Q1 Chương 19.
Chùa Cảm Ứng hương Tam Sơn có thiền sư Định Hương trưởng lão trụ trì đã nổi tiếng từ lâu. Định Hương vốn dòng họ Lã, hương Chu Minh, có căn tu, nên xuất gia từ nhỏ, theo học đạo với thiền sư Đa Bảo hơn hai mươi năm.
Đa Bảo là một cao tăng, nên tăng chúng xin đến thụ giới với sư nhiều vô kể. Nhưng không phải ai cũng được chấp nhận để thầy trao truyền tâm ấn. Thường là phải qua cuộc vấn đáp về các yếu chỉ của Thiền tông. Các cuộc vấn đáp này tuỳ thuộc vào cơ duyên, nghiệp quả của người học đạo. Có người ở tới cả chục năm, vẫn chưa được thầy Đa Bảo hỏi đến. Hẳn nhiên trong quá trình tu tập, ngài Đa Bảo thường quan sát trong đám thiền sinh, các mặt mạnh, yếu của họ đều được bộc lộ, qua đó xét ai là người xuất sắc mới được tuyển vào hàng đệ tử. Việc này đối với nhà Thiền là tối hệ trọng; bởi sự nghiệp kế tổ truyền đăng có được trường cửu hay không, thảy đều lệ thuộc vào đạo hạnh và trí huệ khai ngộ của thiền giả. Định Hương có hạnh Bồ tát từ khi còn là một thiền sinh. Cái học của ngài không phải ở chỗ trì tụng mê mải, cũng không phải học cho thuộc lòng nhiều kinh sách, hoặc giả giải đáp được nhiều các điển chương. Chính là thầy Định Hương mong dò tìm được sự nông sâu của nội điển, hiểu cho được cái rốt ráo của đạo Thiền. Và tìm cho đến cội nguồn của giải thoát của chân tâm. Và giải thoát để làm gì? Giải thoát cho riêng mình ư? Nếu vậy, sẽ là đạo của những kẻ tư kỷ, không có một chút Phật tính nào. Vì rằng, đạo Phật là đạo giúp người ta tự giải thoát, và giải thoát cho tất thảy chúng sinh. Cao hơn nữa là giải thoát cho cả muôn loài. Đào sâu mãi vào giải thoát và chân tâm, một hôm Định Hương thấy thầy Đa Bảo đi qua, liền hỏi: - Làm sao thấy được chân tâm? Thiền sư Đa Bảo đáp liền: - Chính ngươi phải tự tìm cho thấy nó ở trong ngươi. Định Hương bừng tỉnh ngộ, liền nói: - Tất cả đều như thế, đâu phải chỉ riêng đệ tử. Đa Bảo lại hỏi: - Ngươi đã hiểu chưa? Đáp: - Đệ tử hiểu rồi, nhưng cũng tựa như là chưa hiểu vậy. Đa Bảo tiếp: - Phải lấy tâm ấy mà bảo nhậm. Định Hương bèn ôm tai đứng quay lại. Đa Bảo liền quát: - Đi đi! Định Hương sụp xuống lạy tạ. Đa Bảo lại nói: - Về sau giao tiếp với người, ngươi phải làm như kẻ điếc. Định Hương là đệ tử xuất sắc nhất của thiền sư Đa Bảo. Vì vậy đại lão hoà thượng Đa Bảo đã trao truyền tâm ấn cho. Từ khi về mở phủ tại hương Tam Sơn, thái tử Lý Phật Mã cùng các tuỳ tòng đều năng lui tới chùa. Việc lui tới chùa cũng có nhiều nhẽ. Cái thứ nhất là sự ngưỡng mộ của thái tử đối với thiền sư Định Hương từ khi thái tử còn là một công tử, con quan điện tiền, học với thiền sư Cứu Chỉ cũng là đệ tử của thiền sư Đa Bảo. Tới nay, Định Hương đã là một cao tăng nổi tiếng khắp nước. Cái nhẽ thứ hai, ngài là đệ tử chân truyền của đại lão thiền sư Đa Bảo. Mà thiền sư Đa Bảo lại được vua Thuận Thiên sùng ngưỡng, tôn kính như bậc thầy của mình vậy. Nhẽ thứ ba là thái tử có lòng mộ Phật, nên thường rất siêng năng học tập, cũng như muốn bàn rộng ra tới chỗ rốt ráo của kinh điển. Dù thông minh đến mấy, thì với sức tri và sức hành của một chàng trai mười lăm tuổi, làm sao đủ lực leo tìm trong chốn rừng thiền đại ngàn kia. Chính vì lẽ đó mà thái tử năng lui tới chùa Tam Sơn để được tham vấn thiền sư. Chùa Tam Sơn toạ lạc trên một ngọn đồi um tùm cây cối, được ba ngọn núi mọc như hình một cánh cung. Chùa tựa lưng vào ngọn núi ở chính giữa có đỉnh cao nhất, và nhô ra như một chiếc tán lá che cho ngôi chùa, hai ngọn núi vòng như hai cánh tay ngai ở hai bên tả hữu, rõ ra cái thế nâng đỡ, phù trợ. Chùa hướng nam, nhìn ra một dòng sông. Xa trông ngôi chùa tựa như một viên ngọc, được ngậm trong cái họng rồng khổng lồ, mà đầu rồng chính là dãy núi Tam Sơn kia. Người xưa rất kỹ tính trong việc chọn thế đất, để tạo lập những công trình vĩnh cửu. Vả lại, với vẻ khiêm nhường của dòng giống Đại Việt, những công trình dù lớn đến đâu, cũng nằm ẩn giấu dưới các tán cây cổ thụ, khiến ta có cảm giác, con người và thiên nhiên ở đây sống trộn lẫn một cách hài hoà. Con người tựa vào thiên nhiên. Thiên nhiên nhờ có bàn tay con người điểm xuyết, trở nên một thứ thiên nhiên hữu tình. Ngôi chùa kiến tạo theo hình chữ tam, tức là ba nếp nhà ngói song song. Ngoài cùng là nhà đại bái, ngôi thứ hai thờ các tượng Phật từ Giáo chủ Thích Ca Mâu Ni tới các đệ tử của ngài như An-nan, Ca-diếp, Văn Thù, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí… Ngôi trong cùng là thượng điện thờ A-di-đà tam tôn. Ba pho tượng thếp bằng vàng ròng nom uy nghi đường bệ, và như lúc nào cũng toả hào quang. Quý nhất trong ngôi chùa là tượng Cửu Long với đức Phật vừa đản sinh, có chín con rồng đang phun nước tắm cho ngài; đây là một kiệt tác về nghệ thuật đúc, nghệ thuật chạm, khắc vàng. Nghe nói ngôi chùa này vừa xây cất xong, tới khi sắp khánh thành thì có khách từ kinh đô về thăm, họ thấy mấy hiệp thợ đang hối hả soi, chạm nhóm tượng Cửu Long bằng gỗ mít. Kể ra gỗ lõi mít lại được những tay thợ giỏi nghề tạo tác, rồi mạ thếp vàng son lên cũng đã là đẹp, là quý rồi. Thế nhưng mấy người khách không nghĩ thế, họ tìm đến viên quan bản hạt, xin được cung hiến mười cân vàng ròng để làm tượng Cửu Long. Làm việc Phật không ai nỡ từ chối, kể cả nhà cầm quyền. Thế là viên tri phủ sự phải phái về một đô quân để trông coi việc làm tượng. Và ngay lập tức, những người thợ đúc giỏi nhất làng Dương Bái được triệu về Tam Sơn. Tiếp đó là các thợ chạm vàng giỏi nhất kinh kỳ, cũng được mời về làm việc hối hả suốt ba tháng ròng. Vì vậy chùa Tam Sơn phải lui ngày khánh thành lại tới gần bốn tháng. Vậy những người khách hiến vàng kia là ai. Đó là nhà triệu phú Phương Kim, chuyên bán bạc nén, làm chủ cả một phường Hàng Bạc; nhà Lương Ích Đường vừa là thầy lang nổi tiếng đất kinh kỳ, vừa là nhà thuốc lớn nhất chợ Cầu Đông; đó còn là nhà Hưng Long, người Triều Châu, đất Mân bên Tàu, một nhà buôn đồ gốm sứ lớn nhất phố khách. Ba nhà này gom nhau công đức đủ mười cân vàng nén. Thợ làm tượng vàng dưới sự giám sát vòng trong vòng ngoài của những người lính, lúc nào mắt cũng tỉnh như sáo. Những người thợ không cho đấy là một sự phiền phức hay xúc phạm họ. Trái lại, họ yên tâm không sợ kẻ gian đến trộm cướp. Thật ra những việc làm thiêng liêng như thế này, không cần phải ai canh gác, bảo vệ. Vì rằng những người thợ đúc tượng Phật, chạm trổ hoa lá, móng vuốt rồng, chỉ cầu mong làm đẹp, tiền công còn chẳng dám lấy, ai nghĩ đến việc tắt mắt. Và họ thận trọng thu gom từng mảy bụi vàng, từ li ti phoi chạm để cho vào lò nấu đồng, đúc chuông. Cũng có thể có kẻ gian rình mò trộm cắp, nhưng khi đã đúc thành tượng, đã có cao tăng yểm tâm rồi thì không một kẻ trộm nào dám động đến. Thuở ấy, con người còn biết sợ thần linh, còn tin vào sự ân oán nhân quả. Bởi vậy, nhiều chùa có tượng vàng, tượng ngọc và các đồ thờ quý giá, cổng chùa mở suốt ngày đêm, kẻ trộm không bao giờ dám bén mảng, tơ hào. Lại nữa, pháp luật cũng nghiêm lắm. Kẻ nào lấy trộm đồ thờ nơi chùa quán, miếu đền, bắt được quả tang, không những phải nộp lại vật đã lấy cắp, mà còn phải nộp một khoản tiền phạt gấp đôi giá trị món đồ, và lĩnh án tới mười năm lưu đày viễn châu, tức là phải tới nơi rừng thiêng, nước độc ở các tỉnh xa xôi miền biên viễn. Với kẻ lấy cắp tượng Phật, tượng thánh, tội rất nặng, ngang với tội cướp của, giết người. Ngoài kẻ trộm tượng bị lãnh án tử hình, thì cha mẹ, vợ con y cũng lãnh án đày vĩnh viễn đi các vùng biên tái ma thiêng, nước độc. Ngoài ba ngôi điện thờ Phật, còn có nhà phương trượng, nhà tham vấn, mỗi ngôi năm gian quay về hướng tây; hai mươi bảy gian làm thành một dãy dài không có cửa, quay về hướng đông, dành làm nơi cho khách hành hương hoặc khách thập phương về dự hội chùa hằng năm cần nghỉ lại. Sau dãy nhà hai mươi bảy gian còn có hai ngôi nhà, mỗi ngôi bảy gian, một ngôi dành cho sư tăng thường trụ, một ngôi dành cho thiền khách vãng lai. Ngoài vườn tháp có bảy ngôi tháp đá, chôn cất xá lị của các vị thiền sư đã trụ và tịch diệt tại chùa này. Ngôi tháp ba tầng cao nhất kia là tháp tổ, chính là xá lị của thiền sư khai cơ. Trước tháp dựng tấm bia, ghi bài kệ của thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng là tổ của dòng thiền Vô Ngôn Thông[76]. Nhất thiết chư pháp Giai tòng tâm sinh Tâm vô sở sinh Pháp vô sở trụ Nhược đạt tâm địa Sở tác vô ngại Phi ngộ thượng căn Thận vật khinh hứa.[77] Chùa không có hàng rào bao quanh mà lẩn dưới tán cây rừng và cây trồng lâu đời như lim, sến, giẻ, tùng, bách hoàng anh… Xung quanh chùa trồng đủ các loại cây cho hoa thơm như ngọc lan, hoàng lan… Đường thập đạo trước sân chùa trồng cau ở hai bên vệ đường. Đường rộng, kiệu bốn đòn khiêng đi lại, quay trở không va vướng. Khoảng cách giữa hai cây cau lại xen các giống cây đỗ quyên đỏ, đỗ quyên vàng, đỗ quyên trắng, rồi đến các loại hồng trà, bạch trà, hồng mai, hoàng mai, bạch mai, ngọc bút, ngâu, mộc, mẫu đơn đỏ, mẫu đơn trắng, mẫu đơn vàng. Bởi vậy, mùa nào trong vườn chùa cũng có hoa thơm. Đi về bất cứ hướng nẻo nào quanh ngọn đồi này cũng phảng phất mùi hương thơm. Đó là mùi thơm của các loài hoa, quyện với mùi mật của hàng trăm đõ ong kéo đến làm tổ khắp khu đồi chùa. Đường từ chân đồi lên tới sân chùa phải leo ba đoạn dốc. Đoạn dài nhất có 360 bậc, đoạn thứ hai 270 bậc, đoạn thứ ba 90 bậc. Các bậc lên xuống đều được kè bằng đá, đi lại dễ dàng. Với người già chỉ cần một cây gậy nhỏ thì việc lên xuống không có gì khó khăn, cản trở. Trước cửa chùa dựng một tam quan đồ sộ. Trên đỉnh tam quan treo một chiếc đại hồng chung, hai người lớn nối tay nhau ôm mới chỉ được hai phần ba thân chuông. Chuông này mỗi khi thỉnh, tiếng sâu lắng len lách đến tận lùm cây, vách núi, len lách đến tận tim óc mọi người, và vang xa tới cả chục dặm xung quanh. Giữa tam quan nổi lên ba chữ thật lớn: CẢM ỨNG TỰ. Nhưng dân trong vùng thường gọi là “Chùa Núi”. Bữa nay thái tử lên chùa gặp thiền sư với một ý nghĩ đang ngổn ngang trong lòng. Chàng lén đi một mình. Mấy viên võ sĩ cận vệ đang mải mê tập luyện phía sau trại nên không biết. Các ả a hoàn đang tíu tít sửa soạn bữa cơm chiều. Quan sư phó đang say mê với cuốn Luận ngữ. Các tướng Lê Phụng Hiểu, Ngô An Ngữ đang coi sóc đám quân làm đất trồng trọt. Thái tử ra đi chỉ con Huyền Đề biết. Đây là một trong năm con chó trong đàn chó săn, và cũng là chó canh nhà của thái tử. Huyền Đề là một con chó khôn lanh, tới mức thái tử không có lúc nào lừa nổi nó để đi một mình. Nó có cái mũi đánh hơi cùng đôi tai rất thính. Có lần thái tử giả vờ ngủ, cả năm con chó cùng chạy ra sân đùa giỡn, dần dần chúng kéo nhau ra mãi tới bìa rừng, thái tử mở cửa sau đi lối tắt vào làng. Vừa gặp một cụ già, chàng dừng lại chào, bỗng con Huyền Đề nhảy vào đứng giữa hai người. Và nó sủa, không cho cụ già đến gần thái tử. Chàng thật sự kinh ngạc, không biết nó đã theo chàng từ lúc nào. Vì vậy, bữa nay lên chùa, nó lẽo đẽo đi sau, thái tử chẳng có gì phải ngạc nhiên nữa. Con chó có sắc lông vàng cháy, gần ngả sang màu nâu. Bốn chân trắng toát như bông, hai chân sau, mỗi chân có một vòng huyền đề. Hai mắt đều có viền lông trắng. Giữa trán lại có một đốm lông trắng xoáy tròn thành một cái khoáy, ức nở, có một vệt lông trắng dài, nom như hình một con thạch sùng. Dân gian gọi đó là “thạch sùng bám ức”. Lưng nó trường, mông nở, chân dài, lưỡi có chín khía. Mắt đen nhức màu hạt nhãn, hai tròng đen trắng phân minh. Những người biết xem tướng chó, nói đây là con chó vượng chủ, cực quý, nó hội đủ các tướng tốt của loài chó: trung thành, khôn, nhanh, thính, tinh. Tức là những gì người ta cần ở loài chó, thì con Huyền Đề có đủ. Ví như tính trung thành với chủ. Tính khôn, không bị miếng ăn đánh lừa để mắc bẫy, mắc bả, hoặc bị bạn tình quyến đi mất; nhưng lại phải chạy nhanh thì mới chặn được con mồi, đuổi được trộm cắp. Có đủ các đức tính trên là tốt, nhưng lại phải thính mũi. Có thính mũi thì trong đêm tối mới phân biệt được người quen người lạ, có thính tai mới phát giác được con mồi hoặc kẻ trộm đạo từ xa. Ngoài ra chó còn cần một đôi mắt rất tinh, thì từ việc xác định con mồi đến vồ mồi mới được chính xác. Lại cũng cần một trí nhớ rất dai. Có con chó, chủ vắng nhà hơn mười năm, bề ngoài thay đổi gần như hoàn toàn, đến nỗi người nhà còn ngỡ ngàng chưa nhận ra, nhưng con chó chỉ khịt mũi ba lần ngửi tay, ngửi quần áo là đã vẫy đuôi mừng quấn quýt. Huyền Đề là con chó quý của Hoàng Ân Vinh châu mục châu Bình Lâm, sau khi lập được chiến công lớn, cùng với quân triều đình tiêu diệt hai mươi vạn quân xâm lược người man Tống, được phụ hoàng ban thưởng công lao chức tước, lại gả quận chúa An Nhân cho. Cảm vì trọng ân, Hoàng Ân Vinh đã đem con “Huyền Đề” dâng phụ hoàng. Phụ hoàng thương ta đi mở phủ giữa chốn suối rừng hoang vắng, e đêm hôm thú dữ bất thường, nên ban con Huyền Đề cho ta để ngày đêm cảnh giới. Kể cũng lạ, bữa Hoàng Ân Vinh trao nó cho phụ hoàng, y ghé vào tai nó nói cái gì ta nghe không rõ. Chỉ thấy nước mắt nó ứa ra, uể oải thè lưỡi liếm chậm chạp hai bàn tay Hoàng Ân Vinh, rồi chạy tới nằm phủ phục dưới chân phụ hoàng. Lúc Hoàng Ân Vinh vái lạy phụ hoàng đi trở lui ra khỏi điện, nó sủa ba tiếng rời rạc, buồn bã. Ai mục kích cảnh chia ly ấy cũng thấy cảm động và cũng cho là một sự lạ. Lại bữa phụ hoàng ban nó cho ta. Người vuốt vuốt vào đầu vào má nó rồi nói: “Từ nay ta cho mày về ở với hoàng thái tử. Phải canh chừng kẻ gian, không được rời thái tử nửa bước, nghe chưa?” Nói xong, phụ hoàng đẩy nó về phía ta, nó quay lại nhìn phụ hoàng với vẻ mặt hớn hở, vẫy đuôi ba lần, rồi chạy bổ lại ôm chân ta. Ôi con chó mà hiểu được tiếng người lại làm theo ý muốn của người như một con người thông minh, như một con người được huấn hỗ đầy đủ lễ giáo thì quả ta chưa nghe ai nói vậy. Ta xem đây cũng là một điều kỳ bí không lý giải được. Thái tử xăm xăm bước vào nhà phương trượng. Thiền sư đang tĩnh toạ trên thiền sàng, lưng xoay ra phía cửa. Mắt ngài vẫn nhắm, tay vẫn lần chuỗi tràng hạt, sư nói: - Thái tử đi đâu ghé tam bảo? Ta có lời mừng. Lý Phật Mã giật mình. Chàng thật sự không hiểu trưởng lão nói mừng ta là mừng cái gì. Bởi ta đang định lên đây hỏi trưởng lão một đôi điều sáng nay quan sư phó vừa dạy nhưng ta chưa hiểu thông nghĩa lý. Chàng vội chắp tay, nói: - Bạch đại lão hoà thượng. Con lên chùa vấn an. Con đang có điều phân vân định lên chùa tham vấn, mà Người lại bảo “có lời mừng”. Chẳng hay đó là điều gì, con xin trưởng lão mở lời chỉ giáo. Định Hương trưởng lão ngồi xoay lại, mở bừng mắt. Toàn khuôn mặt thiền sư bừng sáng. Ngài mỉm cười: - Thái tử an toạ, bần tăng sẽ hầu chuyện ngay đây mà. Ngài chỉ tay vào một góc thiền sàng rồi quay gọi chú tiểu pha trà. Một lát, chú tiểu bê lên hai chén trà. Loại chén có nắp để giữ được hương trà và độ nóng. Chú đặt trước thiền sư chén lão mai trà, và đặt mời thái tử chén trà cúc. Thiền sư nâng chén trà mời thái tử. Thái tử vội đỡ lấy và khẽ gạt nhẹ chiếc nắp để những giọt nước đọng trên nắp khỏi rơi xuống kỷ. Nước trà màu xanh sánh. Mùi hương kim cúc bay ngào ngạt. Một vị thơm hơi nồng. Ấy là mùi hương của cúc tươi. Thái tử khẽ nhấp một ngụm nhỏ lại đặt chén xuống kỷ và đậy nắp. Mùi hương cúc còn đọng nơi cổ họng, tạo một cảm giác âm ấm, khiến mắt như sáng ra, và hơi thở như dịu nhẹ hơn. Cùng lúc, thiền sư mở nắp chén trà của mình. Một mùi thơm mơ hồ như mùi của sương giá, khiến trưởng lão thấy trong lòng nhẹ bỗng, một cảm giác thư thái, khoan hoà lan toả khắp huyết quản nhà sư. Trưởng lão cảm được mùi vị ấy nên có cảm giác ấy, còn thái tử không cảm thấy gì cả. Chàng chỉ nhìn thấy chén nước của hoà thượng có màu tía, trong suốt gợi cho chàng một cảm giác ấm áp. Không kìm nén được tính tò mò, thái tử buột miệng hỏi: - Vậy, chớ trưởng lão uống thứ trà gì khác với trà của con? - Đúng vậy! Trưởng lão đáp và nhẹ nhàng giảng giải. Ta mời thái tử uống trà cúc. Còn ta chỉ dùng loại thiền trà thôi. - Vậy thưa trưởng lão, thiền trà chế từ hương thảo gì ạ? Định Hương trưởng lão nở một nụ cười đôn hậu rồi thong thả tiếp lời: – Thiền trà của ta còn gọi là lão mai trà. Loại trà này chế từ thân cây mai già. Những cây to, gốc xù xì sống tới cả trăm năm. Cưa lấy thân nó, đem về chẻ nhỏ, phơi khô kiệt, bỏ trong các hộp kín, dùng dần. Mỗi ấm tích chỉ cho độ dăm thanh, chế nước sôi ủ trong ấm giỏ, dùng cả ngày. Nếu lại đào được cả rễ của loại lão mai này mà uống, thì cực tốt. Loại trà này thuần âm tính, lợi gan, ích mục, trí óc minh mẫn, hợp với nhà thiền. Còn như trà cúc ta mời thái tử, dược tính của nó cũng gần giống như lão mai trà. Nhưng nó mang dương tính, hương hắc, vị thơm nồng nàn. Trưởng lão chợt dừng lời ngắm nhìn thái tử, lại nhìn con chó đang ngồi ở góc cột chầu về phía hai thầy trò trưởng lão đang nói chuyện. Nó nhìn một cách chăm chú, tựa như nó nghe và hiểu được tiếng người. Và dường như nó cũng đang tham gia vào câu chuyện. Thái tử tuy không trực tiếp theo học trưởng lão nhưng từ mấy năm trước, khi thiền sư Đa Bảo còn tại thế, có lần đại sư ghé vào triều thăm phụ vương. Vừa nhác thấy ta, đại sư nói luôn: “Thái tử sớm hiển lộ tướng quý của Phật. Chắc sau này có duyên làm việc Phật. Ta khuyên thái tử mai này nếu có gì vướng mắc trong kinh điển chưa lý hội được; kể cả những việc thế tục chưa minh định được, hãy tìm đến thầy Định Hương mà tham vấn”. Chính vì lời khuyên đó, đã nhiều lần ta tìm đến tham vấn trưởng lão. Và thường được chỉ bảo đến rốt ráo. Thiền sư quả là một bậc minh sư. Trong tâm ta, luôn thờ trưởng lão làm thầy. Đoạn Định Hương trưởng lão cất lời: - Lát nữa, ta sẽ nói việc ta mừng thái tử. Bây giờ thái tử hãy nói điều thái tử cần hỏi ta đi. Được lời như cởi tấm lòng, thái tử bèn thưa: - Bữa trước quan sư phó dạy con về “Lễ”. Thầy giảng, theo như đời Xuân Thu bên Trung Hoa thì lễ bao trùm toàn xã hội. Quan hệ về lễ giữa vua với bầy tôi. Quan hệ về lễ giữa quan với dân. Quan hệ về lễ giữa người với thần linh. Quan hệ về lễ giữa người sống với người chết. Và nhiều mối quan hệ khác phải ứng xử bằng lễ. Con hỏi quan sư phó: “Vậy thời “lễ” về đời Xuân Thu tựa như một thứ luật chi phối toàn xã hội”. Quan sư phó gật đầu. Nhưng lại bảo: “Nó vừa giống lại vừa không giống”. Rồi quan sư phó hỏi con: “Hiểu chưa?”. Con đáp: “Chưa hiểu”. Đoạn thầy lại giảng: - Lễ thời Xuân Thu tựa như luật. Là bởi ai cũng phải theo, từ thiên tử đến thứ dân. Song nó không giống luật ở chỗ, luật chỉ hành xử trong dân thôi. Dân phạm tội thì đem luật ra xử để trị tội. Còn đại phu phạm tội thì không xử bằng luật mà phải xử bằng lễ. Con bảo như thế thì “lễ” của đời Xuân Thu là đầu mối của sự bất công. Còn luật của đời ấy khuôn theo lễ, cũng tức là noi theo sự bất công của lễ mà hành xử. Lễ ấy, luật ấy tạo sự chia rẽ giữa con người với con người trong xã hội, vậy thời ta học để làm gì. Vả lại con người đại phu với con người thứ dân có gì khác nhau, mà cùng phạm một lỗi lầm như nhau, một bên thì đem lễ ra uốn nắn, còn bên kia thì đem luật ra trị tội. Thầy con nghiêm giọng phán rằng: - Sao thái tử lại không thấy sự khác nhau giữa người quân tử với kẻ tiểu nhân? Sao thái tử lại không thấy sự khác nhau giữa bậc sĩ đại phu với kẻ thứ dân, kẻ thất phu? - Thưa thầy, tiểu nhân, thứ dân, thất phu là những người không có học, vì vô tình mà phạm luật, vì dốt ngu mà phạm luật, nhẽ ra phải được khoan nới. Còn kẻ sĩ đại phu đã có học hành hiểu biết, là đấng bậc chăn dân mà phạm luật, tức là cố ý làm sai, nhẽ ra phải trị tội rất nặng thì mới đúng chứ. Lễ với luật như thế là trắng đen lẫn lộn, trái phải đảo điên, thưa thầy ta không nên học những điều vô minh ấy làm gì. Con nói vậy, quan sư phó giận lắm. Ngài kìm nén hết sức, mới không sai nọc con ra đánh đòn. Ngài nói giọng run run: - Thái tử ơi, lễ luật đó do các bậc thánh nhân đặt ra, sao thái tử dám ngạo mạn. Hầu giảng thái tử thế này tôi tổn thọ lắm. Sợ quá, con phải vái thầy hai vái để tạ tội. – Bạch trưởng lão, nếu quan sư phó giảng điều đó là đúng. Mà sao không đúng, vì quan lấy từ kinh Lễ và sách Luận ngữ của Khổng Tử ra chứ có phải thầy bịa ra đâu. Vậy con xin trưởng lão chỉ cho cách hành xử của con có gì sai quấy. Và ta có nên theo lời Thánh dạy? Định Hương trưởng lão xốc lại tấm áo cà sa, cuộn lại chuỗi hạt bồ đề đặt trên tráp kinh, ngồi lại ngay ngắn, hai bàn tay dăn deo xoa vào nhau rồi vuốt nhẹ lên hai bên má chằng chịt những nếp nhăn, đoạn nhà sư nói, giọng ngài ấm áp mà rành rẽ lạ thường: - Những điều thái tử nói với quan sư phó là tự bản tâm buột ra hay thái tử đã nghe ai nói, hay thái tử đã đọc ở sách nào? Dường như không cần phải đắn đo suy nghĩ, thái tử đáp luôn: - Bạch trưởng lão, quả con chưa nghe ai nói, và cũng chưa có đọc ở sách nào. - A-di-đà Phật! Vậy ta mừng cho thái tử có được cái trí vô sư bởi thái tử có cái tâm vô nhiễm. Đó là tâm Phật đấy, gắng mà nuôi dưỡng lấy nguồn tâm ấy. Vậy ta hỏi thái tử, người thử ngẫm xem giữa bản thân mình với trang lứa bạn bè cùng tuổi có gì khác chăng? Cảm như thái tử chưa hiểu, thiền sư bèn dẫn dụ ý ta chỉ muốn nói về sự tạo hoá ban cho mỗi con người từ mặt mũi chân tay tới cả cửu khiếu, thái tử có thấy giữa người thuộc dòng dõi cao sang tột bậc như thái tử với người thường có gì khác nhau không? Ví như thái tử có cửu khiếu nhưng người dân thường thuộc đám tiểu nhân, hạ tiện họ có đủ các bộ phận không hay họ chỉ có thất, bát khiếu hoặc ít hơn. Lại nữa tay họ có ngắn hơn, mắt họ có nhỏ hơn, tai họ có bé hơn, mồm họ có méo, mũi họ có vẹo không chẳng hạn. Thái tử ráng nhớ lại xem, họ có gì khuyết, hãm không? Thái tử đỏ mặt vì chợt nghĩ đến một ai đó lại chỉ có tứ, ngũ hoặc thất bát khiếu. Và rồi chàng không kìm nén được lại bật cười, vì ai đó lại thiếu đi một vài bộ phận, chỉ vì người đó không ở trong tầng lớp thượng lưu quý tộc. Chợt nhớ chưa đáp lời thiền sư, và cảm như việc bật cười của mình là khiếm lễ, thái tử bèn chắp tay vái thiền sư và đáp lời: - Xin trưởng lão đại xá. Con không thấy giữa con với đồng loại, dù ở tầng lớp nào, lại có sự khác nhau về hình hài như tạo hoá đã ban cho mỗi con người. Định Hương trưởng lão cũng cười xoà. Ta hỏi thái tử thế, để tự thái tử thấy tạo hoá đã không phân biệt về hình hài, ắt không phân biệt về đối đãi. Nho giáo phân biệt tiểu nhân với quân tử, phân biệt giữa sĩ đại phu với hạ tiện để phân biệt đối đãi, là tự họ gieo mầm bất an trong thiên hạ. Lễ khởi từ nhà Hạ, nhà Thương, rối rắm phiền toái nhất bắt đầu từ nhà Chu. Đầu nhà Chu, nền nếp còn giữ được, giữa và cuối nhà Chu đạo lý rối nát, thiên hạ trở nên đại loạn, sử gọi là đời Chiến quốc. Vì thế Lão Tử mới nói “Lễ là đầu mối của sự loạn. Vứt lễ, bỏ đức theo về với sự hồn nhiên của tạo vật xã hội tất bình yên”. Tuy không chấp nhận sự phân biệt đối đãi quá đáng giữa các tầng lớp người như lễ với luật của Nho giáo, nhưng lại vứt bỏ đi tất cả thì lấy gì để chế trị xã hội như ý của Lão Tử mà trưởng lão vừa dẫn ra. Thái tử thấy trong lòng bứt rứt, nhưng chưa dám bày tỏ. Như đọc được ý nghĩ của thái tử, trưởng lão mỉm cười nhân hậu và tiếp: - Thái tử chưa hiểu được ý của Lão Tử đó thôi. Lão Tử chỉ muốn loài người hãy thuận theo tự nhiên để mà sống. Ví như nhìn vào một rừng cây, ta thấy có cây to, cây nhỏ, cây cao cây thấp, cây cứng cây mềm. Ngạo nghễ như cây tùng cây bách, sống trên đỉnh núi đá cheo leo, bất chấp nóng lạnh, tuyết sương, bão gió. Vươn thẳng lên trời cao chót vót như cây sến, cây chò. Cứng bền hơn cả sắt, đá như cây đinh, cây lim. Mềm mại lả lướt như cây sắn, cây bìm phải dựa vào thân cây khác leo lên để mà sống. Thấp bé tí teo như loài nấm, loài tảo. Tất thảy đều sống yên ổn, cây nào phận ấy. Cây to không nuốt cây nhỏ, cây cứng không diệt cây mềm. Tất cả đều nhận phần ăn trong đất, phần thở theo ánh sáng và khí trời. Trật tự tạo hoá đã bày xếp như thế, nó an hoà biết bao. Nếu loài người thuận theo trật tự ấy mà sống thì xã hội ắt công bằng, ắt bình yên. Chính Lão Tử đã nhận thức được chân lý ấy từ thiên nhiên, nên ông truyền đạt lại cho loài người; trước hết là cho dân tộc Trung Hoa của ông. Đáng tiếc các học giả Trung Hoa không hiểu được tính minh triết của Lão học, nên họ thuần làm ngược lại cao ý của Lão Tử. Vậy chớ thái tử đã hiểu chưa? - Dạ, con hiểu ạ. Ngập ngừng một lát, chàng lại thưa: – Trưởng lão, điều Lão Tử nói kỳ diệu như vậy, sao dân nước ông không theo? - Ta cũng định giảng giải kỹ điều này cho thái tử. Tuy nhiên không phải trong lúc này. Thái tử phải đọc thêm các sách kinh của Phật, các sách của Lão Tử, của Khổng Tử. Thôi được, thái tử cứ ổn định công việc trong phủ, ta sẽ chọn sách rồi cho người đem lại hầu thái tử. Thiền sư im lặng, nhìn ngắm thái tử giây lâu với vẻ hài lòng, sư nói: - Bây giờ nói về điều ta mừng cho thái tử. Trước hết mừng vì cái tâm tuệ của thái tử đã được khai mở. Thứ hai ta mừng vì thái tử mới có một đệ tử rất mực trung thành. Vừa nói, trưởng lão vừa chỉ tay về phía con Huyền Đề. Như cảm được điều thiền sư nói, con chó lập tức vẫy đuôi mừng quýnh. – Nó, chính con khuyển này sẽ hầu hạ thái tử, hộ vệ thái tử như một kẻ hộ pháp đắc lực. Nên nhớ, đây là ý của chư thiên gia hộ cho công cuộc trị bình và hoằng dương chính pháp của thái tử sau này. Ta tiết lậu cho thái tử biết để gắng sửa mình mà hoà vào đạo. Thái tử vái trưởng lão hai vái rồi lui về phủ. Lòng chàng vui phơi phới.