Q1 Chương 31.
Khai Quốc vương dự bàn với mấy người anh em xong bèn lên ngựa về thẳng Trường Yên. Khai Quốc vương vốn là một người mẫn nhuệ, đa mưu túc trí, lại được gia thần vào hàng trí huệ như Đinh Thành cư sĩ, nên mọi việc làm đều có mưu tính trước sau.
Chẳng hạn như việc Khai Quốc vương được cư sĩ gà cho xin với vua Thuận Thiên về mở phủ tại Trường Yên. Cư sĩ Đinh Thành nói: - Vương nghĩ xem, ở nước ta có nơi nào địa thế vừa hiểm trở vừa thuận lợi như Trường Yên. Sát nách hai bên tả hữu đều có sông lớn, có thể dùng vào việc hành binh hoặc luyện tập quân thủy. Hơn chục dặm về phía đông là đã ra tới cửa biển. Phía tây là núi rừng hiểm trở. Đất này đã giúp hai triều Đinh – Lê giữ vững nghiệp đế. Tiến có thể đưa quân đi khắp nơi trong bờ cõi. Xa hơn có thể ra biển, đi tới bất cứ nước nào mà ta muốn. Lúc về, ta có thể thủ thế trong núi, trong hang. Cả một vùng sơn động nổi tiếng từ xưa. Nơi đây, nếu biết dụng binh, có thể nhân sức mình lên gấp cả trăm lần so với nơi khác. Sao Vương không xin với hoàng thượng về trấn trị Trường Yên? Đó là lời mách bảo của cư sĩ Đinh Thành, vị gia thần của hoàng tử Bồ tức Khai Quốc vương. Vì vậy, Khai Quốc vương đã có biểu trình vua cha xin đi trấn trị Trường Yên, với sứ mệnh làm phên giậu cho Thăng Long. Nghe thuận tai và cũng cần có tướng tâm phúc giữ vùng đất hiểm yếu này; vả lại Khai Quốc vương tuy tuổi còn trẻ nhưng mưu lược hơn người, lại được các gia tướng là những người đã từng trải, nên nhà vua bằng lòng cho hoàng tử ra trấn giữ Trường Yên. Từ ngày được về làm chủ đất Trường Yên, Khai Quốc vương để tâm ngay vào việc rèn luyện cho mình một đội binh mạnh. Về hội với các huynh đệ trong phủ Vũ Đức vương, Khai Quốc vương muốn giữ mối quan hệ ràng buộc. Nếu như trong các vương, có vương nào được lên ngôi thay Phật Mã, thì chàng vẫn là chỗ thân tín. Ngược lại, nếu các vương không làm xoay chuyển được tình thế, chuyện lộ ra thì chàng là người ngoài cuộc, vô can. Bởi chàng ở khuất lấp tại nẻo Trường Yên. Phật Mã chẳng lấy căn cứ gì mà trị tội. Còn như lấy danh nghĩa triều đình đem quân trách phạt, thì với địa thế hiểm trở này, với đội quân tinh nhuệ này, sao ta không có thể hùng cứ một phương. Tính toán kỹ càng, mọi việc đều kín như bưng, trong số các anh em, không ai dò biết được thâm ý của Khai Quốc vương, cũng như không ai có cớ gì có thể nghi ngờ vương. Khai Quốc thường cho người về kinh thành hỏi các huynh đệ, và luôn có những món quà lạ gởi biếu các vương. Khi thì cặp ngà voi, lúc lại chiếc mật gấu hoặc mỗi vương một cặp sừng sơn dương làm vật trang trí trong nhà. Cử người về thăm hỏi, biếu xén quà cáp chỉ là chuyện bề ngoài, thực tình vương cho người tâm phúc đi dò xét, thám thính xem sự động tĩnh trong các vương phủ, và cả động tĩnh trong triều đình. Quân về báo, tại các vương phủ của Vũ Đức vương, Dực Thánh vương, Đông Chinh vương đang ráo riết luyện quân như cung nỏ, đao kiếm, giáo truỳ, kết hợp với các môn quyền, cước, đả thương, điểm huyệt. Mọi thứ nghe ra đều gấp gáp lắm. Trong khi đó tại cung Long Đức, đông cung thái tử Lý Đức Chính ngày ngày vẫn đọc sách hoặc bình văn với các bậc sư phó. Đôi khi bàn bạc về các thuật trong Tôn Tử binh pháp với các gia tướng thật là sôi nổi. Có lần thái tử mở cuộc nhàn đàm với các gia tướng, kỳ thực là một cuộc sát hạch. Ví như thái tử hỏi tướng quân Lê Phụng Hiểu: - Giả dụ như phía sau quân ta, có quân giặc truy đuổi gấp. Tới một ngã ba, có một ngả đường rộng thênh thang, mặt đường vắng ngắt, không hề có một dấu hiệu nào chứng tỏ có quân phục. Ngả kia là đường độc đạo len giữa hai vách núi dựng đứng, đây đó có một vài lá cờ như là cờ hiệu lại loáng thoáng có những ngọn khói trắng bốc lên, chứng tỏ trong rừng có quân đóng, ngoài đường có quân phục. Vậy nếu tướng quân nắm quyền tổng quản, tướng quân sẽ cho quân đi theo đường nào? Cau vầng trán rộng, vẻ suy tư và lim dim đôi mắt chim ưng, Lê Phụng Hiểu đáp: - Theo thiển ý của thần, trong binh pháp có nói hư hư thực thực, lấy thực làm hư, lấy hư làm thực để lừa địch, dụ địch hoặc tránh địch. Phép này thiên biến vạn hoá. Cái cảnh ngộ mà thái tử hỏi đó thật khó nói. Bởi khi lâm trận, phải biết kẻ đối đầu với mình là ai, trí lự họ đến đâu, tài cán họ đến đâu mà ứng phó. Nhưng thông thường, ít ai dám dẫn đại quân đi vào đường hẻm. Đối phương không dại gì mà không dụng cái thế nhất nhân địch vạn, nhờ vào sự hiểm trở của núi rừng. Còn như biết chắc nơi đường lớn có quân phục, có thế trận đã bày sẵn thì phải cứu xét nó là thế trận gì mà tìm ra cách phá. Lấy cái mạnh nhất thời của ta đánh vào chỗ yếu nhất thời của địch, chắc sẽ chuyển được từ thế bị địch chặn sang thế chặn địch. Trong binh pháp gọi thế này là “phản vi chủ”. Thế trận mà thái tử vừa hỏi thần, chính là kế của Khổng Minh sai Quan Vân Trường bắt Tào Tháo nơi Hoa Dong tiểu lộ. Sở dĩ Khổng Minh thắng Tào Tháo ở trận này, là do ông nắm được tâm lý đa nghi của Tháo chứ thực ra Tào Tháo đâu phải là tướng tồi. Vì thế thần mới nói, phải xem tướng đối địch với mình là người như thế nào, thì sự đối phó mới hợp. Vả lại, bẩm thái tử, nếu đi vào đường lớn, mà ta đề phòng sẽ có quân phục thì ta lập kế đánh phản phục, nếu không thu toàn thắng cũng không thể bị thiệt hại nhiều như đi đường hẻm. Bởi đường hẻm, không cách gì có thể khai triển được lực lượng, phát huy được cái mạnh sở trường của quân ta. Thái tử gật đầu, có vẻ đẹp lòng về các kiến giải của tướng Lê Phụng Hiểu. Đoạn chàng quay sang hỏi đô Sắn tướng quân: - Nếu lâm trận, ngươi phải giao đấu với một lão tướng dày dạn chiến trường của giặc. Vị lão tướng ấy tuy tuổi cao, nhưng sức lực không thua kém ngươi, võ nghệ ngang tầm với ngươi; ngươi sẽ đối phó ra sao? Đô Sắn vốn là một cậu bé mồ côi cha mẹ, nhà nghèo, thất học ở với bà, được ông xã trưởng Lương Thanh Khiết gả con gái và gởi theo học với các bậc thiền sư danh tiếng. Sau gặp thái tử Phật Mã thu dụng như ta đã biết. Thái tử lại cho theo đoàn viễn chinh sang Chiêm Thành lập được công lớn. Đô Sắn bây giờ là một đô tướng có học, chớ không phải thằng cu Sắn của bà cụ Giá bị xã trưởng Thằng chèn ép như dưới thời Lê Ngọa triều nữa. Thấy thái tử đưa ra một giả tưởng để Sắn ứng phó, chàng lập tức đưa nó vào đầu và bắt nó hiển lộ. Chàng hình dung một viên dũng tướng tả xung hữu đột, đang bổ một cây đại đao xuống đầu chàng. Sực nhớ thái tử hỏi, Sắn vội đáp: - Tâu thái tử, gặp một lão tướng võ nghệ cao cường, sức lực dư thừa, kinh nghiệm dồi dào thần trước hết phải kính cẩn và thận trọng. - Tại sao phải kính cẩn? Thái tử hỏi – Lâm trận, bất phân già trẻ, gặp khi đối phương sơ hở phải đánh phủ đầu để giành phần thắng chứ? Sắn nhoẻn miệng cười rất tươi. Chàng vòng tay bái thái tử, rồi tiếp: - Tâu, người lớn tuổi, thần coi như cha thần, nên phải kính cẩn. Nói năng phải lễ độ. Vào giao đấu, thần phải bái trước để xin phép, bởi trong khi đánh nhau quyết liệt vì lẽ tồn vong không thể nhường, nhún. Rồi thần còn phải mời vị trưởng thượng đó ra đòn trước. Gặp khi họ bất lợi vì binh khí bị đánh gãy, hoặc đánh bật ra khỏi tay, thì thần phải ngừng tay đao để đối phương thay binh khí. Dạ bẩm, thái tử đã từng dạy thần về lễ trong giao đấu. Các sư phụ và sư huynh cũng đều răn dạy như thế, sao thần dám làm trái được. - Tiếp đó là gì nữa? Thái tử hỏi. - Bẩm thái tử, thần phải vừa đánh vừa dò xem sự biến ảo của các ngón đòn có gì lợi hại. Người giỏi võ lại từng trải trận mạc, qua giao đấu cả trăm hợp cũng chưa chắc đã phát lộ được điểm yếu của họ. Nhưng thưa thái tử, dù giỏi giang đến mấy mà tuổi cao, thì đánh tới năm trăm hiệp tay đao ắt đã kém phần linh lợi. Dẫu có đòn hiểm cũng khó bề thi triển. Dạ, đối với các cao thủ mà giao đấu với đối phương trẻ tuổi, trong vòng một trăm hiệp đầu, thường là người trẻ tuổi bị thua. Dạ, thua vì tuổi trẻ hay mắc tính kiêu ngông, vừa vào trận đã toan hạ gục đối thủ. Do háo thắng, nên rất dễ sơ hở. Mà đối với các bậc cao thủ, chỉ cần một sơ hở nhỏ của đối phương là họ có thể hạ gục đối phương ngay tức thì. Dạ, gặp đối thủ như vậy, thần phải rèn cho mình ý chí quyết đấu và quyết thắng. Nhưng phải kiên nhẫn quần cho đối phương phải bộc lộ nhược điểm, trong khi sức của họ xuống dần, sức của thần vẫn còn sung mãn, nhằm đúng lúc họ vừa mệt vừa sơ hở thì việc hạ gục họ chỉ còn trong giây lát. - Khá khen cho ngươi. Thái tử rất bằng lòng về sự tiến bộ vượt bậc của đô Sắn. – Ta hy vọng, vương nói tiếp – ngươi sẽ là một tướng giỏi của triều đình. Nhìn Ngô An Ngữ, một người điềm đạm, tuy tuổi không còn trẻ, nhưng Ngô là một tướng cơ mưu, dòng dõi Ngô tiên chúa, ông đã từng làm quan dưới triều Lê Trung tông, Lê Long Đĩnh cùng với phụ vương ta. Thái tử nói: - Ta muốn dành cho tướng quân một câu hỏi, mà ngay chính ta cũng rất lúng túng trong phép giải đáp. Chẳng hay tướng quân có vui lòng ứng hợp. Ngô An Ngữ vui vẻ: - Bẩm thái tử cứ dạy, phận bề tôi, thần biết đến đâu, tâu đến đó. - Vậy thì nếu tướng quân được cử đi bình một đất nước mà người dân được chăm sóc no đủ. Vua nước họ được dân kính, dân yêu. Quan lại trong ngoài triều đều biết chăm dân, lo cho dân có cuộc sống an lạc. Nước họ biết sống hoà hiếu với lân bang. Đó, nếu phải chinh phục một nước như vậy, tướng quân dùng phương sách nào. Dường như không cần phải suy nghĩ, tướng Ngô An Ngữ liền đáp: - Bẩm thái tử, một nước mà vua tôi đồng lòng như vậy, vua yêu dân như con, dân kính vua như cha. Quan lại cũng một lòng một dạ vì nước, vì dân. Nước ấy lại hiếu hoà, không một lân quốc nào bị coi là nước địch. Tâu thái tử, nếu có một nước như thế mà kẻ nào dám kéo quân đến xâm phạm, chắc chắn là thủ bại. Một nước như thế, không kẻ thù nào không bị đánh bại. Thần trộm nghĩ, nếu có một nước như thế, thái tử nên xin với hoàng thượng mau mau kết hảo. Thái tử Lý Phật Mã bỗng cười phá lên. - Quả đúng là như vậy. Tướng quân có tư cách của một bậc nhân tướng! Ôi, ta không thể không vui sướng vì có các tướng như ông phò tá. Từ ngày đông cung hoàng thái tử Lý Đức Chính được vua cha triệu về và cho ở cung Long Đức để gần cận tiện bề cho nhà vua giáo hoá và trao truyền những yếu chỉ trong phép trị nước, thái tử luôn sửa mình để nghe vua cha răn dạy. Chàng vui mừng vì vua cha không chỉ nói những điều hay, và cả những điều dở đã đem ra thi thố mà mình không tự biết. Vua cha nói về cái thành cũng có, nhưng thường là nhà vua nói về cái bại của mình để làm gương răn dạy thái tử. Có lần thái tử đã mạnh dạn hỏi: - Thưa phụ hoàng, làm thế nào để có thể biết được các chính lệnh của triều đình ban ra là đúng hoặc là sai. Nhìn thái tử với cái nhìn bao trùm, nhà vua như một lần nữa nhắc cân xem con người này – cái phần máu thịt này của ta, có đủ sức gánh vác việc lớn quốc gia. Không phải đây là lần đầu tiên ngài có suy nghĩ như vậy. Thực ra đã rất nhiều lần ngài đem chuyện kế vị ra bàn trong khu mật viện, rằng phải cân nhắc thật kỹ càng, trong số các hoàng tử, ai là người đủ đức, đủ tài ở ngôi quân trưởng. Nhà vua có nhiều hoàng tử, nhưng thực tài, rốt lại chỉ có hai người. Đó là Chính và Bồ. Tức là Khai Thiên vương và Khai Quốc vương. Hai người này tài thì xấp xỉ ngang nhau, nhưng đức thì Chính hơn hẳn Bồ. Thực ra nhà vua còn một hoàng tử thứ tám nữa là Uy Minh vương Lý Nhật Quang thường được khen là người có đức. Nhưng vì tính nhân, nhu thái quá, sợ gặp việc lớn khó quyết nên vua không chọn lập; nhưng lại hết lòng yêu thương chăm sóc. Khu mật viện đã bàn đi bàn lại, nhà vua cũng cân nhắc mãi. Ngài đặt lợi quyền quốc gia lên trên hết, không câu nệ vào chuyện con trưởng, con thứ, miễn là người ấy phải có tài và có đức. Thật ra thì không phải không có nhiều người nói tốt cho Bồ. Vua biết Bồ rất khôn ngoan, hay lo lót cậy nhờ người này người khác. Còn Chính thì đúng là một cái cây mọc thẳng. Nó là một người vừa trung thực, vừa bộc trực mà có thiện tâm. Cái mà một người làm việc lớn trên phương diện quốc gia cần phải có, là tính vị nhân chứ không vị kỷ, là lòng khoan dung. Cái đó ta thấy có ở Chính. Vậy ta yên tâm trao truyền ngôi báu. Triền miên mãi với các ý nghĩ gần xa, vua Thuận Thiên chợt nhớ đến câu hỏi của con. Ngài thân mật đáp: - Này con, mỗi khi chính lệnh ban ra, con phải luôn nghĩ về nó. Nếu lương tâm con không áy náy, chắc là ổn đó. Nhưng người có thể xem xét chính lệnh của triều đình ban ra hợp hay không hợp lòng người, ấy chính là dân. Còn triều đình thì bao giờ mà chẳng đúng. Suy cho cùng thì chính lệnh gì cũng đổ lên đầu dân. Vậy muốn biết điều này, phải cử người của triều đình về các miền quê, kể cả nơi thôn cùng xóm vắng nghe ngóng xem người dân khi thi hành các chính lệnh ấy, thì có lợi hay có hại cho họ. Có lợi thì họ khen, có hại thì họ oán. Cứ theo đó khắc biết mà chỉnh bị lại cho ngay chính. Việc này ta đã đặt chức xuất nạp quan. Qua đó có thể đo được lòng dân.