàng xông vào chặt một thân cây to tới hai người ôm không xuể. Những nhát rìu chàng bổ xuống chắc nịch, dăm gỗ bay ra tới tấp. Nhưng đó là phần rác gỗ, vào sâu tới một phần ba thân cây thì mỗi nhát rìu của thái tử bổ vào thân cây, phát ra những tiếng kêu bong bong nặng trịch, như lưỡi rìu đang chém vào đá. Thái tử không ngờ mình đang chặt phải một cây gỗ cứng như sắt. Lê Phụng Hiểu từ lâu đã liếc xéo thấy thái tử chặt rất hăng, nhưng sao mãi không hạ được cho cây đổ, ông bèn chạy lại, nắm lấy cổ tay thái tử và ra hiệu cho chàng dừng lại. Lấy tay áo quệt những dòng mồ hôi đang từ trán chảy tràn xuống mắt, xuống mặt, thái tử nói: - Gỗ rắn như đá. Sao lại có thứ gỗ chắc làm vậy tướng quân? Lê Phụng Hiểu cười thân mật: – Đó là loại gỗ thuộc hàng tứ thiết, rắn như sắt, thái tử chưa biết sao? - Chưa! Ta sao biết được. Tứ thiết là những loài nào, thái tử hỏi. - Đó là bốn loài: đinh, lim, sến, táu. Cây thái tử đang chặt đó là cây lim già. Chúng thần đã chừa ra không chặt. Để dùng nó vào việc lấy bóng mát. Cây cao, tán rộng, vừa che được nắng dãi, vừa thoáng, không làm cho các loài cây trồng khác bị cớm. Tiếc quá, thái tử lại chặt hạ nó. - Ta không chặt nữa, cứ để thế kia nó có sống được không? Lê Phụng Hiểu bước qua xem xét rồi lắc đầu. – Không được, thái tử đã chặt đứt hết vỏ ở quanh thân cây rồi. Để thần cho nó nằm xuống. Vừa nói xong, Phụng Hiểu liền vung búa chém tiếp vào nơi thái tử đang chặt dở dang. Loáng cái, Phụng Hiểu đã hô mọi người tránh xa để ông cho cây đổ. Thái tử lè lưỡi lắc đầu: - Khiếp thật! Tướng quân dũng mãnh quá. Ta chặt mãi vẫn cứ như người gãi ghẻ; thế mà tướng quân ra tay, có nhẽ chỉ bằng thời gian hút xong một điếu thuốc lào, cây lim to thế kia đã đổ gục. Đúng là “nhất nhân địch vạn”. Bỗng gương mặt thái tử rạng rỡ hẳn lên. Như vừa chợt nảy ra một ý gì ở trong đầu, chàng nói như reo: – Để ta tâu với phụ hoàng cho tướng quân về triều, làm việc gì chứ ở đây đi chặt cây chặt que thế này vừa phí tài, vừa phí sức. Lê Phụng Hiểu thầm biết ơn, ông mỉm cười đáp: - Thái tử tưởng thần đi thế này là đi chơi sao. Thần có trọng trách phải hộ vệ thái tử. Dăm bữa nửa tháng dựng xong nhà cửa vườn tược, thần còn phải lo việc hầu giảng thái tử về đường võ nghệ. Rồi quan sư phó hầu giảng thái tử về đường văn bài. Lại nữa, gần Tam bảo đây có cao tăng, thái tử phải lui tới nghe giảng về Thiền học nữa chứ. Các việc ấy, hoàng thượng răn dặn thần kỹ lắm. - Những điều đó, ta cũng được phụ hoàng răn dạy, đâu dám sao nhãng. Thái tử không đủ sức theo mấy đô tướng kiệt xuất như Phụng Hiểu, An Ngữ, chàng liền nhập vào với đám trai làng. Nơi ấy có anh em nhà họ Mai.